Mèo sinh năm mấy mà học lớp 2 .Năm đó em thì đang học lớp 2, em ở khu tập thể ngân hàng vì mẹ em làm ở đó. Khu tập thể trong ngân hàng luôn
Ấn tượng duy nhất là buổi chiều hôm đó đi học về thì trước cửa Ngân hàng người bâu đông như kiến, công an vây chặt cổng, nội bất xuất ngoại bất nhập.
Lúc đó em lạ lắm, chả biết cái gì cả.
Nhưng cái tính láu táu em đi vòng ra phía đằng sau chổ có rẫy cafe em chui lỗ hàng ra vào ( lỗ này là cái lỗ em hay trốn đi chơi - em gọi nó là có lỗ bí mật mà - chỉ có mấy đứa trong tập thể em mới biết thôi)
Mình chui vào trong ngân hàng được thế là hiên ngang đi lờn vờn trước mắt mấy chú công an kiểu như khoe mình tự nhiên xuất hiện vậy đó ( đoè mẹ, ai mà biết sau đó minh bị giam lỏng luôn)
Lúc đó ngộ lắm nha. Toàn bộ cán bộ ngân hàng kể cả mẹ em cũng biến đi đâu hết, toàn bộ nhân viên là người lạ từ đâu tới không. Em lúc đó đâu có biết về phải tự nấu cơm chờ mẹ về như mọi lần nhưng chờ hoài chả thấy về... nhưng lạ là hôm nay em được xuống nhà ăn của ngân hàng ăn, ăn thoả thích lại có nhiều món nữa chứ, vậy là mình khỏi phải ăn cơm, khỏi phải rửa bát,,,, Sướng
Tối hôm đó mẹ em cũng không về, mấy cô mấy chú công an chắc sợ em buồn hay sao thế là rủ em lên phòng làm việc chơi. Mẹ ơi cái phòng đó ngày nào em chả lên, em thuộc từng cái bàn cái tủ, nhưng hôm nay toàn bộ cái phòng đó Tiền chất cao như núi, nhìn đâu cũng thấy tiền là tiền...
Buổi tối lần đầu tiên trong đời và cho đến nay là duy nhất em ngủ trên một cái giường kê bằng Tiền các bác ạ.
Ngày hôm sau đáng lẽ vẫn bị nhốt ( giam lỏng) thì em vẫn luồn lỗ chó để đi học như bình thường vì đến hôm đó vẫn chưa cho mở cổng...
Cứ như vậy 2 , 3 hôm sau gì đó em nhớ là bắt đầu cho đổi tiền nhưng là đổi ở các cơ quan khác - họ mượn cơ sở của các cơ quan làm chỗ giao dịch - chứ ngân hàng vẫn là nơi cất tiền, niêm phong tiền cũ ( 1 tuần sau đó thì chở đi đâu hết sạch).
Lác đác 1 vài người quen cũng chạy về nhà lấy đồ rồi lại đi. Lúc đó em nghe nói là đổi tiền gì đó mà 10 đồng thành 1 đồng, em cũng hân hạnh được mấy cô chú ở cơ quan cho mấy đồng để đi học ăn quà. Nhớ hôm cầm ra căng tin không biết mua bán thế nào luôn, mấy bà căng tin xúm lại ngó ngó nghiêng nghiêng gì đó, rồi cũng mua được vài thứ linh tinh gì đó em cũng chả nhớ
Sau bữa đó em có được gặp mẹ em 1 lần vì đang ở chỗ khác đếm tiền.
1 tuần sau đó thì mẹ em mới về.
Lần đầu tiên em được thấy cái nồi cơm nấu hôm tuần trước nó mốc xanh luôn. Do cả tuần rồi được ăn xả láng ở căng tin.
Lạ là mẹ em chẳng la em gì cả! hehehe
Tâm lý bầy đàn, cần thể hiện liêm chính để xung quanh ngưỡng mộ đó bác!!! HayyaĐúng và sai.
Ông cụ nhà em Pháo binh, đánh từ Ban Mê xuống Sài Gòn thời 75 thôi đó bác. "Nếu" ông già em mà tư tưởng " tư sản" thì em mới giàu, khổ nỗi ông cụ nhà rất rất liêm chính nên giờ là thằng con cày thí mụ nội chưa ăn ai và giờ ở chung cư ....tái định cư đây.
Nhớ hồi đổi tiền năm đó, ông cụ nhà sau khi đổi còn mỗi 1.000 đồng cho cả nhà là các biết khổ thế nào, đi "mót" rau sam, rau dệu, rau dền và tự trồng trọt mà lấy cái ăn. Con gà thì nhờ có ông cậu đánh ở Cam mang về cho mấy con nuôi lấy trứng, con nào bệnh lăn ra chết ko dám vứt mà thịt ăn luôn ( ơn giời, nhà em chả ai die sau khi xơi món đó cả).
Còn em ư? Ông cụ giao nhiệm vụ xách ca trà đá bán cho mấy vị nhận hàng từ Mẽo gửi về, cả buổi cũng bán được vài ca, kiếm độ nhật qua ngày. Nghĩ lại vẫn thấy thời khốn khó ngày đó như in![]()
Hiện giờ tôi biết có nhiều ông hàng ngày ngồi gậm mấy cái huy, chương, huân chương tưởng tượng là socola, miệng thì lằm bằm chửi hết từ thằng TBT xuống đến thằng dân quèn. Có ông thiệt tội là do con cái nghèo quá, nhưng cũng có ông con cái nó càm ràm suốt ngày chịu khg nổi phải tự sống
Bác đừng có càm ràm ông cụ ở nhà nghe! Tội nghiệp lắm, cái gì qua rồi thì thôi!
hi hi hi, đùa tí
Hè hè, em hiểu ý bác . Đương nhiên khi viết ra thì em đã ko trách gì ông cụ cả, mỗi người có lý tưởng riêng mà.Tâm lý bầy đàn, cần thể hiện liêm chính để xung quanh ngưỡng mộ đó bác!!! Hayya
Hiện giờ tôi biết có nhiều ông hàng ngày ngồi gậm mấy cái huy, chương, huân chương tưởng tượng là socola, miệng thì lằm bằm chửi hết từ thằng TBT xuống đến thằng dân quèn. Có ông thiệt tội là do con cái nghèo quá, nhưng cũng có ông con cái nó càm ràm suốt ngày chịu khg nổi phải tự sống
Bác đừng có càm ràm ông cụ ở nhà nghe! Tội nghiệp lắm, cái gì qua rồi thì thôi!
hi hi hi, đùa tí
Tiếp xíu về huy chương: chính năm đổi tiền đó, tui em lấy huy / huân chương ra làm đồ chơi vì nhà nghèo quá, chả có gì chơi. Sau ông cụ làm Kế toán trưởng của KS 66B (Victory hiện giờ, hồ bơi sân thượng hồi đó toàn em nghịch là chính), nhà có khá hơn nhưng cũng chỉ là khoai tây hỏng nhiều, sữa bột / hộp hết date thanh lý ( mang về nấu với kẹo lạc ăn chứ uống ko vào nữa vì nó vón cục mất rồi)....
Còn lính ông cụ giờ làm khá to bên BQP ( Cục trưởng ABC gì gì ấy) , lần ra HN ông cụ nhà được lính cũ cho 1 xe, 1 lái xe, 1 cận vệ đi khắp miền Bắc tham quan này nọ....thế mà ko biết "tận dụng" kiếm chác gì cho thằng con, hix hix .
Được cái thì giờ nhờ cày cuốc trong 10 năm sau đó, nhà em có dư xíu, em ăn học đầy đủ... Ông bà cụ giờ chỉ ngồi nhà lo uống thuốc, thể dục, và chữa bệnh loanh quanh cho hàng xóm ( free) và em cũng ko phải góp tiền bạc nuôi ông bà cụ hàng tháng là vui rồi ( lương hưu đủ sống, dư chút do tiền thuê nhà)....
Tâm sự hơi dài, nhưng những ký ức thời "đó" em ko thể quên được dù có

thông tin phân tích thời kỳ đó có nhiều mà các Bác , gửi các Bác bài của Bác Trần Xuân Giá, người đương thời lúc đó :
Cách đây hơn 1/4 thế kỷ, việc thực hiện cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền đã đẩy nền kinh tế Việt Namđứng trước vòng xoáy của sự hỗn loạn. Tuy nhiên, “dĩ cùng tắc biến”, sự thất bại đó đã đưa Đảng ta đến một sự lựa chọn: “Đổi mới hay là chết” với những quyết định lịch sử tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ (TS) Trần Xuân Giá, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người đã trực tiếp chứng kiến và tham gia các cuộc điều chỉnh này với vai trò là Phó chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước thời kỳ đó...
TS Trần Xuân Giá:Thực hiện các nghị quyết nói trên của Đảng, chúng ta đã tiến hành 2 cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền. Lần 1 vào năm 1980 – 1981 và lần 2 vào năm 1985. Hai cuộc điều chỉnh này gần như giống nhau về mục tiêu, nguyên tắc và cách làm. Chỉ khác là năm 1985 có phạm vi rộng hơn, quy mô lớn hơn, có đổi tiền, còn trước đó thì không.
PV: Có thể hình dung như thế nào về bối cảnh dẫn đến các cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền khi đó, thưa ông?
TS Trần Xuân Giá:Trước năm 1980, thị trường miền Bắc chỉ có chủ thể duy nhất đó là nhà nước. Nhà nước mua, nhà nước bán; lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Do đó, giá cả không có ý nghĩa gì. Còn tiền lương thì một phần được trả bằng hiện vật, thông qua các mặt hàng thiết yếu (ban đầu có 45, sau còn 9, rồi 3 mặt hàng). Ở miền Nam, bên cạnh giá nhà nước thì thị trường tự do vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù đã bị co hẹp nhiều khi chúng ta tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa sau ngày thống nhất đất nước.
Bước sang năm 1980 ở ngoài nước có một sự kiện tác động rất mạnh đến nền kinh tế nước ta. Đó là khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa) thay đổi nguyên tắc tính giá các mặt hàng mà chúng ta nhập khẩu. Nghĩa là từ việc chúng ta nhập khẩu với giá rất thấp nay phải chuyển sang giá mua bán thông thường trên thị trường với giá nhập khẩu cao hơn trước rất nhiều. Việc thay đổi này làm chúng ta mất khoảng 1 tỷ rúp chuyển nhượng mỗi năm (tương đương khoảng 1,6 đến 1,7 tỷ USD). Từ chỗ làm không đủ ăn, ngân sách thu không đủ chi, một phần phải vay cho tiêu dùng trong điều kiện giá nhập khẩu tăng lên tiếp tục là một sức ép cho một nền kinh tế vốn đang rất ốm yếu…
Lúc này trong nước đã xuất hiện hai loại thị trường với tên gọi: Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức. Trong hệ thống quản lý nhà nước cũng xuất hiện một yếu tố rất mới, đó là có thêm kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết) và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Trước chỉ có kế hoạch 1 phần, nhà nước giao toàn bộ chỉ tiêu đầu vào cho sản xuất, đồng thời quyết định đầu ra của sản phẩm (bán cho ai, bán khi nào và bán theo giá nào). Trên thị trường hình thành 3 loại giá: Giá cứng của nhà nước, giá do nhà nước định một phần và giá do doanh nghiệp tự định theo nguyên tắc thỏa thuận (giá thỏa thuận). Ban đầu, 3 loại giá này chênh nhau không nhiều nhưng càng ngày chênh càng lớn, dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, khó kiểm soát như tuồn vật tư ra ngoài, vào trong rất phức tạp…
PV: Phương án của cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã được đưa ra như thế nào?
TS Trần Xuân Giá:Việc điều chỉnh được thực hiện theo nguyên tắc: Trừ một số mặt hàng rất quan trọng, còn lại tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả; đảm bảo tiền lương thực tế và xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở y tế. Phương án điều chỉnh được đưa ra là:
Về giá, để tiện cho tính toán, lấy giá thóc làm chuẩn, các mức giá của hàng hóa khác được quy ra theo giá thóc. Năm 1985, giá thóc được các chuyên gia tính toán trên thực tế bình quân là 25 đồng/kg (trước đổi tiền 14-9-1985). Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao hơn hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật tư như xăng, dầu, xi măng, sắt…
Về lương, thực hiện nâng giá đến đâu thì tăng lương theo đó (bù giá vào lương theo cách nói lúc bấy giờ).
Về tiền, để đáp ứng giá mới, lương mới thì phải in thêm tiền, bảo đảm tổng tiền lưu thông trong cuộc điều chỉnh năm 1985 là 120 tỷ đồng. Nhưng vì không tự in được tiền và để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, Chính phủ chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như thế, 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Như vậy, với việc điều chỉnh này trên thị trường đã hình thành mặt bằng giá mới, lương mới và tiền mới.
“Vỡ trận”, do đâu?
PV: Mong muốn của các nhà cải cách khi đó là khi nâng giá lên theo giá thị trường thì có thể cố định và quản lý theo cơ chế một giá đó nhưng cuối cùng đã thất bại. Giá cả tăng vọt, lạm phát phi mã. Tiền lương không còn ý nghĩa…
TS Trần Xuân Giá:Ban đầu kế hoạch tăng lương là 20% nhưng các bộ và tỉnh cho rằng mức đó là quá ít. Chính phủ chấp nhận tăng lương 100%. Trong khi đó, mức giá mới được Chính phủ quyết định đã rút xuống còn khoảng 70% so với kế hoạch ban đầu. Kết quả là chi ngân sách cho tiền lương tăng vọt nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức như dự kiến. Để cứu ngân sách, tiền được phát hành hơn rất nhiều so với kế hoạch làm cho vật giá tăng mạnh (riêng với nông sản, năm 1986 tăng 2000% so với năm 1976) và lạm phát bùng nổ (đỉnh điểm năm 1986 lên đến 774%), làm kiệt quệ kinh tế. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Để điều chỉnh tình trạng suy thoái với những biện pháp giảm lượng hàng buôn qua ngả chợ đen đã dẫn đến việc “ngăn sông cấm chợ” và lùng bắt hàng “lậu”. Nhưng những biện pháp hành chính đó càng làm lệch lạc hệ thống giá cả…
PV: Nói như nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Đặng Phong thì cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã bị “vỡ trận”. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính của thất bại này?
TS Trần Xuân Giá:Chúng ta đề ra chủ trương thực hiện các cuộc điều chỉnh về giá – lương – tiền, đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh năm 1985 trong tình hình kinh tế đang biến động mạnh, song lại thiếu biện pháp đồng bộ và các giải pháp cụ thể, tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế nên khi triển khai nghị quyết vào cuộc sống đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Mà nguyên nhân mấu chốt ở đây chính là chắp vá giữa tư tưởng cải cách với mô hình, cơ chế quản lý cũ đã lạc hậu… Nhưng thất bại này đã giúp Đảng ta có thêm những căn cứ, cơ sở quan trọng để đưa ra quyết định lịch sử tại Đại hội VI.
Cách đây hơn 1/4 thế kỷ, việc thực hiện cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền đã đẩy nền kinh tế Việt Namđứng trước vòng xoáy của sự hỗn loạn. Tuy nhiên, “dĩ cùng tắc biến”, sự thất bại đó đã đưa Đảng ta đến một sự lựa chọn: “Đổi mới hay là chết” với những quyết định lịch sử tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ (TS) Trần Xuân Giá, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người đã trực tiếp chứng kiến và tham gia các cuộc điều chỉnh này với vai trò là Phó chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước thời kỳ đó...
TS Trần Xuân Giá:Thực hiện các nghị quyết nói trên của Đảng, chúng ta đã tiến hành 2 cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền. Lần 1 vào năm 1980 – 1981 và lần 2 vào năm 1985. Hai cuộc điều chỉnh này gần như giống nhau về mục tiêu, nguyên tắc và cách làm. Chỉ khác là năm 1985 có phạm vi rộng hơn, quy mô lớn hơn, có đổi tiền, còn trước đó thì không.
PV: Có thể hình dung như thế nào về bối cảnh dẫn đến các cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền khi đó, thưa ông?
TS Trần Xuân Giá:Trước năm 1980, thị trường miền Bắc chỉ có chủ thể duy nhất đó là nhà nước. Nhà nước mua, nhà nước bán; lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Do đó, giá cả không có ý nghĩa gì. Còn tiền lương thì một phần được trả bằng hiện vật, thông qua các mặt hàng thiết yếu (ban đầu có 45, sau còn 9, rồi 3 mặt hàng). Ở miền Nam, bên cạnh giá nhà nước thì thị trường tự do vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù đã bị co hẹp nhiều khi chúng ta tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa sau ngày thống nhất đất nước.
Bước sang năm 1980 ở ngoài nước có một sự kiện tác động rất mạnh đến nền kinh tế nước ta. Đó là khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa) thay đổi nguyên tắc tính giá các mặt hàng mà chúng ta nhập khẩu. Nghĩa là từ việc chúng ta nhập khẩu với giá rất thấp nay phải chuyển sang giá mua bán thông thường trên thị trường với giá nhập khẩu cao hơn trước rất nhiều. Việc thay đổi này làm chúng ta mất khoảng 1 tỷ rúp chuyển nhượng mỗi năm (tương đương khoảng 1,6 đến 1,7 tỷ USD). Từ chỗ làm không đủ ăn, ngân sách thu không đủ chi, một phần phải vay cho tiêu dùng trong điều kiện giá nhập khẩu tăng lên tiếp tục là một sức ép cho một nền kinh tế vốn đang rất ốm yếu…
Lúc này trong nước đã xuất hiện hai loại thị trường với tên gọi: Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức. Trong hệ thống quản lý nhà nước cũng xuất hiện một yếu tố rất mới, đó là có thêm kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết) và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Trước chỉ có kế hoạch 1 phần, nhà nước giao toàn bộ chỉ tiêu đầu vào cho sản xuất, đồng thời quyết định đầu ra của sản phẩm (bán cho ai, bán khi nào và bán theo giá nào). Trên thị trường hình thành 3 loại giá: Giá cứng của nhà nước, giá do nhà nước định một phần và giá do doanh nghiệp tự định theo nguyên tắc thỏa thuận (giá thỏa thuận). Ban đầu, 3 loại giá này chênh nhau không nhiều nhưng càng ngày chênh càng lớn, dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, khó kiểm soát như tuồn vật tư ra ngoài, vào trong rất phức tạp…
PV: Phương án của cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã được đưa ra như thế nào?
TS Trần Xuân Giá:Việc điều chỉnh được thực hiện theo nguyên tắc: Trừ một số mặt hàng rất quan trọng, còn lại tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả; đảm bảo tiền lương thực tế và xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở y tế. Phương án điều chỉnh được đưa ra là:
Về giá, để tiện cho tính toán, lấy giá thóc làm chuẩn, các mức giá của hàng hóa khác được quy ra theo giá thóc. Năm 1985, giá thóc được các chuyên gia tính toán trên thực tế bình quân là 25 đồng/kg (trước đổi tiền 14-9-1985). Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao hơn hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật tư như xăng, dầu, xi măng, sắt…
Về lương, thực hiện nâng giá đến đâu thì tăng lương theo đó (bù giá vào lương theo cách nói lúc bấy giờ).
Về tiền, để đáp ứng giá mới, lương mới thì phải in thêm tiền, bảo đảm tổng tiền lưu thông trong cuộc điều chỉnh năm 1985 là 120 tỷ đồng. Nhưng vì không tự in được tiền và để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, Chính phủ chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như thế, 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Như vậy, với việc điều chỉnh này trên thị trường đã hình thành mặt bằng giá mới, lương mới và tiền mới.
“Vỡ trận”, do đâu?
PV: Mong muốn của các nhà cải cách khi đó là khi nâng giá lên theo giá thị trường thì có thể cố định và quản lý theo cơ chế một giá đó nhưng cuối cùng đã thất bại. Giá cả tăng vọt, lạm phát phi mã. Tiền lương không còn ý nghĩa…
TS Trần Xuân Giá:Ban đầu kế hoạch tăng lương là 20% nhưng các bộ và tỉnh cho rằng mức đó là quá ít. Chính phủ chấp nhận tăng lương 100%. Trong khi đó, mức giá mới được Chính phủ quyết định đã rút xuống còn khoảng 70% so với kế hoạch ban đầu. Kết quả là chi ngân sách cho tiền lương tăng vọt nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức như dự kiến. Để cứu ngân sách, tiền được phát hành hơn rất nhiều so với kế hoạch làm cho vật giá tăng mạnh (riêng với nông sản, năm 1986 tăng 2000% so với năm 1976) và lạm phát bùng nổ (đỉnh điểm năm 1986 lên đến 774%), làm kiệt quệ kinh tế. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Để điều chỉnh tình trạng suy thoái với những biện pháp giảm lượng hàng buôn qua ngả chợ đen đã dẫn đến việc “ngăn sông cấm chợ” và lùng bắt hàng “lậu”. Nhưng những biện pháp hành chính đó càng làm lệch lạc hệ thống giá cả…
PV: Nói như nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Đặng Phong thì cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã bị “vỡ trận”. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính của thất bại này?
TS Trần Xuân Giá:Chúng ta đề ra chủ trương thực hiện các cuộc điều chỉnh về giá – lương – tiền, đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh năm 1985 trong tình hình kinh tế đang biến động mạnh, song lại thiếu biện pháp đồng bộ và các giải pháp cụ thể, tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế nên khi triển khai nghị quyết vào cuộc sống đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Mà nguyên nhân mấu chốt ở đây chính là chắp vá giữa tư tưởng cải cách với mô hình, cơ chế quản lý cũ đã lạc hậu… Nhưng thất bại này đã giúp Đảng ta có thêm những căn cứ, cơ sở quan trọng để đưa ra quyết định lịch sử tại Đại hội VI.
@qvn : mấy bài đó đọc tham khảo thôi bác, nó có định hướng hết rồi
Lúc đó cũng có nghe thông tin là xung đột quyền lực ở cỏi trên, giữa nhóm NVL và nhóm bảo thủ. TH là một thành viên nhóm bảo thủ muốn nhân dịp đổi tiền để dẹp luôn mấy mầm TS còn sót lại! Tin của bà bán chè, bả nói ai nghe hoặc không nghe thì tùy, bả chỉ chuyên bán chè thôi
Lúc đó cũng có nghe thông tin là xung đột quyền lực ở cỏi trên, giữa nhóm NVL và nhóm bảo thủ. TH là một thành viên nhóm bảo thủ muốn nhân dịp đổi tiền để dẹp luôn mấy mầm TS còn sót lại! Tin của bà bán chè, bả nói ai nghe hoặc không nghe thì tùy, bả chỉ chuyên bán chè thôi
thông tin phân tích thời kỳ đó có nhiều mà các Bác , gửi các Bác bài của Bác Trần Xuân Giá, người đương thời lúc đó :
Cách đây hơn 1/4 thế kỷ, việc thực hiện cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền đã đẩy nền kinh tế Việt Namđứng trước vòng xoáy của sự hỗn loạn. Tuy nhiên, “dĩ cùng tắc biến”, sự thất bại đó đã đưa Đảng ta đến một sự lựa chọn: “Đổi mới hay là chết” với những quyết định lịch sử tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ (TS) Trần Xuân Giá, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người đã trực tiếp chứng kiến và tham gia các cuộc điều chỉnh này với vai trò là Phó chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước thời kỳ đó...
TS Trần Xuân Giá:Thực hiện các nghị quyết nói trên của Đảng, chúng ta đã tiến hành 2 cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền. Lần 1 vào năm 1980 – 1981 và lần 2 vào năm 1985. Hai cuộc điều chỉnh này gần như giống nhau về mục tiêu, nguyên tắc và cách làm. Chỉ khác là năm 1985 có phạm vi rộng hơn, quy mô lớn hơn, có đổi tiền, còn trước đó thì không.
PV: Có thể hình dung như thế nào về bối cảnh dẫn đến các cuộc điều chỉnh về giá - lương - tiền khi đó, thưa ông?
TS Trần Xuân Giá:Trước năm 1980, thị trường miền Bắc chỉ có chủ thể duy nhất đó là nhà nước. Nhà nước mua, nhà nước bán; lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Do đó, giá cả không có ý nghĩa gì. Còn tiền lương thì một phần được trả bằng hiện vật, thông qua các mặt hàng thiết yếu (ban đầu có 45, sau còn 9, rồi 3 mặt hàng). Ở miền Nam, bên cạnh giá nhà nước thì thị trường tự do vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù đã bị co hẹp nhiều khi chúng ta tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa sau ngày thống nhất đất nước.
Bước sang năm 1980 ở ngoài nước có một sự kiện tác động rất mạnh đến nền kinh tế nước ta. Đó là khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa) thay đổi nguyên tắc tính giá các mặt hàng mà chúng ta nhập khẩu. Nghĩa là từ việc chúng ta nhập khẩu với giá rất thấp nay phải chuyển sang giá mua bán thông thường trên thị trường với giá nhập khẩu cao hơn trước rất nhiều. Việc thay đổi này làm chúng ta mất khoảng 1 tỷ rúp chuyển nhượng mỗi năm (tương đương khoảng 1,6 đến 1,7 tỷ USD). Từ chỗ làm không đủ ăn, ngân sách thu không đủ chi, một phần phải vay cho tiêu dùng trong điều kiện giá nhập khẩu tăng lên tiếp tục là một sức ép cho một nền kinh tế vốn đang rất ốm yếu…
Lúc này trong nước đã xuất hiện hai loại thị trường với tên gọi: Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức. Trong hệ thống quản lý nhà nước cũng xuất hiện một yếu tố rất mới, đó là có thêm kế hoạch 2 (kế hoạch liên doanh liên kết) và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Trước chỉ có kế hoạch 1 phần, nhà nước giao toàn bộ chỉ tiêu đầu vào cho sản xuất, đồng thời quyết định đầu ra của sản phẩm (bán cho ai, bán khi nào và bán theo giá nào). Trên thị trường hình thành 3 loại giá: Giá cứng của nhà nước, giá do nhà nước định một phần và giá do doanh nghiệp tự định theo nguyên tắc thỏa thuận (giá thỏa thuận). Ban đầu, 3 loại giá này chênh nhau không nhiều nhưng càng ngày chênh càng lớn, dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, khó kiểm soát như tuồn vật tư ra ngoài, vào trong rất phức tạp…
PV: Phương án của cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã được đưa ra như thế nào?
TS Trần Xuân Giá:Việc điều chỉnh được thực hiện theo nguyên tắc: Trừ một số mặt hàng rất quan trọng, còn lại tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá cả; đảm bảo tiền lương thực tế và xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành và các cơ sở y tế. Phương án điều chỉnh được đưa ra là:
Về giá, để tiện cho tính toán, lấy giá thóc làm chuẩn, các mức giá của hàng hóa khác được quy ra theo giá thóc. Năm 1985, giá thóc được các chuyên gia tính toán trên thực tế bình quân là 25 đồng/kg (trước đổi tiền 14-9-1985). Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao hơn hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật tư như xăng, dầu, xi măng, sắt…
Về lương, thực hiện nâng giá đến đâu thì tăng lương theo đó (bù giá vào lương theo cách nói lúc bấy giờ).
Về tiền, để đáp ứng giá mới, lương mới thì phải in thêm tiền, bảo đảm tổng tiền lưu thông trong cuộc điều chỉnh năm 1985 là 120 tỷ đồng. Nhưng vì không tự in được tiền và để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, Chính phủ chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như thế, 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Như vậy, với việc điều chỉnh này trên thị trường đã hình thành mặt bằng giá mới, lương mới và tiền mới.
“Vỡ trận”, do đâu?
PV: Mong muốn của các nhà cải cách khi đó là khi nâng giá lên theo giá thị trường thì có thể cố định và quản lý theo cơ chế một giá đó nhưng cuối cùng đã thất bại. Giá cả tăng vọt, lạm phát phi mã. Tiền lương không còn ý nghĩa…
TS Trần Xuân Giá:Ban đầu kế hoạch tăng lương là 20% nhưng các bộ và tỉnh cho rằng mức đó là quá ít. Chính phủ chấp nhận tăng lương 100%. Trong khi đó, mức giá mới được Chính phủ quyết định đã rút xuống còn khoảng 70% so với kế hoạch ban đầu. Kết quả là chi ngân sách cho tiền lương tăng vọt nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức như dự kiến. Để cứu ngân sách, tiền được phát hành hơn rất nhiều so với kế hoạch làm cho vật giá tăng mạnh (riêng với nông sản, năm 1986 tăng 2000% so với năm 1976) và lạm phát bùng nổ (đỉnh điểm năm 1986 lên đến 774%), làm kiệt quệ kinh tế. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có. Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Để điều chỉnh tình trạng suy thoái với những biện pháp giảm lượng hàng buôn qua ngả chợ đen đã dẫn đến việc “ngăn sông cấm chợ” và lùng bắt hàng “lậu”. Nhưng những biện pháp hành chính đó càng làm lệch lạc hệ thống giá cả…
PV: Nói như nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Đặng Phong thì cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền đã bị “vỡ trận”. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính của thất bại này?
TS Trần Xuân Giá:Chúng ta đề ra chủ trương thực hiện các cuộc điều chỉnh về giá – lương – tiền, đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh năm 1985 trong tình hình kinh tế đang biến động mạnh, song lại thiếu biện pháp đồng bộ và các giải pháp cụ thể, tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế nên khi triển khai nghị quyết vào cuộc sống đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Mà nguyên nhân mấu chốt ở đây chính là chắp vá giữa tư tưởng cải cách với mô hình, cơ chế quản lý cũ đã lạc hậu… Nhưng thất bại này đã giúp Đảng ta có thêm những căn cứ, cơ sở quan trọng để đưa ra quyết định lịch sử tại Đại hội VI.
tóm lại 3 chữ "ngu mà lì"
Thời điểm đó em đang làm công nhân 1 xí nghiệp in ở Phú Nhuận. Trước đổi tiền mấy ngày, em được xí nghiệp cho đi nghỉ an dưỡng ở nhà nghỉ Thanh Đa 15 ngày. Đổi tiền xong thì thằng bạn mang lương tạm ứng giữa tháng lên Thanh Đa cho em. 2 thằng ra chợ Thanh Đa mà không ăn uống được gì vì không có tiền thối. Đạp xe miết về Gò Vấp, ghé vô cửa hàng ăn uống ngay ngã 5 chuồng chó, rủ thêm mấy thằng trong xí nghiệp nữa ra ăn uống, làm thêm chai rượu maxim thì mới xài được tiền.
Em ko rõ, nhưng ông cụ nhà em oánh bên Lào là chính ( hỗ trợ Lào đánh Mỹ từ phía biên giới Thái). Khi giải phóng thì từ Lào phi qua Ban Mê rồi đánh xuống Sài Gòn.@Mustafa, ah cũng con nhà Pháo, có khi ông cụ học ở Pháo Binh Sơn Tây?