Hạng B2
28/8/06
454
0
0
Toyota Corolla
Corolla là dòng xe nhỏ của Toyota, kể từ ngày xuất hiện vào năm 1966 Corolla đã trở nên phổ dụng trên khắp thế giới. Corolla là mẫu xe bán chạy nhất thế giới, tính đến năm 2007 đã có hơn 30 triệu xe đươc bán.
Corolla hiện đang được sản xuất tại Nhật, Mỹ, Anh, Canada, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Pakistan, Nam Phi, Brasil, Thổ, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Venezuela và Ấn Độ.
Ký hiệu thiết kế khung gầm của Corolla là “E”
Các mẫu biến thể sử dụng khung gầm của Corolla
Mẫu xe cắt giảm spec Toyota Sprinter được bán tại thị trường nội địa. Nó được thay thế bằng Toyota Allex năm 2001, và sau đó được thay thế bằng Toyota Blade vào năm 2006. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều mẫu xe khác bao gồm Corolla Ceres mui cứng ( và mẫu tương tự là Sprinter Marino) , mẫu 2 cửa thể thao và hatchback Corolla Levin và Sprinter Trueno và mẫu hatchback Corolla FX mà sau đó trở thành Corolla Runx. Runx được thay thế bằng Auris vào năm 2006.
Qua nhiều năm thì cũng có các mẫu đổi tên của Corolla, bao gồm mẫu Holden Nova trong những năm 1980 tại Úc và các mẫu dựa trên Sprinter là Chevrolet Nova, Geo Prizm tại Mỹ.

Thế hệ thứ nhất — E10 — tháng 10 năm 1966
First_Generation_Toyota_Corolla.jpg

Corolla được giới thiệu tại Nhật vào năm 1966..Chủ tịch Eiji Toyoda đã phát biểu rằng Toyota đã rất cố gắng để phát triển dòng xe phổ thông. Đối thủ chính khi đó là chiếc Datsun 1000, được giới thiệu trước Corolla một vài tháng.
Loạt xe đầu tiên có ký hiệu KE1x là loại xe nhỏ có chiều dài cơ sở 2286 mm. Hệ thống truyền động 4 số tay hoặc 2 số tự động, dẫn động cầu sau. Vào thời điểm đó, số sàn chỉ được dùng cho xe tải và hộp số 4 số chỉ ra rằng động cơ không đủ momen xoắn để lái với 3 số (momen xoắn cao hơn cho phép mỗi số có khoảng vòng quay động cơ lớn hơn, do đó cần ít số hơn). Đây là sự mạo hiểm lớn của Toyota, nhưng sự hiệu quả của hệ thống mới đã trở nên thông dụng.
Hệ thống treo phía trước là kiểu MacPherson được hỗ trợ bởi thanh nhíp nằm ngang phía dưới thanh ngang của động cơ và được nối với trục cố định ở phía sau.
Khởi đầu của động cơ là loại dưới 1000cc nhưng sau đó trong quá trình thiết kế được đổi thành 1077cc nhằm cạnh tranh với Datsun 1000. Điều này làm cho Corolla phải chịu mức thuế cao hơn, nhưng cũng mang lại danh tiếng với đối thủ Datsun 1000 - bằng chiến dịch quảng bá “lợi thế của 100cc”. Đến năm 1969, động cơ được nâng cấp lên 1166cc.

Thế hệ thứ 2 — E20 — 1970
250px-Corolla1974.jpg

Thế hệ thứ hai KE2# / TE2# , được giới thiệu năm 1970 có kiểu dáng “chai Coca cola”. Thế hệ này có chiều dài cơ sở lớn hơn (2334 mm. Thiết kế của hệ thống treo phía trước được cải tiến rất nhiều bằng cách sử dụng thanh cân bằng, tuy nhiên phía sau thì vẫn là thiết kế cũ. Chiếc Corolla trở thành xe bán chạy thứ 2 thế giới trong năm đó. Có 3 chủng loại cho xe Sedan Standard, Deluxe và Hi-Deluxe. Loại 2 cửa có Deluxe, SL, SR và Levin.
Chiếc TE27 Levin được giới thiệu trong games Auto Modellista, một tựa games đua xe của Capcom.
Vào năm 1973, Corolla có thay đổi nhỏ : lưới tản nhiệt, đèn xi nhan, đèn đuôi được thay đổi.
Thế hệ thứ 3 - E30, E40, E50 — tháng 4 năm 1974
1976_Toyota_Corolla.jpg

Thế hệ thứ 3 của Corolla sản xuất từ 1974-81 có code KE3x/KE5x, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của Toyota trên đất Mỹ trong tình cảnh khủng hoảng dầu mỏ. Mặc dù có vài mẫu xe của thế hệ 4 có vòng đời dài hơn, khi xem xét tổng thể thế hệ 3 là thế hệ dài nhất, có lẽ là do tình trạng suy thoái kinh tế thế giới những năm. Rất nhiều loại xe được xây dựng trên hệ thống khung gầm cuả thế hệ 3, bao gồm Corolla, Sprinters, Daihatsu, và 2 mẫu thể thao Levin và Trueno.
Động cơ 3K được sử dụng ở một vài thị trường và sau đó thay thế bằng 4K, trong khi các mẫu ở thị trường Nhật và Mỹ là loại động cơ 2T lớn hơn. Thế hệ này được thêm hộp số tự động 2/3 số bên cạnh loại số sàn 4 và 5 số, dẫn động cầu sau. Mẫu xe 3 cửa (E50) và thể thao 2 cửa (E51) được giới thiệu vào năm 1976. Ký hiệu E40 và E60 được sử dụng cho loạt xe Sprinter.
Thế hệ thứ 4 — E70 — 1979-1987
250px-79-83_Toyota_Corolla.jpg

Thế hệ thứ 4 được ra mắt vào năm 1979 tại Nhật là loại hộp và có toàn bộ các xe dẫn động cầu sau cuối cùng..
Thế hệ này (bên cạnh mẫu wagon) có hệ thống treo sau 5 lò xo và chiều dài cơ sở dài hơn (2400mm). Ở một vài thị trường còn có thêm lựa chọn động cơ mạnh mẽ 1.8l (1770cc) có mã 3T, còn phần lớn ở các thị trường vẫn dùng loại động cơ 4K cũ. Sự tiến bộ đáng chú ý về động cơ chỉ xuất hiện khi Toyota giới thiệu loại động cơ 4A-C 1.6l (1587cc). Động cơ trục cam đơn có vỏ bọc bằng nhôm, mặc dù có kích thước to và nặng hơn các động cơ dòng K và T , là sự cải tiến vượt bực về khả năng hoạt động. Đây có lẽ là thế hệ Corolla cuối cùng sử dụng loại động cơ có xi lanh bằng thép, vì Toyota đã quyết định tập trung đặc biệt vào thiết kế động cơ trục cam, vỏ bọc nhôm từ thời điểm đó. Đây cũng là thế hệ đầu tiên có trợ lực lái. Tại thị trường Mỹ, động cơ này được giới thiệu năm 1982. Mẫu năm 1980-1981 tại 1 số thị trường có 4 đèn trước, tất cả các mẫu năm 1982-1983 có 2 đèn pha, đèn sau được thiết kế lại và có bumper mới.
Trong năm 1980, sản lượng hàng ngày của Corolla đạt mức cao kỷ lục, trung bình là 2,346 xe/ngày.

Thế hệ thứ 5 — E80 — 1983
250px-Toyota-Corolla-E80-hatch.jpg

Khi xem xét thời điểm đó, thế hệ thứ 5 được coi là thế hệ phổ dụng nhất của Corolla, hơn 3.3 triệu xe đã được sản xuất. Ở thế hệ này, Corolla được thiết kế dẫn động cầu trước, trừ mẫu AE85 và AE86 Corolla Levin / Sprinter Trueno (SR-5 / GT-S tại Mỹ) vẫn tiếp tục dùng dẫn động cầu sau.
Loại dẫn động cầu trước có chiều dài cơ sở là 2428 mm.
Đây là mẫu Corolla lần đầu chiếm vị trí dẫn đầu trong top 10 của New Zealand, kết thúc sự thống trị của Ford tại thị trường này. Loạt xe hatchback được gọi là Corolla FX ở Nhật và Corolla Compact ở Đức được giới thiệu năm 1984 với thiết kế dẫn động cầu trước. A "short" hatchback range, called the Corolla FX in Japan and the Corolla Compact in Germany, arrived in 1984, on the front-wheel-drive platform. Loại xe hatchback 3 của và 5 cửa gần tương tự Corolla sedan với thùng sau được thu gọn.
Động cơ 16 van cam kép mã thiết kế 4A-GE được giới thiệu năm 1983 cho các xe dẫn động cầu sau. Đây là loại động cơ 1.6l (1587cc) 4 xi lanh thẳng hàng có công suất rất ấn tượng 124hp (92kW) mang lại danh tiếng xe thể thao thông dụng cho các mẫu Levin/Trueno (Nhật), Corolla GT coupé (châu Âu) và Corolla GT-S. Động cơ này cũng được kết hợp với cầu trước để dùng cho mẫu xe lắp động cơ giữa Toyota MR-2.
Mẫu xe thể thao Sprinter, ở 2 dạng coupé và liftback 3 cửa, được chú ý vì là mẫu đầu tiên trong dòng xe sử dụng đèn pha pop-up mà mẫu xe thể thao tương ứng Corolla Levin không có. Những mẫu xe AE86 này đã trở nên bất tử trong loạt truyện tranh Initial D và cũng được dùng trong các games đua xe Need for Speed: Underground 2, Gran Turismo 2, 3 & 4, the Tokyo Extreme Racer series, Auto Modellista và trong games mới nhất Need For Speed: Carbon.
Chiếc xe Corolla FX mới, sản xuất tại nhà máy NUMMI tại Mỹ xuất hiện năm 1987. Nó có ở 2 dạng động cơ cam đơn và cam kép, sau đó được tiếp thị với tên FX-16.

Thế hệ thứ 6 — E90 — tháng Năm 1987
250px-88-92_Corolla.jpg

Tất cả các mẫu Corollas đều là dẫn động cầu trước cho thế hệ này và bắt đầu được sản xuất từ tháng 5 - 1987. Cho mục đích xuất khẩu, các cấp độ trim là Base, XL, GL, SE, và SE Limited. Chiếc GT-i được bán với số lượng hạn chế ở một vài nước. Mẫu dẫn động 4 bánh Sprinter Carib wagon sử dụng hệ thống treo sau với trục cố định và lò xo, còn các mẫu khác dùng thanh giằng . Chiếc wagon trên được bán trong khoảng 1988 đến 1994 và có thân xe khác so với các mẫu Corolla khác. Tại thị trường Mỹ nó được gọi là All-Trac còn ở các nước khác được bán dưới tên Tercel hoặc Corolla. Nhìn chung, tất cả các mẫu đều khác kiểu dáng hình hộp của thế hệ trước mang lại vẻ hiện đại và cải thiện về khí động học.
Chiếc Sprinter five-door liftback được gọi là Cielo tại Nhật và đổi tên là Corolla tại châu Âu, mặc dù có thời gian tại Ireland nó được gắn tên "Sprinter GLS" thường là dùng decal trông rẻ tiền thay cho chữ bằng nhựa mạ chrome ở các mẫu xe Toyota khác.
Mẫu xe công suất cao GT-i sử dụng động cơ 4A-GE, có ở các dạng 3-door hatchback, sedan, và 5-door liftback. Chiếc GT-S coupé tại Bắc Mỹ cũng dùng chung động cơ trên.

Thế hệ thứ 7 — E100 — tháng 6 năm 1991
250px-Toyota-Corolla-6.jpg

Chiếc Corolla thế hệ này(AE10x/EE10x) rộng hơn, nặng hơn và có kiểu dáng khí động học hơn mẫu cũ, được phát triển bởi kỹ sư trưởng Dr. Akihiko Saito, người mong muốn phát triển 1 chiếc 'mini-Lexus', sau thành công với mẫu xe dẫn đầu trên. Có chiều dài cơ sở 2465 mm, Corolla trở thành mẫu xe hạng trung mà trước đó là thị trường của mẫu Toyota Corona và Camry. Mẫu coupé ngừng sản xuất tại thị trường Bắc Mỹ, thay thế bằng chiếc Paseo.
Nickname của Corolla tại Indonesia là “Great Corolla". Các loại trim là 1.3 SE và1.6 SE-G. Chiếc 1.3 được thay thế bằng 1.6 SE vào năm 1994.
Các loại 1.3 XLi, 1.5 GLi sedan, wagon, và Levin 1.5 SJ coupé được bán ở thị trường Hong Kong.
Tại thị trường Philippines, có 3 biến thể là XL và XE dùng động cơ 1.3-liter carbureted (2E) và GLi dùng động cơ 1.6-liter phun xăng bằng motor (4A-FE). Mẫu xe cao cấp nhất có cả loại số sàn và số tự động. Corolla là loại xe 1.6l đầu tiên dùng larăng đúc 14” tại nước này. Các tính năng tiên phong khác là seatbelt cho ghế sau (cuối 1994) và túi khí cho người lái (cuối 1995).

Thế hệ thứ 8 — E110 — tháng 5 năm 1995
250px-98-00_Toyota_Corolla_2.jpg

Thế hệ thứ 8 dùng chung khung gầm (và ở 1 số mẫu có thêm cửa) với thế hệ trước. Do suy thoái kinh tế, Toyota yêu cầu kỹ sư trưởng Takayasu Honda cắt giảm chi phí, do đó dẫn tới việc 1 số thiết kế dùng của thế hệ trước.
Ở các thị trường chung Corolla có các biến thể Base, XLi, GLi, và SE-G.
Mỹ (1998-2002)
Tất cả các xe Corolla ở Bắc Mỹ được sản xuất tại California (by NUMMI) hoặc Canada (by TMMC). Tất cả các mẫu đều dùng động cơ nhôm hoàn toàn mới, làm cho thế hệ này nhẹ hơn các thế hệ trước. Tại thị trường Mỹ chỉ có loại sedan, các biến thể là VE, CE, and LE. Công nghệ VVT-i được dùng từ năm 2000.
Châu Âu và Đại dương (1996-2001)
Mẫu xe tại đây có đầu và đuôi khác so với thị trường Nhật, dù vậy thì nội thất được giữ nguyên giống ở Nhật. Có thể phân biệt bằng đèn pha tròn và lưới tản nhiệt dạng lưới

Thế hệ 9 — E120 — tháng 8 năm 2000
hisAltis2006.jpg

Chính là thế hệ hiện tại ở Việt Nam. Thế hệ 9 (NZE120/ZZE120) được giới thiệu tháng 8 năm 2000 với kiểu dáng góc cạnh hơn và có chiều dài cơ sở 2600mm. Nó được xây dựng dựa trên khung gầm ngắn hơn của Toyota Vista.
Corolla cũng có biến thể xe đa dụng khác là chiếc Matrix, được bán tại Canada và Mỹ, và nó cũng tạo dựng nên các cơ sở cho chiếc Pontiac Vibe. Chiếc Vibe với lưới tản nhiệt khác được bán ở Nhật và có tên gọi là Toyota Voltz.
Đông Nam Á
Một biến thể của mẫu Corolla với tên gọi Corolla Altis được bán ở thị trường này. Chia sẻ thiết kế đầu và đuôi giống thị trường Mỹ, chiếc Altis được nhắm đến những khách hàng cần sự thoải mái hơn so với chiếc Corolla hiện tại nhưng lại không muốn mua chiếc xe sang trọng hơn là Camry. Corolla Altis được sản xuất tại Thái . Có 2 phiên bản động cơ : 1.6 3ZZ-FE (116hp) và 1.8 1ZZ-FE (134hp), cả 2 đều có công nghệ VVTi. Mẫu xe Altis được bán tại Indonesia, Malaysia, Pakistan, Philippines, Singapore, Taiwan, Thailand và Việt Nam. Năm 2004 có thay đổi nhỏ cho Altis, với lưới tản nhiệt mới, đèn hậu dạng LED và larăng thiết kế khác.
Thế hệ thứ 10
exterior01.jpg

Chuẩn bị xuất hiện tại Việt Nam



Nguồn Answers.com
http://www.answers.com/toyota%20corolla
 
Last edited by a moderator:
Hạng B2
9/5/07
161
1
16
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Con này chạy đầy đường ở bên trung quốc rồi,rẻ hơn Vios VN mình nhiều nhá
 
Hạng B2
19/10/07
108
1
0
53
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Các bác ơi, làm sao phân biệt được Corolla nhập và Corolla LD?
 
Hạng B2
13/7/07
126
0
16
vnexpress.net
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

em vừa thấy trên đường láng hạ có 1 con Corolla 2009 màu xanh đang đậu ở đấy! lạ nhỉ bởi vì hôm kia em vừa đọc VNexpress thấy TO mới mang sang Mỹ được vài ngày mà! sao nhanh thế nhi. Mà cách đây nửa năm em cũng nhìn trên vnexpress thấy Corolla 2009 ở Nhật đèn trước nhìn trố ra giống camry2007 và còn có bộ đèn bixenon hay đèn thấu kính lồi gì đấy mà nhỉ?
 
Last edited by a moderator:
Hạng B2
12/11/07
116
1
0
53
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Bác cho em hỏi: Corolla lắp ở VN đời 2000 là thế hệ Corolla thứ mấy, động cơ có VVT chưa? có ABS chưa ạ?
 
Hạng B2
2/8/07
460
8
18
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Trích đoạn: Tienanh

Bác cho em hỏi: Corolla lắp ở VN đời 2000 là thế hệ Corolla thứ mấy, động cơ có VVT chưa? có ABS chưa ạ?


đời đó vẫn thuộc là bình thường đó bác ơi. hem có abs đâu!! vợ 2 mình mà. khà khà

VVT là phun xăng điện tử hả bác? cái này lại càng ko nữa. nói chung thì đời này đến 2002 thì như nhau cả. toàn những thứ cơ bản hết. AB cũng hem c1o lun
 
Hạng B1
15/6/07
51
70
18
minhhiendx
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Các Bác cho E . hỏi toyota corolla thế hệ 10 đã có trợ lực điện như Vios nhà Ta chưa ? E. kết trợ lực điện lắm nhưng lại cực ghét Vios Nếu có để Em ráng đợi
 
Hạng B2
28/8/06
454
0
0
RE: Lịch sử các thế hệ xe Corolla

Up lại chào mừng ngày mai giới thiệu xe Altis mới nào.
Lát nữa em công bố giá trước cho các bác nghiên cứu