Đôi nét về “liên minh” DWK
Jorgen Skaffe Ramussen, một người sinh tại Đan Mạch, thành lập công ty đầu tiên của mình tại Saxony sau khi lấy bằng kỹ sư tại Mittweida. Năm 1904, ông thành lập một công ty kỹ thuật tại Chemnitz và 3 năm sau chuyển đến Zschopau, Erzgebirge, nơi ông bắt đầu nghiên cứu xe chạy bằng động cơ hơi nước năm 1916. Mặc dù những thí nghiệm này không tạo ra một sản phẩm nào nhưng nó đã giúp hình thành tên và thương hiệu DKW của công ty. DKW trong tiếng Đức là “Dampf Fraft Wagen” có nghĩa là xe sử dụng động cơ hơi nước.
Năm 1919, Rasmussen mua mẫu thiết kế động cơ 2 kỳ của Hugo Ruppe. Một phiên bản nhỏ của động cơ này được bán dưới dạng động cơ đồ chơi với tên gọi “The Boy’s Dream”. Động cơ nhỏ này sau đó được phát triển lớn hơn và được sử dụng như một động cơ phụ. Dưới sự điều hành của Rasmussen (cùng với giám đốc Kleine Wunder và kĩ sư trưởng Hernann Weber), DKW trở thành hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới vào những năm 1920 và cũng là một trong những nhà sản xuất đông cơ ô tô hàng đầu.
Năm 1927, Rasmussen mua lại thiết kế và cơ sở sản xuất động cơ 6 và 8 xylanh từ một công ty ô tô ở Detroit. Hai mẫu xe mới của Audi sử dụng 2 động cơ này được tung ra thị trường. Tuy nhiên, Rasmussen nhận thấy nhu cầu của thị trường và bắt tay vào sản xuất nhửng chiếc xe nhỏ. Chiếc xe thật sự đầu tiên của DKW sử dụng hệ thống dẫn động bánh sau và được sản xuất tại Berlin-Spandau. Cuối năm 1930, Rasmussen giao cho nhà máy tại Zwickau phát triển một mẫu xe với với những đặc điểm thiết kế như: động cơ 2 xylanh, 2 kỳ với dung tích 600 cc, chassis bằng gỗ nguyên khối bọc da giả và sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước. Chiếc xe này được thiết kế bởi Walter haustein và Oskar Arlt và có tên là DKW Front. Nó được giới thiệu lần đầu tiên tại triển lãm ô tô Berlin năm 1931 và nhanh chóng chiếm được cảm tình của khách hàng. Chiếc DKW Front được sản xuất tại nhà máy của Audi và trở thành chiếc xe nhỏ của Đức phổ biến nhất và được sản xuất nhiều nhất vào thời điểm đó.
Mẫu xe motor biệt danh "singing saw" có mặt vào năm 1952 và được trang bị ộng cơ 350cc có 3 máy. Chiếc xe motor trên đã nhận giả thưởng đặc biệt là mẫu xe motor nhanh nhât của Đức.
Chiếc DKW RT 125W là chiếc xe motor DKW được sản suất sau thế chiến thứ 2. Động cơ 2 thì, 4.75 mã lực có 3 hộp số.
Jorgen Skaffe Ramussen, một người sinh tại Đan Mạch, thành lập công ty đầu tiên của mình tại Saxony sau khi lấy bằng kỹ sư tại Mittweida. Năm 1904, ông thành lập một công ty kỹ thuật tại Chemnitz và 3 năm sau chuyển đến Zschopau, Erzgebirge, nơi ông bắt đầu nghiên cứu xe chạy bằng động cơ hơi nước năm 1916. Mặc dù những thí nghiệm này không tạo ra một sản phẩm nào nhưng nó đã giúp hình thành tên và thương hiệu DKW của công ty. DKW trong tiếng Đức là “Dampf Fraft Wagen” có nghĩa là xe sử dụng động cơ hơi nước.
Năm 1919, Rasmussen mua mẫu thiết kế động cơ 2 kỳ của Hugo Ruppe. Một phiên bản nhỏ của động cơ này được bán dưới dạng động cơ đồ chơi với tên gọi “The Boy’s Dream”. Động cơ nhỏ này sau đó được phát triển lớn hơn và được sử dụng như một động cơ phụ. Dưới sự điều hành của Rasmussen (cùng với giám đốc Kleine Wunder và kĩ sư trưởng Hernann Weber), DKW trở thành hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới vào những năm 1920 và cũng là một trong những nhà sản xuất đông cơ ô tô hàng đầu.
Năm 1927, Rasmussen mua lại thiết kế và cơ sở sản xuất động cơ 6 và 8 xylanh từ một công ty ô tô ở Detroit. Hai mẫu xe mới của Audi sử dụng 2 động cơ này được tung ra thị trường. Tuy nhiên, Rasmussen nhận thấy nhu cầu của thị trường và bắt tay vào sản xuất nhửng chiếc xe nhỏ. Chiếc xe thật sự đầu tiên của DKW sử dụng hệ thống dẫn động bánh sau và được sản xuất tại Berlin-Spandau. Cuối năm 1930, Rasmussen giao cho nhà máy tại Zwickau phát triển một mẫu xe với với những đặc điểm thiết kế như: động cơ 2 xylanh, 2 kỳ với dung tích 600 cc, chassis bằng gỗ nguyên khối bọc da giả và sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước. Chiếc xe này được thiết kế bởi Walter haustein và Oskar Arlt và có tên là DKW Front. Nó được giới thiệu lần đầu tiên tại triển lãm ô tô Berlin năm 1931 và nhanh chóng chiếm được cảm tình của khách hàng. Chiếc DKW Front được sản xuất tại nhà máy của Audi và trở thành chiếc xe nhỏ của Đức phổ biến nhất và được sản xuất nhiều nhất vào thời điểm đó.
Mẫu xe motor biệt danh "singing saw" có mặt vào năm 1952 và được trang bị ộng cơ 350cc có 3 máy. Chiếc xe motor trên đã nhận giả thưởng đặc biệt là mẫu xe motor nhanh nhât của Đức.
Chiếc DKW RT 125W là chiếc xe motor DKW được sản suất sau thế chiến thứ 2. Động cơ 2 thì, 4.75 mã lực có 3 hộp số.
Last edited by a moderator:
Liên minh thứ 2: Wanderer
Cái tên “Wanderer” có nguồn gốc từ năm 1896, khi tiếng tăm của nó đi kèm với những chiếc xe đạp được sản xuất bởi Winklhofer & Jaenicke, một công ty được thành lập năm 1885 tại Chemnitz. Việc sản xuất ô tô được bắt đầu vào năm 1902 và chiếc xe đầu tiên được sản xuất thử vào năm 1904. Một chiếc xe nhỏ có tên là “Puppchen” được đưa vào sản xuất đại trà năm 1913 và trở nên rất phổ biến. Không mẫu xe nào có hiệu suất cao hơn được sản xuất mãi đến năm 1926 khi chiếc Wanderer Type W 10 với động cơ dung tích 1.5 lít công suất 30 mã lực được giới thiệu ra thị trường. Chiếc xe này kết hợp tất cả những công nghệ kỹ thuật hiện đại nhất trong ngành công nghiệp ô tô thế giới lúc bấy giờ, ví dụ như vô lăng bên trái, hộp số đặt ở giữa, khớp ly hợp gồm nhiều tấm kim loại, động cơ và hộp số nguyên khối và hệ thống phanh 4 bánh. Chiếc xe này được khách hàng đón nhận nồng nhiệt.
Để đáp ứng được nhu cầu tăng cao, một nhà máy sản xuất mới được xây dựng tại Siegmar, ngoại ô của Chemnitz. Phụ tùng của xe vẫn được sản xuất tại nhà máy cũ và được chuyển đến nhà máy lắp ráp bằng xe lửa. Những phụ tùng này được đổ từ toa xe lửa xuống thẳng dây chuyền lắp ráp, một phương thức được sử dụng phổ biến trong những năm 1920. Nhà máy tại Siegmar chỉ có thể chứa được số lượng phụ tùng đủ lắp ráp 25 chiếc xe – bằng sản lượng hằng ngày của nhà máy.
Hình ảnh thương hiệu của Wanderer gắn liền với sự ổn định và chất lượng vượt trội của các sản phẩm của mình. Đến cuối những năm 1920, Wanderer cống gắng tránh cuộc khủng hoảng bẳng cách cho ra đời nhiều mẫu xe có thiết kế hiện đạt và động cơ mạnh mẽ. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi này, sản lượng của công ty giảm xuống rõ rệt. Hoạt động sản xuất ô tô của Wanderer đứng bên bờ vực thẳm. Toàn bộ phân nhánh sản xuất mô tô được bán cho NSU và một công ty của Séc là Janecek.
Trên là chiếc Wanderer W25K đời 1936 , phải nói là hàng "nóng" và bắt mắt nhất thời điểm đó bởi kiểu dáng thể thao và quyến rũ. Động cơ Supercharge 6 máy được thiết kế bở Ferdinand Porsche với công suất "cực mạnh" 85 mã lực ...gấp đôi công suất của mẫu tương tự W50 do không có hệ thống supercharge. Ngoài ra xe có thể đạt tốc độ tối đa là 150km/h ..
Cái tên “Wanderer” có nguồn gốc từ năm 1896, khi tiếng tăm của nó đi kèm với những chiếc xe đạp được sản xuất bởi Winklhofer & Jaenicke, một công ty được thành lập năm 1885 tại Chemnitz. Việc sản xuất ô tô được bắt đầu vào năm 1902 và chiếc xe đầu tiên được sản xuất thử vào năm 1904. Một chiếc xe nhỏ có tên là “Puppchen” được đưa vào sản xuất đại trà năm 1913 và trở nên rất phổ biến. Không mẫu xe nào có hiệu suất cao hơn được sản xuất mãi đến năm 1926 khi chiếc Wanderer Type W 10 với động cơ dung tích 1.5 lít công suất 30 mã lực được giới thiệu ra thị trường. Chiếc xe này kết hợp tất cả những công nghệ kỹ thuật hiện đại nhất trong ngành công nghiệp ô tô thế giới lúc bấy giờ, ví dụ như vô lăng bên trái, hộp số đặt ở giữa, khớp ly hợp gồm nhiều tấm kim loại, động cơ và hộp số nguyên khối và hệ thống phanh 4 bánh. Chiếc xe này được khách hàng đón nhận nồng nhiệt.
Để đáp ứng được nhu cầu tăng cao, một nhà máy sản xuất mới được xây dựng tại Siegmar, ngoại ô của Chemnitz. Phụ tùng của xe vẫn được sản xuất tại nhà máy cũ và được chuyển đến nhà máy lắp ráp bằng xe lửa. Những phụ tùng này được đổ từ toa xe lửa xuống thẳng dây chuyền lắp ráp, một phương thức được sử dụng phổ biến trong những năm 1920. Nhà máy tại Siegmar chỉ có thể chứa được số lượng phụ tùng đủ lắp ráp 25 chiếc xe – bằng sản lượng hằng ngày của nhà máy.
Hình ảnh thương hiệu của Wanderer gắn liền với sự ổn định và chất lượng vượt trội của các sản phẩm của mình. Đến cuối những năm 1920, Wanderer cống gắng tránh cuộc khủng hoảng bẳng cách cho ra đời nhiều mẫu xe có thiết kế hiện đạt và động cơ mạnh mẽ. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi này, sản lượng của công ty giảm xuống rõ rệt. Hoạt động sản xuất ô tô của Wanderer đứng bên bờ vực thẳm. Toàn bộ phân nhánh sản xuất mô tô được bán cho NSU và một công ty của Séc là Janecek.
Trên là chiếc Wanderer W25K đời 1936 , phải nói là hàng "nóng" và bắt mắt nhất thời điểm đó bởi kiểu dáng thể thao và quyến rũ. Động cơ Supercharge 6 máy được thiết kế bở Ferdinand Porsche với công suất "cực mạnh" 85 mã lực ...gấp đôi công suất của mẫu tương tự W50 do không có hệ thống supercharge. Ngoài ra xe có thể đạt tốc độ tối đa là 150km/h ..
Auto Union V16, typ C-D, Bergrennwagen - 1938
Auto Union V16, Typ C-D, Bergrennwagen
Trong năm 1938, Auto Union đã chế tạo ra chiếc xe đua leo núi với sự kết hợp đặc biệt giữa mẫu cũ Type C và mẫu mới Type D là phần chassic của Type D và động cơ "khủng" 16 máy của Type C. Do có sự thay đổi của giải đua, động cơ "khủng" trên chỉ được dùng trong mùa giải năm 1938. Sau thế chiến thứ II, toàn bộ các xe đua của Auto Union được vận chuyển đến Liên Xô như sự đền bù thiệt hại do chiến trang. Mẫu trưng bày trên đã trở về Đức vào năm 1995 và là mẫu huyền thoại duy nhất còn lại của "Mũi Tên Bạc".
Vài Clip Youtube:
[youtube]http://www.youtube.com/watch?v=hvTggX3ADlY[/youtube]
Động cơ đã được kiểm tra và test thử nổ chơi....
[youtube]http://www.youtube.com/watch?v=myxMudtFX6g&NR=1[/youtube]
Auto Union V16, Typ C-D, Bergrennwagen
Trong năm 1938, Auto Union đã chế tạo ra chiếc xe đua leo núi với sự kết hợp đặc biệt giữa mẫu cũ Type C và mẫu mới Type D là phần chassic của Type D và động cơ "khủng" 16 máy của Type C. Do có sự thay đổi của giải đua, động cơ "khủng" trên chỉ được dùng trong mùa giải năm 1938. Sau thế chiến thứ II, toàn bộ các xe đua của Auto Union được vận chuyển đến Liên Xô như sự đền bù thiệt hại do chiến trang. Mẫu trưng bày trên đã trở về Đức vào năm 1995 và là mẫu huyền thoại duy nhất còn lại của "Mũi Tên Bạc".
Vài Clip Youtube:
[youtube]http://www.youtube.com/watch?v=hvTggX3ADlY[/youtube]
Động cơ đã được kiểm tra và test thử nổ chơi....
[youtube]http://www.youtube.com/watch?v=myxMudtFX6g&NR=1[/youtube]
Last edited by a moderator:
Wanderer Stromlinie - Special-Roadster - model 1938
Động cơ 2255 cc, 6 máy thẳng hàng, 70 mã lực và tốc độ tối đa là 140km/h. Mức tiêu thụ nhiên liệu tầm 16 lít/100km.
Điều làm em rất ngạc nhiên khi thấy 1 cô bé tầm 4-5 tuổi được bố dẫn vào bảo tàng Audi và giải thích về các thiết bị của xe hơi
. Cô bé tỏ ra thích thú và hỏi những bộ phận là gì và được bố trả lời và giải thích cặn kẽ.
Một liên hợp Auto mạnh mẽ và hùng hậu trong thập niên 30-40
Sau sự sát nhập của bốn đại gia ngành xe hơi là Audi, BKW, Horch và Wanderer đã tạo cho hình ảnh Auto Union càng lớn mạnh & thịnh vượng trên thị trường xe hơi và xe motor vào thập niên từ 30-40. Nếu các bác để ý hình trên từ năm 31 đến 39, Auto Union đã sản xuất và cho ra mắt thị trường nhiều mẫu xe hơi & motor nhất trong lịch sử hình thành của công ty so với thời điểm hiện nay (xem so sánh hình sau). Auto Union cũng phải mất nhiều năm để có thể phát triển ý tưởng & hợp tác lâu dài để áp dụng vào các thương hiệu có sẵn truyền thống lâu đời. Doanh thu hàng năm tăng từ 65 lên 276 triệu mác Đức và số lượng công nhân tăng từ 8000 lên hơn 23.000 người. Sản lượng xe mô tô hằng năm tăng từ 12.000 lên 59.000 chiếc và xe ô tô là từ 17.000 lên 67.000 chiếc. So với năm mà Auto Union được thành lập, sản lượng ô tô của Horch đã tăng gấp đôi trong năm 1938, Wanderer tăng 5 lần và tổng sản lượng ô tô của DKW tăng 10 lần.
Tối ưu hóa sản xuất
Những động cơ của Wanderer được tiêu chuẩn hóc và động cơ Horch V8 được thay thế bằng động cơ 6 xylanh thẳng hàng để đạt được hiệu suất cao hơn và ổn định hơn. Auto Union đã đạt được bước tiến lớn trong việc phát triển hộp số tự động và các kỹ sư của Auto Union đang tìm kiếm phương pháp mới để tạo hình và phát triển thiết kế ngoại thất.
Bộ phận thiết kế của công ty theo đuổi một ý tưởng ký động học hóa từ những chi tiết nhỏ nhất, sử dụng những phát minh về khí động lực của một chuyên gia Thụy Sĩ là Paul Jaray. Những đặc tính khí động học tối ưu được tính toán trước tiên theo lý thuyết sau đó được kiểm tra kỹ càng trong phòng thí nghiệm. Phiên bản thân xe sẵn sàng đưa vào sản xuất của DKW F9 có hệ số kéo ngang trước rất ấn tượng cD = 0.42. Đến các thập kỷ sau, đây vẫn là một con số lý tưởng cho các xe sản xuất tại Đức.
Auto Union đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng trong nhưng năm 1933-1939, doanh thu hàng năm tăng từ 65 lên 276 triệu mác Đức và số lượng công nhân tăng từ 8000 lên hơn 23.000 người. Sản lượng xe mô tô hằng năm tăng từ 12.000 lên 59.000 chiếc và xe ô tô là từ 17.000 lên 67.000 chiếc. So với năm mà Auto Union được thành lập, sản lượng ô tô của Horch đã tăng gấp đôi trong năm 1938, Wanderer tăng 5 lần và tổng sản lượng ô tô của DKW tăng 10 lần.
Tối ưu hóa sản xuất
Những động cơ của Wanderer được tiêu chuẩn hóc và động cơ Horch V8 được thay thế bằng động cơ 6 xylanh thẳng hàng để đạt được hiệu suất cao hơn và ổn định hơn. Auto Union đã đạt được bước tiến lớn trong việc phát triển hộp số tự động và các kỹ sư của Auto Union đang tìm kiếm phương pháp mới để tạo hình và phát triển thiết kế ngoại thất.
Bộ phận thiết kế của công ty theo đuổi một ý tưởng ký động học hóa từ những chi tiết nhỏ nhất, sử dụng những phát minh về khí động lực của một chuyên gia Thụy Sĩ là Paul Jaray. Những đặc tính khí động học tối ưu được tính toán trước tiên theo lý thuyết sau đó được kiểm tra kỹ càng trong phòng thí nghiệm. Phiên bản thân xe sẵn sàng đưa vào sản xuất của DKW F9 có hệ số kéo ngang trước rất ấn tượng cD = 0.42. Đến các thập kỷ sau, đây vẫn là một con số lý tưởng cho các xe sản xuất tại Đức.
Auto Union đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng trong nhưng năm 1933-1939, doanh thu hàng năm tăng từ 65 lên 276 triệu mác Đức và số lượng công nhân tăng từ 8000 lên hơn 23.000 người. Sản lượng xe mô tô hằng năm tăng từ 12.000 lên 59.000 chiếc và xe ô tô là từ 17.000 lên 67.000 chiếc. So với năm mà Auto Union được thành lập, sản lượng ô tô của Horch đã tăng gấp đôi trong năm 1938, Wanderer tăng 5 lần và tổng sản lượng ô tô của DKW tăng 10 lần.
Last edited by a moderator:
Nhìn mấy chiếc xe cổ của Audi như: Auto Union V16, Wanderer Stromlinie em cứ tưởng la những mẫu concept của tương lai.