Bác ra Phòng công chứng ký vơi chủ xe,uỷ quyền có thời hạn từ 1-10 năm hay nhiều hơn tuỳ bác,sau khi kí công chứng uỷ quyền bác có thể bán xe mà không cần chính chủ.Bác nhớ là nôi dung công chứng bác ghi là :có quyền sử dụng,bán ,cho,tặng.....Một cái quan trọng nữa là khi trả tiền xe bác bảo 2 vợ chồng làm giấy tay bán xe cho bác và cà 2 cùng kí tên.Xong vụ này bác đải e chầu cafe nhe.
tranthanhhai nói:Bác ra Phòng công chứng ký vơi chủ xe,uỷ quyền có thời hạn từ 1-10 năm hay nhiều hơn tuỳ bác,sau khi kí công chứng uỷ quyền bác có thể bán xe mà không cần chính chủ.Bác nhớ là nôi dung công chứng bác ghi là :có quyền sử dụng,bán ,cho,tặng.....Một cái quan trọng nữa là khi trả tiền xe bác bảo 2 vợ chồng làm giấy tay bán xe cho bác và cà 2 cùng kí tên.Xong vụ này bác đải e chầu cafe nhe.
oke, cám ơn bác nhiều hen, lấy xe xong e đón bác uống cà phê nhé
Ra phòng công chứng số 1 đường pasteur làm rất chuyên nghiệp và nhanh gọn. Thường làm 10 năm là đủ rồi, vì chưa tới 5 năm là bác bán xe đó rồi, đâu có ai chạy tới 10 năm rồi mới bán đâu. Công chứng uỷ quyền bán, cho, tặng...là loại công chứng uỷ quyền cao nhất đó, với loại CCUQ này bác hoàn toàn định đoạt chiếc xe mà không cần phải có chủ xe ra công chứng với bác.
DuyTran nói:Lưu ý các bác là khi công chứng ủy quyền thì chủ sở hữu chiếc xe vẫn là chủ cũ, khi chủ xe mất thì hợp đồng công chứng lập tức mất hiệu lực, mọi hợp đồng mua bán liên quan chiếc xe mà kg có công chứng đều kg có giá trị.
Chính xác, cho nên ta phải làm thêm giấy mua bán giữa chính chủ và người mua( hoặc giữa chính chủ và người mua lúc đầu, rồi lại giấy mua bán giữa người mua đó và người mua thứ hai) cho chắc ăn.
cuccu2009 nói:sang tên cho lành bác ơi
nếu được vậy thì lăn tăn chi nữa, nhưng mất thêm mấy chục chai cũng ớn bác ợ, tính đường nào ngon bổ rẻ,
Từ ngày 1.7.2007, Luật Công chứng có hiệu lực thi hành. Theo Điều 44 của luật này thì việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thoả thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó và phải được công chứng.
(Theo Thanh Niên)
Tuy nhiên theo Luattructuyen.net thì khác:
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng uỷ quyền [class=title_cap3_1](Ngày cập nhật : 13/01/2010) 1. Trong trường hợp uỷ quyền có thù lao, bên uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được uỷ quyền tương ứng với công việc mà bên được uỷ quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu uỷ quyền không có thù lao thì bên uỷ quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được uỷ quyền một thời gian hợp lý.
Bên uỷ quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên uỷ quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc uỷ quyền đã bị chấm dứt.
2. Trong trường hợp uỷ quyền không có thù lao, bên được uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên uỷ quyền biết một thời gian hợp lý; nếu uỷ quyền có thù lao thì bên được uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên uỷ quyền.
Không biết hiện nay luật có sửa đổi gì không.
H
(Theo Thanh Niên)
Tuy nhiên theo Luattructuyen.net thì khác:
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng uỷ quyền [class=title_cap3_1](Ngày cập nhật : 13/01/2010) 1. Trong trường hợp uỷ quyền có thù lao, bên uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được uỷ quyền tương ứng với công việc mà bên được uỷ quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu uỷ quyền không có thù lao thì bên uỷ quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được uỷ quyền một thời gian hợp lý.
Bên uỷ quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên uỷ quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc uỷ quyền đã bị chấm dứt.
2. Trong trường hợp uỷ quyền không có thù lao, bên được uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên uỷ quyền biết một thời gian hợp lý; nếu uỷ quyền có thù lao thì bên được uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên uỷ quyền.
Không biết hiện nay luật có sửa đổi gì không.
H
Last edited by a moderator: