Hạng C
21/7/09
991
1
18
Kính bác cafe, em có tí ý kiến về việc bác sửa nhà nhé,

Năm sinh dương lịch: 1958
- Năm sinh âm lịch: Mậu Tuất
- Năm dự kiến khởi công: 2010

Phân tích các yếu tố Tam Tai, Kim Lâu, Hoàng Ốc:

Tam tai: Gia chủ tuổi Mậu Tuất, cần tránh các năm tam tai: Thân; Dậu; Tuất; Năm dự kiến xây nhà , sửa nhà là năm 2010 tức năm Canh Dần, như vậy sẽ không phạm tam tai.

Kim lâu: Năm 2010, Bác 53 tuổi (tuổi âm), nếu năm đó tiến hành xây nhà sẽ phạm vào kim lâu.

Hoàng ốc: Năm 2010, Bác 53 tuổi (tuổi âm), nếu năm đó tiến hành xây nhà sẽ không phạm hoàng ốc.

Nếu cả ba yếu tố trên đều không bị phạm là tốt nhất, còn nếu phạm Tam Tai mà không phạm Kim Lâu, Hoàng Ốc thì cũng có thể chấp nhận được. Phạm vào Kim Lâu hoặc Hoàng Ốc thì tuyệt đối không nên tiến hành xây dựng, sửa chữa nhà cửa, mà nên đợi năm khác, hoặc tiến hành thủ tục mượn tuổi.

Trường hợp này, năm xây nhà là năm 2010, tức năm Canh Dần, không nên tiến hành xây dựng, sửa chữa nhà cửa vì tuổi của gia chủ đã phạm phải kim lâu hoặc hoàng ốc. Nên đẩy lùi việc xây dựng đến năm 2015 (không phạm cả Kim Lâu và Hoàng Ốc).

Nếu do yêu cầu bắt buộc phải xây nhà trong năm nay, cũng có thể tiến hành mượn tuổi của những người nam giới sinh năm 1941; 1943; 1944; 1950; 1952; 1953; 1959; 1962; 1968; 1971; 1977; 1980; 1986; 1989; 1991; 1995; 1998; 2000; (không phạm cả Kim Lâu và Hoàng Ốc). Nếu được thì nên chọn những người đứng tuổi, thọ, phúc lộc dồi dào, con cháu đông là tốt nhất. Tuy nhiên cần nhớ rằng, việc mượn tuổi để xây nhà là một biện pháp thiên nhiều về tâm lý, mọi chuyện tốt xấu sẽ vẫn xảy ra với chủ nhà chứ không phải vì mượn tuổi mà xảy ra với người kia.

Em chỉ mới phân tích . Do tuổi phạm Kim Lâu nên em cần phải xem kỹ lại sách mai em trả lời nhé, bác đừng khách sáo thế, anh em mình chung một mái nhà OS mà, em chỉ làm việc phải làm thôi, việc quan trọng mà các bác tin tưởng em như thế em đâu dám phụ lòng.
 
Last edited by a moderator:
Hạng B1
18/12/09
77
6
8
Tp HCM
Ôi! cảm ơn bác nhiều.Có điều muốn hỏi bác đây là trường hợp em làm ăn sử dụng nhà em nên em sửa(không gì nhiều chỉ là đập phá cho rộng ra.Cái sàn gác thì em cho thuê người ta làm nên nên em bỏ đi và thay lại cái cửa để cho rộng và cửa cũ cũng bị mục rồi.Nếu như trường hợp em thuê nhà để làm ăn mà cũng phải sửa như vậy thì làm ăn sẽ như thế nào(ý là công việc bắt buộc tương tự chứ kg phải em đi thuê để làm đâu)
Một vấn đề nữa em chỉ nghĩ đơn giản là năm nay là năm hạn có nghĩ là mình phải mất diều gì đó nên em nhằm đầu tư vào làm ăn cũng như là chịu mất tiền ra xã hội vậy như vậy là coi như em cũng "tiêu đi" để giải hạn.
Một vấn đề nữa là năm em 48-49 em bị hạn nặng lắm tiêu tùng cho đến bậy giờ và sau này mãi luôn còn về kinh tế thì bây giờ em bắt đầu tạm ổn và tìm cách làm ăn trở lại đó.5 năm nay em chỉ có "ăn chơi "thôi không làm dc gì cả do cái hạn 49 đó.Ý em nói ở đây là như vậy thì năm nay em có đỡ hơn không.Bác xem kỹ và luận cố giúp em chứ còn mượn tuổi của ai hay là kg làm nữa thì em không thể được rồi có cách nào giúp đỡ em dc hoặc hoán giải dược thì bác giúp đỡ em với.Em thì không mê tín mà cũng chẳng tin vào có ma quỷ nhưng em thì tôn trọng về tâm linh là có thờ có thiêng có kiêng có lành>À có một vấn đề nữa là em là người công giáo nói để bác chỉ cho em cách chống đỡ hihihi
21.gif
bac cố giúp em nhé
em gọi là sửa nhà nhung thực sự em dã sửa chính thức lấy chỗ ở cũng tại căn nhà này phía cuối nhà cách đây hai năm rồi còn cho người ta thuê nên họ cũng đập phá làm này nọ hai lần nữa rồi( Hai chủ thuê nhà mà)Như vậy trong 5 năm nay căn nhà này cũng dập pha mấy lần rồi ý như vậy bây giờ em dập tiếp cho rộng ra lấy chỗ làm ăn thì có được kg ( là kg phải sủa để ở đó bác )thì có ảnh hưởng lắm đến những vần đề tử vi nói không bác cố gắng giúp em nhé:D
 
Last edited by a moderator:
Hạng C
21/7/09
991
1
18
năm nay bác 53 tuổi (âm lịch), sao Thái Âm (Mond) chiếu mạng. Hạn gặp Thái Âm, nam hay nữ, tháng 9 Âm Lịch sẽ gặp điều cát tường, nhưng tháng 11 Âm Lịch lại là tháng không tốt lắm

Sao Thái Âm Vì sao này là kiết tinh. Đàn ông làm việc chi cũng đặng vừa ý, cầu danh tốt, cầu tài có tài lợi.
Cho nên năm nay không phải năm hạn của bác đâu, mà tuổi của bác phạm Kim Lâu tức không xây dựng, sữa chữa thôi, còn công việc làm ăn tiến triển bình thường bác ạ. Nếu như bác nói thì chỉ thay cái cửa thôi thì để em chọn ngày đẹp theo tuổi bác vậy nhé.
 
Hạng B1
18/12/09
77
6
8
Tp HCM
vâng vậy thì nhờ bác xem cái ngày nào tốt để em có thể tiên hành dược ạ .À mà cái tường em dịnh dập thì mấy người thuê người thì đập người thì xay tùm lum hết rồi nên giờ em dọn sạch chắc không sao đâu bác nhỉ:) còn nếu em dào nền nhà để chôn cây ben xuống thì có gọi là động thổ không bác như vậy có sao không ạh .Bác giải thích rõ điều cát tường là gì em chưa biết các từ này ạh
 
Last edited by a moderator:
Hạng C
21/7/09
991
1
18
Dạ, tuổi bác nên cúng khởi công sữa nhà ngày 26 tháng 2 AL tức 10 tháng 4 DL lúc 11h30 - 12h30, Hoa quả nhang đèn khấn vái nếu bác có cúng kiếng.
 
Hạng C
21/7/09
991
1
18
NẠP ÂM LỤC THẬP GIÁP HOA

1. Giáp tý, Kỷ sửu : Hải trung kim
Bởi ngũ hành của tý đối ứng là thủy, thủy còn gọi là hồ lớn, nơi đó thế thủy thịnh vượng. Trong ngũ hành kim tử ở tý, tang mộ ở sửu. Thủy thế thịnh vượng kim lại tử ở đó cho nên gọi là Hải trung kim.

2. Bính dần, Đinh mão: Lò trung hỏa
Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, (bính, đinh trong ngũ hành thuộc hỏa) hỏa đã đạt đến vị trí chính lại được dần mão thuộc mộc. Trong ngũ hành trợ giúp. Khi này trời đất phảng phất như lửa trong lò mới sinh, vạn vật vừa mới bắt đầu sinh trưởng mà gọi là Lô Trung hỏa trời đất như lò lửa, âm dương như than củi.

3. Mậu thìn, Kỷ tỵ: Đại lâm mộc
Thìn đại biểu cho đất đai hoang dã, tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi. Mộc ở ngôi thứ 6 có lợi sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã mà gọi là Đại Lâm mộc.

4.Canh ngọ, Tân mùi: Lộ bàng thổ
Mùi ngũ hành là thổ sinh mộc, khiến cho ngọ ngũ hành là hỏa được thành ra hỏa vượng. Kết quả là thổ ngược lại bị chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh vật (mộc), mộc lại sinh hỏa, hỏa phản lại đốt thổ. Cho nên thổ bị chịu hại lấy bản thân giống như đất bụi ven đường mà gọi là Lộ bàng thổ. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với thổ mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời.

5.Nhâm thân, Quý dậu: Kiếm phong kim
Ngũ hành của thân dậu là kim, đồng thời kim trong quá trình sinh trưởng vị trí lâm quan ở thân, đế vượng ở dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cương cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm, nên gọi là kiếm phong kim.

6. Giáp tuất, Ất hợi: Sơn đầu hỏa
Tuất hợi là cửa trời ( giáp ất thuộc mộc) đốt lửa soi sáng cửa trời, ánh lửa nhất định chiếu đến cực cao. Cho nên đem nó gọi là lửa trên núi. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh, do đó hỏa trên núi có thể phản ánh được ráng trời.
Sơn đầu hỏa có thể thông với trời nên mệnh này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có mộc, có hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ thủy, nếu gặp đại hải thủy ( nhâm tuất quý hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi.

7. Bính tý, Đinh sửu: Giản hạ thủy
Thủy ở trong ngũ hành vượng ở tý suy ở sửu. Thủy trong Bính tý đinh sửu thịnh vượng nhưng lại suy yếu. Cho nên không thể thành nước ở sông mà gọi là nước ở khe suối, khi mới thì lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là đó hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung tóe như hạt tuyết. Cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng lớn chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh mảnh. Theo như trong sách là thủy được kim thích hợp gặp cát và kim lưỡi kiếm ( giáp ngọ ất mùi sa trung kim, nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm). Nhưng không gặp được mệnh của thổ và hỏa. Thủy hỏa chẳng dung nạp nhau, thổ lại làm cho nước suối đục. Tốt nhất là gặp (giáp dần ất mão đại khê thủy) tương hợp tượng trưng cho suối nhỏ hợp thành sông càng chảy càng dài không phải lo nghĩ.

8. Mậu dần, Kỷ mão: Thành đầu thổ
Thiên can mậu kỷ ngũ hành thuộc thổ, dần mão ngũ hành thuộc mộc, giống như tích thổ thành núi, phảng phất như đắp đất thành tường cho nên gọi là đất trên thành.
Kinh đô của hoàng đế cư trú dùng đất đắp thành, lấy gạch xây thành như hình rồng cuốn chạy dài nghìn dặm, mãnh hổ tọa thế trấn bốn phương. Mệnh này gặp nước gặp núi là hiển quy. Trong thành gặp núi gặp nước là núi giả, nước tù không phải là quý. Nên kỵ nhâm tuất quý hợi Đại hải thủy mậu tý kỷ sửu Bích lôi hỏa, Tích lịch hỏa.

9. Canh thìn, Tân tỵ: Bạch lạp kim
Kim hình thành trong đất mà sau lại ở cùng với hỏa. Tuy hình thái của kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn. Cho nên gọi là kim giá đèn. Khi này khí của kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà ngưng kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của kim giá đèn thích thủy như canh thìn tân tỵ gặp ất tỵ trong số mệnh gọi là “ Phong mãnh hổ cách” thi cử học tập có đường đi tốt đẹp. Lại như gặp thủy thì thích gặp ở ất dậu, quý tỵ. Trong số mệnh cho là mệnh quý. Nhưng bởi vì Bạch lạp kim tính yếu cho nên sợ mộc khắc nó trừ khi nó gặp được hỏa yếu cần phải có mộc lại trợ giúp.

10. Nhân ngọ, Quý mùi : Dương liễu mộc
Mộc tử ở Ngọ mộ tàng ở mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can Nhâm quý thủy trong ngũ hành để cứu sống nó. Nhưng rốt cục sức sống mộc vẫn yếu đuối cho nên gọi là gỗ cây liễu. Nó giống như tằm nhả vạn mối dây tơ. Cây dương liễu chỉ thích hợp với Bính tuất đinh hợi thổ, nhưng lại thích thủy, trừ đại hải thủy ra thì đều tốt. Bản tính dương liễu tính mộc yếu đuối gặp hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp Canh thìn tân dậu Thạch Lựu mộc sẽ bị cây thạch lựu thịnh vượng áp chế, khiến cho dương liễu mộc một đời bần tiện.

11,Giáp thân, Ất dậu: Tuyền trung thủy
Kim kiến lộc ở thân, vượng ở dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào hỏa để sinh thủy, nhưng thủy khi mới sinh thì ít ỏi, thế lại không vượng cho nên gọi là nước trong suối. Từ nguồn gốc của nó mà nói, có kim thì nguồn thủy không bao giờ dừng. Lấy giáp ngọ ất mùi sa trung kim, canh tuất tân hợi thoa xuyến kim là tốt, gặp thủy gặp mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm tháng ngày giờ thì năm và giờ trụ đều có thủy, ngày tháng hai trụ đều có mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý.

12.Mậu tý, Kỷ sửu : Bích lôi hỏa
Ngũ hành sửu thuộc thổ, ngũ hành tý thuộc thủy, thủy ở chính vị mà với nạp âm gọi hỏa. Đây là hỏa trong thủy, là thuộc tính rồng thần, cho nên ví nó như lửa sấm sét. Lửa sấm, sét thế như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất thủy hỏa vốn chẳng bao dung nhau mà nay thủy hỏa hợp nhất, sách xưa cho là một loại rồng thần. Rồng thần khi đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó Bích lôi hỏa với thủy thổ mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Cái kỵ tức là hỏa, bởi vì hai hỏa gặp nhau tính khô nên xấu.

13.Bính tuất, Đinh hợi: Ốc thượng thổ
Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa, tuất hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang cháy lại ở trên cao vậy thì thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là đất trên mái nhà. Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà thực tế chỉ là gạch ngói. Tuất hợi như thổ một thủy hòa lại thành bùn, lấy hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà lợp phòng. Đất trên mái nhà đã là gạch ngói, nó là đồ để lợp nhà đương nhiên cần mộc là giá đỡ, sau mới cần kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp kim lưỡi gươm, kim trang sức đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên ốc thượng thổ cũng sợ hỏa. Nhưng thiên thượng hỏa lại rất tốt vì thiên thượng hỏa tượng trưng cho ánh nắng mặt trời.

14. Canh dần, Tân mão: Tùng bách mộc
Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở dần, thịnh vượng ở mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi nó là gỗ cây tùng, tích huyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ cành là dao động như lá cờ bay.
Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong hỏa chỉ có Bính dần, đinh mão là lửa trong lò, trong thủy chỉ có Nhâm tuất, quý hợi đại hải thủy mới có thể hại được nó, ngoài ra tất cả đều vô hại. Tùng bách mộc sợ gặp đại lâm mộc, dương liễu mộc, tuy cùng là mộc nhưng chất không giống tùng bách mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách thích gặp kim, gặp nó là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “ Thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng ngày giờ thuộc đông tức ( Nhâm quý hợi tý thuộc đông). Mệnh cách này là mệnh phú quý.

15. Nhâm thìn, Quý tỵ : Trường lưu thủy
Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, tỵ trong ngũ hành là nơi sinh kim. Trong ngũ hành kim sợ thủy, kim trong tỵ có hàm chất thủy, bởi vì nơi tích trữ thủy gặp kim sinh thủy, cho nên nguồn thủy liên tục không ngừng mà gọi là nước sông dài. Nước sông dài ở Đông nam lấy yên tĩnh làm quý.
Nước sông dài thế có cuồn cuộn không dừng, kim có thể sinh thủy cho nên nước sông dài gặp kim là tốt. Nó sợ gặp thủy bởi thủy nhiều quá dễ gây úng lụt, đồng thời thổ thủy tương khắc gặp bính tuất đinh hợi canh tý tân sửu thổ thì khó tránh được tai họa, cần phải có kim sinh thủy ở lại ứng cứu. Ngoài ra, thủy hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối hẳn như thế. Nước sông dài gặp giáp thìn, ất hợi tuy giáp thìn và ất hợi có phân là lửa ngọn đèn và lửa trên núi. Nhưng thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển mệnh,cách ngược lại là cực tốt.

16. Giáp ngọ, Ất mùi: Sa trung kim
Ngọ là nơi đế vượng của hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì kim suy. Mùi là nơi có hỏa vượng suy yếu trong ngũ hành. Hỏa suy yếu kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, kim mới có hình, cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là kim trong cát. Kim trong cát là kim mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có hỏa để luyện. Nhưng hỏa quá vượng, mà hỏa vượng thì kim bại đồng thời cần phải có mộc lại khắc chế kim, khiến kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy hỏa trên núi, hỏa dưới núi, hỏa ngọn đèn tính ôn hòa lại luyện nó. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa trung kim cần có thủy tĩnh, sơ nếu nước sông dài và nước biển lớn ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với nước khe núi, nước trong suối và nước trên trời mới tốt. Kim trong cát cũng sợ gặp đất ven đường, cát trong đất và đất vó ngựa, vì sẽ bị nó chôn vùi.

17. Bính thân, Đinh dậu: Sơn hạ hỏa
Thân là cửa mở xuống dưới đất, dậu là nơi về cửa thái dương. Một ngày đến chỗ đó là dần dần tối đi như mặt trời xuống núi. Cho nên, gọi là lửa dưới núi. Lửa dưới núi thực tế là chỉ mặt trời lúc buổ tối, mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp thổ gặp mộc là tốt. Nó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời và lửa đèn.

18 .Mậu tuất, Kỷ hợi: Bình địa mộc
Ý nghĩa của mậu là đồng bằng, hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi nó là cây đồng bằng. Cây đồng bằng thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, nó cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì thế nên sợ kim, nếu gặp kim là bất lợi. Nó thích thủy thổ và mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi “ Hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp dần mão. Hai chi này đều thuộc mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông cũng là một loại mện quý.

19.Canh tý, Tân sửu: Bích thượng thổ
Sửu là chính vị của thổ trong ngũ hành. Nhưng tý là nơi thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp phải thủy tràn lan mà biến thành bùn, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là đất trên tường. Đất trên tường dùng để làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp mộc sẽ tốt, gặp hỏa thì xấu, gặp thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp nước biển lớn. Còn với kim thì chỉ thích kim bạc kim.

20.Giáp thìn, Ất tỵ: Phú đăng hỏa
Thìn là trời đã sáng, tỵ là sắp đến buổi trưa. Mặt trời tỏa sáng thiên hạ không cần phải đốt đèn chiếu sáng, cho nên bị xem là lửa ngọn đèn, ánh sáng của đèn lung linh, cây đèn chiếu sáng đến những nơi mặt trời mặt trăng không thể chiếu sáng tới được.
Lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng ban đêm, nó không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc thủy chi nên ngọn đèn gặp mộc gặp thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó lửa ngọn kỵ mặt trời. Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý, một là “ Che đèn thêm dầu” chỉ lửa ngọn đèn gặp nước dưới giếng nước dưới khe, nước sông dài. Và một loại “ Dưới đèn múa kiếm” chỉ lửa ngọn đèn gặp kiếm phùng kim. Ngoài ra lửa ngọn đèn còn sợ gặp thổ trong ngũ hành chỉ trừ Bính tuất đinh hợi. Đất mái nhà. Nó cũng thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn.

21. Nhâm dần, Quý mão: Kim bạc kim
Dần mão ngũ hành thuộc mộc, là nơi mộc vượng. Mộc vượng thì kim bị gầy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở dần, thai ở mão. Tóm lại Kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là kim loại trang sức.
Mọi người dùng kim bạc kim làm đồ trang sức, người xưa dùng nó để phủ chữ trong các đền chùa và các đồ khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý nguồn gốc của nó là do kim gia công mà thành. Kim bạc kim gặp đất trên thành, đất trên tường mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh kim gặp mậu dần, đất trên thành gọi là “ Viên ngọc núi Côn Sơn”. Quý mão trong kim bạc kim gặp kỷ mão gọi “ Thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý.

22. Bính ngọ, Đinh mùi : Thiên hà thủy
Bính đinh thuộc hỏa, ngọ là nơi ngũ hành hỏa vượng nhưng nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong hỏa sinh ra cho nên xem như nước trên trời. Nguyên khí lên cao khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa. Nó có công lao thúc đẩy sự sinh trưởng vạn vật.
Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên kim mộc thủy hỏa thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có canh tý tân mùi là đất trên tường là tương xung với nó.

23.Mậu thân, Kỷ dậu: Đại dịch thổ
Than là quẻ khôn, quẻ khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ Đoài, quẻ Đoài ý nghĩa trong bát quái là đầm ao. Mậu kỷ trong ngũ hành thuộc thổ, nó ở trên mặt đất ao hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là đất dịch chuyển.
Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như đất dịch chuyển quay về với mặt đất. Đất dịch chuyển thuộc mệnh cách tương đối cao quý, nó đại biểu cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đất chuyển dịch thích nước tương đối thanh tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Nó cũng thích kim thanh tú như kim trang sức, kim loại trắng. Có một số can chi khí vượng thế mạnh nó gặp phải bị vùi chon như nước biển lớn, lửa trên núi, lử dưới núi, lửa ngọn đèn…Gặp phải lửa sấm sét đành phải dùng thủy hóa giải. Nhưng vật cực tất phản mệnh, cách khắc này ngược lại thành quý.

24.Canh tuất, Tân hợi: Thoa xuyến kim
Ngũ hành kim suy yếu tại tuất, bệnh tại hợi. kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu mà gọi kim là trang sức. Kim trang sức là vàng bạc liệu có phú quý không? Không nhất định như vậy. Vạn vật cái quý nhất là được bản tính tự nhiên. Cho nên kim trang sức là vật để đeo trang sức đương nhiên đã bị làm tổn thương. Kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài là tốt. Nhưng sợ gặp nước biển lớn ví như đá rơi đáy biển. Ngoài ra nó còn thích cát trong đất bởi vì thổ có thể sinh kim.

25.Nhâm tý, Quý sửu: Tang thạch mộc
Ngũ hành tý thuộc thủy, ngũ hành sửu thuộc thổ sinh kim. Thủy có thể làm cho mộc sinh trưởng tươi tốt nhưng kim lập tức có thể chặt nó. Nó giống như cây dây vừa mới sinh trưởng đã bị người ta chặt, cho nên gọi nó là gỗ cây dâu. Quá trình sinh trưởng của cây dâu nếu gặp cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ giúp bỏ nó tươi tốt. Nếu gặp Canh dần Tân mão gỗ cây tùng bách, đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp gỗ cây liễu người ta gọi “ Dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp gỗ rừng lớn giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp gỗ đồng bằng, gỗ cây lựu sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu.

26.Giáp dần, Ất mão: Đại khê thủy
Dần mão thuộc phương Đông, dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính Đông, nếu nước hướng chảy chính Đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông mà gọi là nước suối lớn. Nước suối lớn cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy lien tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp. Nếu gặp các loại thổ khác và phải sinh mộc đều không hay. Chỉ có Nhâm tý, Quý sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi “ Nước chảy quanh núi” mới là cục mệnh quý.

27.Bính thìn, Đinh tị:Sa trung thổ
Thổ trong ngũ hành mộ ở thin, tuyệt ở tỵ. Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa trưởng thành tại thìn, hiển thân tại tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tât cả. Nó giống như những đốm tro khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành thổ, cho nên gọi là cát trong đất. Cát trong đất có kim là quý, lại cần nước trong mà lọc kim ra, cho nên gặp nước gặp kim là quý. Nó thích gặp lửa trên trời có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Nó lại thích gỗ cây dâu cây dương liễu, vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại mộc, khác đều không tốt.

28.Mậu ngọ, Kỷ mùi: Thiên thượng hỏa
Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của hỏa trong ngũ hành, mà mùi, kỷ là nơi mộc sinh trưởng khiến cho thế hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao mà gọi lửa trên trời, lửa trên trời là mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho thủy tưới mộc tươi tốt, mộc giúp hỏa bốc cháy. Nó thích lửa ngọn đèn ngoài ra với các hỏa khác đều tương khắc. Nó lại thích gặp thổ, nếu có kim mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Lửa trên trời nếu đơn độc với thủy thì dễ hình thành thủy hỏa tương khắc.

29.Canh thân, Tân dậu : Thạch Lựu mộc
Thân đại biểu cho tháng 7, dậu đại biểu cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu là kết trái mà gọi là canh thân tân dậu là gỗ cây lựu. Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính mộc cứng rắn, với thủy mộc thổ kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có nước biển lớn thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng bệnh tật. Có thể gặp lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng tốt, nhưng hỏa ấy sẽ dự báo điềm xấu. Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 là ngày trụ hoặc giờ trụ lại có mang một hỏa thì gọi “ Thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp cây dương liễu gọi “ Hoa hồng liễu xanh”.

30.Nhâm tuất, Quý hợi: Đại hải thủy
Thủy trong ngũ hành tại tuất là giai đoạn đã thành thục, tại hợi cũng là giai đoạn thành thục. Do đó thủy ở đây thế lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của hợi thuộc thủy đại biểu ý nghĩa của sông đổ ra biển, cho nên gọi nó là nước biển lớn.
Biển cả mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Nó là nơi quy tụ của các con sông, cho nên các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn...gặp nước biển lớn đều tốt. Nhâm thìn trong nước sông dài phối hợp với nước biển lớn gọi “ Rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi.
Trong hỏa nó thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển Đông. Trong kim nó thích kim đáy biển, trong mộc nó thích gỗ cây dâu, gỗ cây dương liễu, trong thổ nó thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn gặp nhau tất sẽ lớn, như nước biển lớn gặp lửa sấm sét tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp, mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển.

(Trích Can chi thông luận)​
 
Hạng C
21/7/09
991
1
18
NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Theo các vị đã đi sâu vào khoa Tử-Vi Đẩu số, thì sự Sinh, Khắc, Chế, Hóa trong Ngũ Hành rất cần thiết trong khoa Tử-Vi và bói toán. Về lý thuyết căn bản thì các sách cũng như trên các diễn đàn đã nêu ra qúa nhiều, nay tôi chỉ đi vào một số khía cạnh về Ngũ hành chế hóa.
Ví dụ hai hành khắc nhau như Thủy khắc Hỏa mà lại tốt như Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời) với Quý Hợi là Đại Hải Thủy (Nước biển lớn). Vì lửa trên trời tức là mặt trời chiếu xuống biển cả, thì phát ra muôn ngàn hào quang rực rỡ.


1- Kim​

Trong cát, giáo gươm hai thứ Kim
Nếu nằm trên Chấn ắt tương xâm
Kim còn bốn thứ đều sợ Hỏa
Gươm cát vắng Hỏa chẳng thành hình
Ất Mùi là Sa Trung Kim (kim khí trong cát)
Quý Dậu là Kiếm Phong Kim (kim khí của gươm giáo)


Cả hai đều không nên gặp Mộc, vì cây không sống được, nếu trồng trên đất có chất kim khí và cây mà gặp gươm giáo sẽ bị chặt gãy. Nhưng hai thứ Kim đó mà gặp Hỏa lại tốt, có lửa mới rèn thành gươm giáo, có lửa thì chất Kim vùi trong cát (vàng cốm) mới trở thành nén vàng qúy giá. Còn các thứ Kim khác đều sợ Hỏa (khắc).

2- Thủy​
Thuỷ ở sông Ngân cùng biển cả​
Cả hai chẳng sợ Thổ địch cừu
Ngoài còn mấy thứ đều kỵ Thổ
Một đời cơm áo thật khó cầu …

Đinh Mùi là Thiên Hà Thủy (nước sông Ngân Hà) và Quý Hợi là Đại Hải Thủy (nước biển cả) không sợ Thổ vì nước sông Ngân Hà trên trời cách xa với mặt đất và đất thì không hút nổi hết nước của biển cả. Còn Thổ khắc tất cả các thứ Thủy khác.

3- Mộc​

Mộc Tằm dâu, liễu dương, tùng bách
Thạch lựu, rừng sâu đều kỵ Kim
Duy chỉ cây trồng đồng bằng Mộc
Thiếu Kim sao được mọc lên cao ?


Các thứ mộc như Quý Sửu là Tang Đố Mộc (gỗ cây tằm dâu), Quý Mùi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây dương liễu), Tân Mão là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng bách), Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lựu), Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc (gỗ cây rừng lớn) đều sợ Kim. Đất mà có chất Kim khí thì cây sẽ chết, nếu gặp rìu búa, cây sẽ bị đốn gãy.

Duy chỉ các cây trồng ở đồng bằng như ngũ cốc, cây có trái, cây cảnh. Kỷ Hợi (Bình Địa Mộc) thì lại cần phải có đồ kim khí như cầy, cuốc, kéo, liềm .. để cầy, vun sới, tỉa xén, thì nó mọc tốt và cây cảnh mới đẹp đuợc.

4- Hỏa​
Đèn lồng, lò lửa, cùng đỉnh núi​
Thấy Thủy, cả ba đều chẳng hay
Lại còn ba thứ chẳng kiêng Thủy
No Ấm một đời, giầu lại sang


Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa (lửa đèn lồng); Đinh Mão là Lò Trung Hỏa (lửa trong lò); Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa (lửa đỉnh núi) ba thứ đó kỵ Thủy, gặp Thủy là tắt liền.


Nhưng ba thứ khác là : Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa (lửa chân núi); Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét); Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) gặp Thủy, không bị ảnh hưởng gì hại mà lại còn tốt vì hợp với tình thế.


5- Thổ​

Thành lũy, mái nhà cùng trên vách
Ba Thổ đều sợ Mộc đâm xoi
Ngoài còn ba thứ chẳng sợ Mộc
Một đời thanh qúy, bước lên mây


Kỷ Mão là Thành Đầu Thổ (đất trên thành lũy); Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà); Tân Sửu là Bích Thượng Thổ (đất trên vách nhà). Ba thứ đất này đều sợ Mộc (Mộc khắc Thổ) vì nếu cây mà mọc trên các thứ đất đó, rễ sẽ đâm xuyên làm cho đất lở và nứt ra.


Còn ba thứ Thổ khác mà gặp Mộc lại tốt như :​

– Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ (đất cạnh đường) cần có cây cối mọc bên đường cho rợp, mát​
– Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ (đất ở nền nhà, trạm hay cầu, quán ..) cũng cần có cây mọc để cho trạm hay cầu​
quán được đẹp mắt và mát mẻ.​
– Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ (đất trong cát) đất trong bãi cát rất tốt cho các việc trồng ngô, hoặc trên bãi sa mạc mà có cây mọc thì còn gì qúy bằng.​
 
Hạng C
21/7/09
991
1
18
NGŨ HÀNH

Trong lý thuyết triết học Phương Đông, khái niệm Âm Dương và Ngũ hành là hai khái niệm cơ bản nhất để hình thành nên học thuyết. Nếu như Âm Dương là khái niệm biểu hiện tính trạng đối lập và thống nhất của sự vật thì khái niệm Ngũ hành biểu hiện khả năng biến đổi, tương tác chế hóa của sự vật hiện tượng. Khái niệm về ngũ hành có rất nhiều sách viết, nhưng cơ bản chung, các khái niệm đó là:

1. Khái niệm về ngũ hành:

Ngũ hành gồm 5 khái niệm: Thủy, Mộc, Hỏa, Kim, Thổ. Mọi sự vật hiện tượng đều có thể phân loại thành 5 loại trên. [UL][*]Thủy: Vật chất dạng lỏng, hiện tượng mềm dẻo và lưu động. Người ta dùng nước làm đại diện[*]Mộc: Vật chất dạng rắn có sự sinh sôi bị đốt không biến đổi mà "cháy", hiện tượng cứng nhưng sinh sôi. Dùng cây làm đại diện biểu đạt.[*]Hỏa: Vật chất dạng khí và nóng, hiện tượng nóng bốc lên. Dùng lửa làm đại diện.[*]Thổ: Vật chất dạng rắn và tĩnh, hiện tượng ôn hòa, tĩnh. Dùng đất làm đại diện.[*]Kim: Vật chất dạng rắn, có thể nung chảy, hiện tượng rắn và chuyển hóa. Dùng kim loại làm đại diện [/UL]
2. Khái niệm ngũ hành tương sinh, tương khắc:

Vật chất và hiện tượn luôn vận động và chuyển hóa, để thể hiện đặc tính này, quan hệ của ngũ hành có tương sinh và tương khắc.

a. Ngũ hành tương sinh
[UL][*]Thuỷ sinh Mộc: Nước khởi đầu cho sự sinh sôi.[*]Mộc sinh Hoả: Mộc có khả năng đốt cháy.[*]Hoả sinh Thổ: Sự đốt cháy tạo ra tro tàn.[*]Thổ sinh Kim: Trong tro tàn tiềm chứa khoáng chất[*]Kim sinh Thuỷ: Kim loại nung chảy thành nước [/UL]
b. Ngũ hành tương khắc:
[UL][*]Kim khắc Mộc: Cương thắng nhu, Kim có rắn mới thắng được mộc[*]Mộc khắc Thổ: Tụ thắng Tán, cây có thành bụi mới làm kiệt được đất.[*]Thổ khắc Thủy: Thực thắng Hư, đất có vững mới thắng được nước[*]
Thủy khắc Hỏa: Chúng thắng Cô, nước có nhiều mới dập được lửa.​
[*]Hỏa khắc Kim: Tinh thắng Kiên, lửa có nóng mới nung chảy được kim loại. [/UL]
 
Hạng C
21/7/09
991
1
18
Ngũ Hành Hợp Hóa
Giáp với Kỷ hợp hóa Thổ, Ất với Canh hợp hóa Kim, Bính với Tân hợp hóa Thủy, Đinh với Nhâm hợp hóa Mộc, Mậu với Quý hợp hóa Hỏa.
Thứ tự 10 Can phối ghép số Hà Đồ thì:
1 là Giáp, 6 là Kỷ nên Giáp hợp Kỷ
2 là Ất, 7 là Canh nên Ất hợp Canh.
3 là Bính, 8 là Tân nên Bính hợp Tân.
4 là Đinh, 9 là Nhâm nên Đinh hợp Nhâm.
5 là Mậu, 10 là Quý nên Mậu hợp Quý.

Lục Hại sinh ra từ Lục Hợp nghĩa là không hòa thuận.
Tý hợp với Sửu mà Mùi lại xung Sửu, nên Tý Mùi Hại nhau.
Sửu hợp với Tí mà Ngọ lại xung Tí, nên Sửu Ngọ hại nhau.

Dần hợp với Hợi mà Tỵ lại xung Hợi, nên Dần Tỵ Hại nhau.
Mão hợp Tuất mà Thìn lại xung Tuất, nên Mão Thìn hại nhau.

Thìn hợp với Dậu mà Mão lại xung Dậu, nên Mão Thìn hại nhau
Tỵ hợp với Thân mà Dần lại xung Thân, nên Tỵ Dần hại nhau.

Ngọ hợp với Mùi mà Sửu lại xung Mùi, nên Ngọ Sửu hại nhau.
Mùi hợp với Ngọ mà Tí lại xung Ngọ, nên Mùi Tí hại nhau.

Thân hợp với Tỵ mà Hợi lại xung Tỵ, nên Thân Hợi hại nhau.
Dậu hợp với Thìn mà Tuất lại xung Thìn, nên Dậu Tuất hại nhau.

Tuất hợp với Mão mà Dậu lại xung Mão, nên Tuất Dậu hại nhau.
Hợi hợp với Dần mà Thân lại xung Dần, nên Thân Dần hại nhau.