http://autodaily.vn/2012/10/nissan-altima-va-con-duong-tro-thanh-huyen-thoai/
Có lẽ hiện nay, Nissan Altima là cái tên “khó chịu” nhất trong cuộc chạy đua trong phân khúc sedan cỡ trung. Con đường mà chiếc xe này rong ruổi đã có những bước ngoặt quan trọng như thế nào?
Thành công vang dội trên tất cả các thị trường, Nissan Altima đã làm cho ngành công nghiệp ôtô phải đi hết từ bất ngờ này cho đến choáng ngợp khác. Qua 20 năm ra đời và phát triển, với 5 thế hệ đã được ra mắt đến thời điểm này, Altima không còn đơn thuần là một chiếc xe sedan cỡ trung “chấp nhận được”, mà đã vươn tầm lên thành một cánh chim đầu đàn trong phân khúc và đang ôm mộng lật bá xưng vương.
Thế hệ thứ nhất: 1993-1997
Cái tên “Altima” ban đầu ám chỉ một mô hình của chiếc xe cỡ vừa Nissan Laurel được bán ở Trung Mỹ và vùng Ca-ri-bê trước năm 1992. Năm 1993, Nissan ngưng sản xuất dòng Stanza và thay thế bởi chiếc Altima được sản xuất tại Mỹ. Chiếc Altima đầu tiên lăn bánh khỏi dây chuyền lắp ráp ở Smyrna Tenn vào tháng 6 năm 1992 như mô hình 1993. Tất cả Altima đều được sản xuất ở Smyrna cho đến tháng 6 năm 2004 khi nhà máy Canton của Nissan ở Missisippi bắt đầu sản xuất bổ sung Altima để áp ứng nhu cầu cao của thị trường.
Ban đầu, tên chính thức của chiếc xe là “Stanza Altima”. Bạn có thể nhìn thấy dòng chữ nhỏ “Stanza” phía bên trái của biểu tượng Altima trên nắp cốp của những mô hình năm 1993. Mặc dù cái tên Stanza được đặt ở đó chủ yếu là để tuân thủ quy định chứ không phải Nissan thiếu tự tin về việc đổi tên chiếc xe cỡ vừa trong dòng 3 sedan lâu đời Sentra-Stanza-Maxima, nhưng vẫn làm dấy lên những lo ngại vào thời điểm đó về sự chấp nhận của công chúng. Lo lắng này là không có căn cứ bởi Altima đã có một tác động gần như ngay lập tức vào phân khúc sedan cỡ trung, lúc đó đang bị thống trị bởi hai người đồng hương Honda Accord và Toyota Camry.
Tất cả các mô hình Altima đều sử dụng động cơ DOHC 4 xy-lanh thẳng hàng 150 mã lực của Nissan phối hợp cùng hộp số sàn 5 cấp hoặc tự động 4 cấp. Hệ thống treo bao gồm thanh chống và thanh ổn định ở cả hai đầu và được ghi nhận cung cấp vẻ thể thao cũng như đáp ứng được quá trình xử lỷ. Các phiên bản bao gồm mô hình cơ bản XE, mô hình trung bình GXE, thể thao SE và sang trọng GLE.
Mô hình cơ bản XE vô cùng hiếm sử dụng cửa sổ quay tay. GXE sở hữu cửa điện, một ăng ten có thể thu vào bằng điện, đồng hồ kỹ thuật số ở bảng điều khiển và màu sắc phù hợp với lưới tản nhiệt bằng plastic. XE và GXE chỉ có công tắc gạt nước gián đoạn được cố định.
Ngoài các tính năng trên GXE, SE sở hữu một hệ thống treo vững chãi hơn, đèn sương mù, tấm cản dòng phía sau có giá 3 chân, các tấm chắn bên và ghế ngồi thể thao (cộng thêm một cửa sổ trời tiêu chuẩn vào năm 1994-1995). Nó cũng sở hữu hệ thống phanh 4 bánh, chỉ xuất hiện trên các mô hình khác khi phanh chống bó cứng được yêu cầu.
Các cải tiến của GLE bao gồm một màn hình kĩ thuật số head-up (chỉ vào năm 1993 và 1994) có thể hiển thị tốc độ theo mph hay km/h, tín hiệu rẽ. Các tính năng khác bao gồm một ngăn để tiền xu được thiết kế vào nắp bảng cầu chì (1993 và 1994), hỗ trợ điều chỉnh thắt lưng trên ghế trước, hệ thống kiểm soát khí hậu tự động, mở xe không cần chìa với báo động (tùy chọn), thảm sàn, đèn báo rẽ, cửa sổ trời và một hệ thống âm thanh CD/Cassette 6 loa cùng lưới tản nhiệt màu đen. Tất cả SE và GLE đều được trang bị bánh xe hợp kim và cần gạt nước liên tục.
Altima 1993 đi cùng bảng điều khiển màu sắc bằng gỗ hồng sắc và chỉ có một túi khí bên của lái xe, dây an toàn tự động. Altima 1994 sở hữu bảng điều khiển bằng gỗ tối màu, một túi khí hành khách và dây an toàn tiêu chuẩn. Mô hình 1995 mang đến một lưới tản nhiệt kiểu dải chớp mới, đèn hậu mới (màu đỏ và rõ ràng) và một tấm cản dòng có giá 2 chân cùng đèn phanh LED màu đỏ cho SE. Nissan cũng thêm các nắp chụp bánh xe cho các mô hình cơ bản vào năm 1996. Năm 1997, GXE mang đến gói tùy chọn “giới hạn” bao gồm bánh xe hợp kim, mở xe không sử dụng chìa, báo động, thảm sàn và một lô gô phiên bản giới hạn ở mỗi bên gần bánh xe trước. Phần lớn những mô hình Altima năm cuối cùng được mệnh danh là mô hình “1997.5” nhằm thông báo về các bảo vệ va chạm cần thiết được thêm vào để đáp ứng các tiêu chuẩn va chạm bên năm 1997.
Thế hệ thứ hai (1998-2001)
Altima thế hệ thứ hai được bắt đầu sản xuất vào năm 1998 và tiếp tục đến các mô hình năm 2001. Một lần nữa mô hình này lại được thiết kế ở California và sản xuất ở Tennessee, nó mang nhiều sức mạnh hơn (155 mã lực trước năm 2000) và cảm giác lái xe phản ứng nhanh hơn. Chiếc xe cũng cung cấp nội thất thỏa mái hơn nhiều, chất lượng cao hơn và nhiều tùy chọn thiết bị. Đối với năm 2001, mô hình phiên bản giới hạn đầu tiên được giới thiệu và trở thành một phần quan trọng trong chiến lược định giá của Altima những năm sau đó.
Thế hệ thứ hai (khung mô hình L30) là phiên bản dành riêng cho thị trường Mỹ, một lần nữa lại được thiết kế bởi trung tâm California của Nissan. Nội thất mới mang đến một hộp để găng tay mới và ngăn để cốc, ghế sau có thể gập lại (trừ bản XE) và các túi khí.
Kích thưởng tổng thể vẫn giữ nguyên, nhưng mang đến một cảm giác phân phối không gian tốt hơn và kết quả là một ca-bin rộng rãi hơn.
Các phiên bản bao gồm mô hình cơ bản XE, GXE, SE và GLE. Mô hình thể thao SE có thể được phân biệt bởi lưới tản nhiệt màu nuy, đèn sương mù, cản gió phía sau, bánh xe hợp kim và đồng hồ có mặt màu trắng. Trong thế hệ Altima này, tất cả GLE đều được trang bị ghế da tiêu chuẩn.
Phần lớn những thay đổi đến trong mô hình năm 2000. Động cơ được tăng sức mạnh từ 150 lên 155 mã lực trong khi chiếc xe cải thiện được khả năng tăng tốc 0-100km/h từ 8,7s lên 8,4s. Chiếc Altima này dài hơn một chút và có lưới tản nhiệt sâu hơn, đèn pha một mảnh với các tín hiệu báo rẽ, đèn hậu màu đỏ. Túi khí mới mới được tiêu chuẩn trên GLE và có sẵn trên GXE và SE. Đối với năm 2001, Altima GXE một lần nữa cho ra mắt gói phiên bản giới hạn: ghế điện cho lái xe, mở xe không dùng chìa cùng báo động và thảm sàn.
Thế hệ thứ ba: 2002-2006.
Trong khi hai thế hệ đầu tiên của Altima đã đặt nền móng và rất thành công so với chiếc Nissan Stanza trước đó thì thế hệ thứ ba đã thực sự đặt Altima vào bản đồ quyền lực trong ngành công nghiệp ôtô và danh sách mua sắm của khách hàng.
Nó là sản phẩm thị trường hàng loạt đầu tiên được xây dựng trên nền tảng FF-L mới của Nissan, duy nhất cho Bắc Mỹ và không có mô hình tương đương tại Nhật Bản. Chiếc xe được sản xuất trong những năm từ 2002 đến 2006. Thiết kế mới này có bánh xe 18-inch và là thế hệ Altima đầu tiên cung cấp động cơ V6 3.5l ngoài động cơ 4 xy-lanh 2.5l. Kích thước của Altima thế hệ này tăng đáng kể, nội thất được mở rộng lên đến 3364l. Kích thước nội thất của Altima thậm chí đã vượt qua chiếc xe Maxima có đuôi cao hơn, vì vậy vào năm 2004, Maxima phải sửa đổi đến khung kích thước đủ. Altima mới cũng cải thiện khả năng xử lý và mang phong cách mạnh mẽ hơn. Giới truyền thông và người tiêu dùng đã có những đánh giá tích cực về chiếc xe này như Altima đã giúp hồi sinh sản phẩm của Nissan vào những năm đầu của thế kỷ mới.
“Ý tưởng đằng sau phong cách và kỹ thuật Altima thế hệ thứ ba đơn giản là ngừng sao chép Accord và Camry như chúng tôi đã làm và tạo ra chỗ đứng mới của riêng chúng tôi”, phó chủ tịch bán hàng và marketing Nissan Al Castignetti cho biết. “Chúng tôi mang đến thị trường chiếc Altima 2002 dưới biểu ngữ ‘phương thuốc cho dòng sedan’, cho mọi người thấy rằng họ có thể tiếp tục pha trộn với đám đông hoặc nổi bật với phong cách táo bạo của Altima và hiệu suất định hướng người lái”. Với chiếc xe này, Nissan đã tìm thấy bản sắc riêng của mình trong phân khúc sedan cỡ trung, và tiếp tục bản sắc đó cho đến ngày nay.
Altima 2002 đã được vinh dự nhận danh hiệu “chiếc xe Bắc Mỹ của năm”, chiếc xe với tên châu Á đầu tiên chiến thắng giải thưởng đáng thèm muốn được xác định bởi một hội đồng 50 nhà báo chuyên về ô tô độc lập đến từ Mỹ và Canada. Trong năm 2002, nó cũng được gọi tên “chiếc xe của năm” bởi Motoweek trên PBS. Và lần đầu tiên các phương tiện truyền thông về ô tô thấy rằng Altima không chỉ là sự thay thế cho những chiếc sedan cỡ trung hàng đầu, nó cân bằng hoặc tốt hơn những cái tên “best-seller” lâu dài trong phân khúc.
Mô hình 2003-2004 được trang bị bảng điều khiển hai màu còn chiếc 3.5 SE thì nhận được nâng cấp sức mạnh, từ 240 lên 245 mã lực mặc dù vẫn giữ nguyên mô men xoắn 333 Nm. Động cơ 4 xy lanh 2.5l giúp chiếc sedan này tăng tốc 0-100km/h chỉ trong 8,6s, cạnh tranh hơn phần còn lại trong phân khúc.
Altima 2005-2006 nhận được sự đổi mới đến từ lưới tản nhiệt phía trước, đèn đuôi đỏ, nội thất tái thiết kế và hệ thống định vị dựa trên DVD tùy chọn. Động cơ V6 mang sức mạnh 250 mã lực và mô men xoắn 338Nm cùng thời gian tăng tốc 0-100km/h chỉ trong 5.9s, sử dụng hộp số Xtronic 5 cấp. Một điều mới khác là sự ra đời mô hình SE-R với sức mạnh 260 mã lực và 340Nm, hộp số sàn 6 cấp (tùy chọn hộp số tự động), hệ thống phanh nâng cấp, bánh xe 18 inch, hệ thống treo thể thao và một hệ thống xả lớn. Trang web Topspeed.com đã đo thời gian tăng tốc của SE-R 0-100km/h là 5,7s.
Thế hệ thứ tư: 2002-2006
Nissan Altima thế hệ thứ tư được công bố tại triển lãm ôtô New York vào 12 tháng 6 năm 2006. Nó là chiếc xe đầu tiên sử dụng nền tảng Nissan D nhỏ hơn với một hệ thống treo mới phía trước và nâng cấp phía sau. Chiều dài cơ sở ngắn hơn 1inch so với thế hệ trước đó nhưng không gian nội thất không thay đổi. Maxima và Murano cũng sử dụng nền tảng mới này bắt đầu từ mô hình năm 2009.
Nissan Altima 2007 sử dụng các phiên bản động cơ sửa đổi từ thế hệ thứ ba. Động cơ V6 3.5l sản sinh 270 mã lực còn động cơ 2.5l 4 xy lanh thẳng hàng có công suất 175 mã lực. Hộp số sàn 6 cấp được trang bị tiêu chuẩn và một hộp số CVT thay thế cho hộp số tự động truyền thống như một tùy chọn.
Altima 2007 trưng diện các công nghệ trên thị trường hiện nay bao gồm nút bấm khởi động (hay còn gọi: chìa khóa thông minh), Bluetooth cho điện thoại cầm tay và camera đỗ xe. Bảng điều khiển có các nút lớn hơn để đọc dễ dàng hơn và có tổng cộng 9 ngăn để cốc. Đối với năm 2008, tất cả Altima đều trang bị hệ thống phanh chống bó cứng ABS với công nghệ phân phối lực phanh điện tử.
Đối với mô hình 2010, Nissan có những cải tiến mạnh mẽ về ngoại hình như mui xe, đèn pha cũng như các bánh xe mới và vật liệu nội thất. Hệ thống kiểm soát cân bằng điện tử, trước đây chỉ được cung cấp như một phần của gói tùy chọn trên các mô hình V6 và không có sẵn với động cơ 4 xy-lanh, bây giờ là tiêu chuẩn trên tất cả các dòng Altima.
Coupe và Hybrid tham gia đội mình
Thiết kế Altima thế hệ thứ tư đã vượt xa tất cả những người tiền nhiệm của nó, cung cấp nhiều hơn mong đợi, bao gồm cả việc bổ sung một chiếc Altima Coupe ấn tượng cho năm mô hình 2008. Không giống như những mô hình coupe trong phân khúc, chỉ đơn giản là mô hình sedan được loại bỏ cửa sau, Altima Coupe trang bị thân xe duy nhất từ trụ A phía sau và được thiết kế bên trong, ngoài và phía dưới để cung cấp một phong cách thể thao hơn cũng như hiệu suất đáp ứng được mong muốn của những khách hàng Altima 2 cửa.
Sedan Altima Hybrid được giới thiệu vào năm 2007, tiếp tục cho đến 2011, và chỉ được bán trên một số bang ở Mỹ. Hệ thống truyền lực Altima Hybrid đã phối hợp với một phiên bản động cơ Nissan đặc biệt QR25 2.5l 4 xy lanh và hộp số tiêu chuẩn điều khiển điện tử CVT với một động cơ truyền động điện tiên tiến. Sự kết hợp này làm tăng khả năng tiết kiệm nhiên liệu trong khi vẫn duy trì lượng phát thải thấp.
…và thế hệ thứ 5
Trong năm 2012, Altima tiếp tục cung cấp một sự kết hợp tiêu chuẩn sáng tạo về chất lượng, hiệu suất mạnh mẽ, dáng vẻ thể thao và giá trị đặc biệt trong phân lớp sedan cỡ trung. Thiết kế của nó vẫn vô cùng đặc biệt và nó vẫn mang đến động lực học lái xe tuyệt vời cùng lượng tiêu thụ nhiên liệu cạnh tranh với một mức giá không thể tốt hơn.
Vào ngày 15 tháng 5 năm 2012, thế hệ thứ 5 và là thế hệ sáng tạo nhất của Nissan Altima đã được ra mắt tại Smyrna, Tenn.
Dù ngoại thất gần như được thiết kế mới hoàn toàn, chiếc sedan vẫn giữ lại độ dài trục cơ sở 2.776 mm, trong khi bề rộng cơ sở tăng thêm 35,56 mm. Kiểu lưới tản nhiệt và đèn pha mới gây ấn tượng mạnh mẽ, cùng đèn hậu LED tiêu chuẩn.
Nissan cũng nới rộng mẫu sedan cho đời xe 2013 với 7 phiên bản: 2.5, 2.5 S, 2.5 SV, 2.5 SL, 3.5 S, 3.5 SV và 3.5 SL. Các mẫu động cơ 4 xy-lanh sử dụng vành xe bằng thép kích thước 16 inch hoặc bằng hợp kim kích thước 17 inch, trong khi các mẫu 6 xi-lanh dùng vành hợp kim kích thước 18 inch.
Động cơ 3.5 V6 công suất tới 270 mã lực. Động cơ 2.5l với 4 xy-lanh cũng được thiết kế lại, với sức mạnh tăng từ 175 lên 182 mã lực. Hộp số Xtronic được các kỹ sư của Nissan động tay vào với kỳ vọng tăng mức tiết kiệm nhiên liệu trên cả hai phiên bản động cơ: 8,7 lít/100 km đường nội thị và 6,19 lít/100 km đường quốc lộ với động cơ 4 xi-lanh và 10,69/7,84 ở động cơ 6 xy-lanh.
Một số thay đổi khác thuộc về bộ phanh đĩa, hệ thống trợ lực lái thủy lực cùng bộ giảm chấn mới.
Nissan cũng cho đại tu nội thất của Altima 2013, với thiết kế ghế mới, bọc da thường hoặc da cao cấp, cũng như màn hình hỗ trợ lái. Hệ thống Nissan Connect cho phép kết nối điện thoại thông minh với khả năng vào mạng Internet và nhắn tin rảnh tay.
Những công nghệ an toàn gồm cảnh báo điểm mù, cảnh báo chuyển làn đường và vật thể di chuyển phía sau khi xe lùi, tất cả nằm trong gói tùy chọn Technology, bên cạnh hệ thống Nissan Connect với hệ thống định vị.
Ngoài ra, còn có thêm tùy chọn cánh gió sau, điều khiển từ xa và hệ thống âm thanh Bose, cũng như 2 gói trang thiết bị khác là định vị (trên các phiên bản SV) và tiện nghi (chỉ với phiên bản 2.5 SV).
Nguồn: Autodaily.vn
Có lẽ hiện nay, Nissan Altima là cái tên “khó chịu” nhất trong cuộc chạy đua trong phân khúc sedan cỡ trung. Con đường mà chiếc xe này rong ruổi đã có những bước ngoặt quan trọng như thế nào?
Thành công vang dội trên tất cả các thị trường, Nissan Altima đã làm cho ngành công nghiệp ôtô phải đi hết từ bất ngờ này cho đến choáng ngợp khác. Qua 20 năm ra đời và phát triển, với 5 thế hệ đã được ra mắt đến thời điểm này, Altima không còn đơn thuần là một chiếc xe sedan cỡ trung “chấp nhận được”, mà đã vươn tầm lên thành một cánh chim đầu đàn trong phân khúc và đang ôm mộng lật bá xưng vương.
Thế hệ thứ nhất: 1993-1997
Cái tên “Altima” ban đầu ám chỉ một mô hình của chiếc xe cỡ vừa Nissan Laurel được bán ở Trung Mỹ và vùng Ca-ri-bê trước năm 1992. Năm 1993, Nissan ngưng sản xuất dòng Stanza và thay thế bởi chiếc Altima được sản xuất tại Mỹ. Chiếc Altima đầu tiên lăn bánh khỏi dây chuyền lắp ráp ở Smyrna Tenn vào tháng 6 năm 1992 như mô hình 1993. Tất cả Altima đều được sản xuất ở Smyrna cho đến tháng 6 năm 2004 khi nhà máy Canton của Nissan ở Missisippi bắt đầu sản xuất bổ sung Altima để áp ứng nhu cầu cao của thị trường.
Ban đầu, tên chính thức của chiếc xe là “Stanza Altima”. Bạn có thể nhìn thấy dòng chữ nhỏ “Stanza” phía bên trái của biểu tượng Altima trên nắp cốp của những mô hình năm 1993. Mặc dù cái tên Stanza được đặt ở đó chủ yếu là để tuân thủ quy định chứ không phải Nissan thiếu tự tin về việc đổi tên chiếc xe cỡ vừa trong dòng 3 sedan lâu đời Sentra-Stanza-Maxima, nhưng vẫn làm dấy lên những lo ngại vào thời điểm đó về sự chấp nhận của công chúng. Lo lắng này là không có căn cứ bởi Altima đã có một tác động gần như ngay lập tức vào phân khúc sedan cỡ trung, lúc đó đang bị thống trị bởi hai người đồng hương Honda Accord và Toyota Camry.
Tất cả các mô hình Altima đều sử dụng động cơ DOHC 4 xy-lanh thẳng hàng 150 mã lực của Nissan phối hợp cùng hộp số sàn 5 cấp hoặc tự động 4 cấp. Hệ thống treo bao gồm thanh chống và thanh ổn định ở cả hai đầu và được ghi nhận cung cấp vẻ thể thao cũng như đáp ứng được quá trình xử lỷ. Các phiên bản bao gồm mô hình cơ bản XE, mô hình trung bình GXE, thể thao SE và sang trọng GLE.
Mô hình cơ bản XE vô cùng hiếm sử dụng cửa sổ quay tay. GXE sở hữu cửa điện, một ăng ten có thể thu vào bằng điện, đồng hồ kỹ thuật số ở bảng điều khiển và màu sắc phù hợp với lưới tản nhiệt bằng plastic. XE và GXE chỉ có công tắc gạt nước gián đoạn được cố định.
Ngoài các tính năng trên GXE, SE sở hữu một hệ thống treo vững chãi hơn, đèn sương mù, tấm cản dòng phía sau có giá 3 chân, các tấm chắn bên và ghế ngồi thể thao (cộng thêm một cửa sổ trời tiêu chuẩn vào năm 1994-1995). Nó cũng sở hữu hệ thống phanh 4 bánh, chỉ xuất hiện trên các mô hình khác khi phanh chống bó cứng được yêu cầu.
Các cải tiến của GLE bao gồm một màn hình kĩ thuật số head-up (chỉ vào năm 1993 và 1994) có thể hiển thị tốc độ theo mph hay km/h, tín hiệu rẽ. Các tính năng khác bao gồm một ngăn để tiền xu được thiết kế vào nắp bảng cầu chì (1993 và 1994), hỗ trợ điều chỉnh thắt lưng trên ghế trước, hệ thống kiểm soát khí hậu tự động, mở xe không cần chìa với báo động (tùy chọn), thảm sàn, đèn báo rẽ, cửa sổ trời và một hệ thống âm thanh CD/Cassette 6 loa cùng lưới tản nhiệt màu đen. Tất cả SE và GLE đều được trang bị bánh xe hợp kim và cần gạt nước liên tục.
Altima 1993 đi cùng bảng điều khiển màu sắc bằng gỗ hồng sắc và chỉ có một túi khí bên của lái xe, dây an toàn tự động. Altima 1994 sở hữu bảng điều khiển bằng gỗ tối màu, một túi khí hành khách và dây an toàn tiêu chuẩn. Mô hình 1995 mang đến một lưới tản nhiệt kiểu dải chớp mới, đèn hậu mới (màu đỏ và rõ ràng) và một tấm cản dòng có giá 2 chân cùng đèn phanh LED màu đỏ cho SE. Nissan cũng thêm các nắp chụp bánh xe cho các mô hình cơ bản vào năm 1996. Năm 1997, GXE mang đến gói tùy chọn “giới hạn” bao gồm bánh xe hợp kim, mở xe không sử dụng chìa, báo động, thảm sàn và một lô gô phiên bản giới hạn ở mỗi bên gần bánh xe trước. Phần lớn những mô hình Altima năm cuối cùng được mệnh danh là mô hình “1997.5” nhằm thông báo về các bảo vệ va chạm cần thiết được thêm vào để đáp ứng các tiêu chuẩn va chạm bên năm 1997.
Thế hệ thứ hai (1998-2001)
Altima thế hệ thứ hai được bắt đầu sản xuất vào năm 1998 và tiếp tục đến các mô hình năm 2001. Một lần nữa mô hình này lại được thiết kế ở California và sản xuất ở Tennessee, nó mang nhiều sức mạnh hơn (155 mã lực trước năm 2000) và cảm giác lái xe phản ứng nhanh hơn. Chiếc xe cũng cung cấp nội thất thỏa mái hơn nhiều, chất lượng cao hơn và nhiều tùy chọn thiết bị. Đối với năm 2001, mô hình phiên bản giới hạn đầu tiên được giới thiệu và trở thành một phần quan trọng trong chiến lược định giá của Altima những năm sau đó.
Thế hệ thứ hai (khung mô hình L30) là phiên bản dành riêng cho thị trường Mỹ, một lần nữa lại được thiết kế bởi trung tâm California của Nissan. Nội thất mới mang đến một hộp để găng tay mới và ngăn để cốc, ghế sau có thể gập lại (trừ bản XE) và các túi khí.
Kích thưởng tổng thể vẫn giữ nguyên, nhưng mang đến một cảm giác phân phối không gian tốt hơn và kết quả là một ca-bin rộng rãi hơn.
Các phiên bản bao gồm mô hình cơ bản XE, GXE, SE và GLE. Mô hình thể thao SE có thể được phân biệt bởi lưới tản nhiệt màu nuy, đèn sương mù, cản gió phía sau, bánh xe hợp kim và đồng hồ có mặt màu trắng. Trong thế hệ Altima này, tất cả GLE đều được trang bị ghế da tiêu chuẩn.
Phần lớn những thay đổi đến trong mô hình năm 2000. Động cơ được tăng sức mạnh từ 150 lên 155 mã lực trong khi chiếc xe cải thiện được khả năng tăng tốc 0-100km/h từ 8,7s lên 8,4s. Chiếc Altima này dài hơn một chút và có lưới tản nhiệt sâu hơn, đèn pha một mảnh với các tín hiệu báo rẽ, đèn hậu màu đỏ. Túi khí mới mới được tiêu chuẩn trên GLE và có sẵn trên GXE và SE. Đối với năm 2001, Altima GXE một lần nữa cho ra mắt gói phiên bản giới hạn: ghế điện cho lái xe, mở xe không dùng chìa cùng báo động và thảm sàn.
Thế hệ thứ ba: 2002-2006.
Trong khi hai thế hệ đầu tiên của Altima đã đặt nền móng và rất thành công so với chiếc Nissan Stanza trước đó thì thế hệ thứ ba đã thực sự đặt Altima vào bản đồ quyền lực trong ngành công nghiệp ôtô và danh sách mua sắm của khách hàng.
Nó là sản phẩm thị trường hàng loạt đầu tiên được xây dựng trên nền tảng FF-L mới của Nissan, duy nhất cho Bắc Mỹ và không có mô hình tương đương tại Nhật Bản. Chiếc xe được sản xuất trong những năm từ 2002 đến 2006. Thiết kế mới này có bánh xe 18-inch và là thế hệ Altima đầu tiên cung cấp động cơ V6 3.5l ngoài động cơ 4 xy-lanh 2.5l. Kích thước của Altima thế hệ này tăng đáng kể, nội thất được mở rộng lên đến 3364l. Kích thước nội thất của Altima thậm chí đã vượt qua chiếc xe Maxima có đuôi cao hơn, vì vậy vào năm 2004, Maxima phải sửa đổi đến khung kích thước đủ. Altima mới cũng cải thiện khả năng xử lý và mang phong cách mạnh mẽ hơn. Giới truyền thông và người tiêu dùng đã có những đánh giá tích cực về chiếc xe này như Altima đã giúp hồi sinh sản phẩm của Nissan vào những năm đầu của thế kỷ mới.
“Ý tưởng đằng sau phong cách và kỹ thuật Altima thế hệ thứ ba đơn giản là ngừng sao chép Accord và Camry như chúng tôi đã làm và tạo ra chỗ đứng mới của riêng chúng tôi”, phó chủ tịch bán hàng và marketing Nissan Al Castignetti cho biết. “Chúng tôi mang đến thị trường chiếc Altima 2002 dưới biểu ngữ ‘phương thuốc cho dòng sedan’, cho mọi người thấy rằng họ có thể tiếp tục pha trộn với đám đông hoặc nổi bật với phong cách táo bạo của Altima và hiệu suất định hướng người lái”. Với chiếc xe này, Nissan đã tìm thấy bản sắc riêng của mình trong phân khúc sedan cỡ trung, và tiếp tục bản sắc đó cho đến ngày nay.
Altima 2002 đã được vinh dự nhận danh hiệu “chiếc xe Bắc Mỹ của năm”, chiếc xe với tên châu Á đầu tiên chiến thắng giải thưởng đáng thèm muốn được xác định bởi một hội đồng 50 nhà báo chuyên về ô tô độc lập đến từ Mỹ và Canada. Trong năm 2002, nó cũng được gọi tên “chiếc xe của năm” bởi Motoweek trên PBS. Và lần đầu tiên các phương tiện truyền thông về ô tô thấy rằng Altima không chỉ là sự thay thế cho những chiếc sedan cỡ trung hàng đầu, nó cân bằng hoặc tốt hơn những cái tên “best-seller” lâu dài trong phân khúc.
Mô hình 2003-2004 được trang bị bảng điều khiển hai màu còn chiếc 3.5 SE thì nhận được nâng cấp sức mạnh, từ 240 lên 245 mã lực mặc dù vẫn giữ nguyên mô men xoắn 333 Nm. Động cơ 4 xy lanh 2.5l giúp chiếc sedan này tăng tốc 0-100km/h chỉ trong 8,6s, cạnh tranh hơn phần còn lại trong phân khúc.
Altima 2005-2006 nhận được sự đổi mới đến từ lưới tản nhiệt phía trước, đèn đuôi đỏ, nội thất tái thiết kế và hệ thống định vị dựa trên DVD tùy chọn. Động cơ V6 mang sức mạnh 250 mã lực và mô men xoắn 338Nm cùng thời gian tăng tốc 0-100km/h chỉ trong 5.9s, sử dụng hộp số Xtronic 5 cấp. Một điều mới khác là sự ra đời mô hình SE-R với sức mạnh 260 mã lực và 340Nm, hộp số sàn 6 cấp (tùy chọn hộp số tự động), hệ thống phanh nâng cấp, bánh xe 18 inch, hệ thống treo thể thao và một hệ thống xả lớn. Trang web Topspeed.com đã đo thời gian tăng tốc của SE-R 0-100km/h là 5,7s.
Thế hệ thứ tư: 2002-2006
Nissan Altima thế hệ thứ tư được công bố tại triển lãm ôtô New York vào 12 tháng 6 năm 2006. Nó là chiếc xe đầu tiên sử dụng nền tảng Nissan D nhỏ hơn với một hệ thống treo mới phía trước và nâng cấp phía sau. Chiều dài cơ sở ngắn hơn 1inch so với thế hệ trước đó nhưng không gian nội thất không thay đổi. Maxima và Murano cũng sử dụng nền tảng mới này bắt đầu từ mô hình năm 2009.
Nissan Altima 2007 sử dụng các phiên bản động cơ sửa đổi từ thế hệ thứ ba. Động cơ V6 3.5l sản sinh 270 mã lực còn động cơ 2.5l 4 xy lanh thẳng hàng có công suất 175 mã lực. Hộp số sàn 6 cấp được trang bị tiêu chuẩn và một hộp số CVT thay thế cho hộp số tự động truyền thống như một tùy chọn.
Altima 2007 trưng diện các công nghệ trên thị trường hiện nay bao gồm nút bấm khởi động (hay còn gọi: chìa khóa thông minh), Bluetooth cho điện thoại cầm tay và camera đỗ xe. Bảng điều khiển có các nút lớn hơn để đọc dễ dàng hơn và có tổng cộng 9 ngăn để cốc. Đối với năm 2008, tất cả Altima đều trang bị hệ thống phanh chống bó cứng ABS với công nghệ phân phối lực phanh điện tử.
Đối với mô hình 2010, Nissan có những cải tiến mạnh mẽ về ngoại hình như mui xe, đèn pha cũng như các bánh xe mới và vật liệu nội thất. Hệ thống kiểm soát cân bằng điện tử, trước đây chỉ được cung cấp như một phần của gói tùy chọn trên các mô hình V6 và không có sẵn với động cơ 4 xy-lanh, bây giờ là tiêu chuẩn trên tất cả các dòng Altima.
Coupe và Hybrid tham gia đội mình
Thiết kế Altima thế hệ thứ tư đã vượt xa tất cả những người tiền nhiệm của nó, cung cấp nhiều hơn mong đợi, bao gồm cả việc bổ sung một chiếc Altima Coupe ấn tượng cho năm mô hình 2008. Không giống như những mô hình coupe trong phân khúc, chỉ đơn giản là mô hình sedan được loại bỏ cửa sau, Altima Coupe trang bị thân xe duy nhất từ trụ A phía sau và được thiết kế bên trong, ngoài và phía dưới để cung cấp một phong cách thể thao hơn cũng như hiệu suất đáp ứng được mong muốn của những khách hàng Altima 2 cửa.
Sedan Altima Hybrid được giới thiệu vào năm 2007, tiếp tục cho đến 2011, và chỉ được bán trên một số bang ở Mỹ. Hệ thống truyền lực Altima Hybrid đã phối hợp với một phiên bản động cơ Nissan đặc biệt QR25 2.5l 4 xy lanh và hộp số tiêu chuẩn điều khiển điện tử CVT với một động cơ truyền động điện tiên tiến. Sự kết hợp này làm tăng khả năng tiết kiệm nhiên liệu trong khi vẫn duy trì lượng phát thải thấp.
…và thế hệ thứ 5
Trong năm 2012, Altima tiếp tục cung cấp một sự kết hợp tiêu chuẩn sáng tạo về chất lượng, hiệu suất mạnh mẽ, dáng vẻ thể thao và giá trị đặc biệt trong phân lớp sedan cỡ trung. Thiết kế của nó vẫn vô cùng đặc biệt và nó vẫn mang đến động lực học lái xe tuyệt vời cùng lượng tiêu thụ nhiên liệu cạnh tranh với một mức giá không thể tốt hơn.
Vào ngày 15 tháng 5 năm 2012, thế hệ thứ 5 và là thế hệ sáng tạo nhất của Nissan Altima đã được ra mắt tại Smyrna, Tenn.
Dù ngoại thất gần như được thiết kế mới hoàn toàn, chiếc sedan vẫn giữ lại độ dài trục cơ sở 2.776 mm, trong khi bề rộng cơ sở tăng thêm 35,56 mm. Kiểu lưới tản nhiệt và đèn pha mới gây ấn tượng mạnh mẽ, cùng đèn hậu LED tiêu chuẩn.
Nissan cũng nới rộng mẫu sedan cho đời xe 2013 với 7 phiên bản: 2.5, 2.5 S, 2.5 SV, 2.5 SL, 3.5 S, 3.5 SV và 3.5 SL. Các mẫu động cơ 4 xy-lanh sử dụng vành xe bằng thép kích thước 16 inch hoặc bằng hợp kim kích thước 17 inch, trong khi các mẫu 6 xi-lanh dùng vành hợp kim kích thước 18 inch.
Động cơ 3.5 V6 công suất tới 270 mã lực. Động cơ 2.5l với 4 xy-lanh cũng được thiết kế lại, với sức mạnh tăng từ 175 lên 182 mã lực. Hộp số Xtronic được các kỹ sư của Nissan động tay vào với kỳ vọng tăng mức tiết kiệm nhiên liệu trên cả hai phiên bản động cơ: 8,7 lít/100 km đường nội thị và 6,19 lít/100 km đường quốc lộ với động cơ 4 xi-lanh và 10,69/7,84 ở động cơ 6 xy-lanh.
Một số thay đổi khác thuộc về bộ phanh đĩa, hệ thống trợ lực lái thủy lực cùng bộ giảm chấn mới.
Nissan cũng cho đại tu nội thất của Altima 2013, với thiết kế ghế mới, bọc da thường hoặc da cao cấp, cũng như màn hình hỗ trợ lái. Hệ thống Nissan Connect cho phép kết nối điện thoại thông minh với khả năng vào mạng Internet và nhắn tin rảnh tay.
Những công nghệ an toàn gồm cảnh báo điểm mù, cảnh báo chuyển làn đường và vật thể di chuyển phía sau khi xe lùi, tất cả nằm trong gói tùy chọn Technology, bên cạnh hệ thống Nissan Connect với hệ thống định vị.
Ngoài ra, còn có thêm tùy chọn cánh gió sau, điều khiển từ xa và hệ thống âm thanh Bose, cũng như 2 gói trang thiết bị khác là định vị (trên các phiên bản SV) và tiện nghi (chỉ với phiên bản 2.5 SV).
Nguồn: Autodaily.vn