Cái lão Justintran này hồi vô SG lão HDD dẫn đi gặp mấy em trẻ ,đẹp mà vẫn than : Xinh thì xinh thật , trắng thì trắng thật ... zưng mà em vẫn thích chất mộc mạc của miền trung quê em cơ , thật là ...hết biết !!!
Đời thì được cái này thì mất cái kia, chưn dài thì... cũng vậy , suy ra trong nhiếp ảnh thì cũng vậy thôi.
Tấm 1 khi bác mở khẩu hết cỡ F1.8 thì nét được chủ thể ( thằng cu , nhưng cô bé thì soft) nhưng bù lại được tấm ảnh đẹp và mịn , vì không phải đẩy iso lên cao quá và phông mờ và đẹp .
Nếu bác khép khẩu cho cô bé cũng nét thì lại phải giảm tốc ( dễ nhòe ảnh) hoặc đẩy iso lên cao (ảnh không mịn) , mặt khác phông phía sau sẽ không còn đẹp mà sẽ trở nên rối , ánh đèn sẽ không còn lung linh nữa .
Ở trong trường hợp bác , em cũng sẽ mở khẩu tối đa F1,8 như bác vì sẽ cho kết quả khả quan nhất .Vì bác không thử các phương án khác nên không thấy nó tệ hơn như thế nào mà thôi .
Gửi bác tham khảo thêm :
Trong nhiều trường hợp của cuộc sống, có nhiều điều cơ bản nói đi nói lại mãi mà vẫn không thừa, ví như lời khuyên đi xe máy phải cẩn thận, hay ăn uống phải giữ gìn bởi cái miệng của con người ta đâu phải cái sọt rác để mà muốn vứt cái gì vào thì vứt. Trong nhiếp ảnh, nhất là đối với những người mới làm quen với máy ảnh ống kính rời gương phản xạ KTS (Digital SLR), ba yếu tố cơ bản tạo ra giá trị phơi sáng của một bức ảnh cần được nhắc đi nhắc lại, nghe đi nghe lại đến khi nào không cần nghĩ đến chúng nữa mới thôi, đến khi nào nghe lại mà không thấy chán mặc dù có thể đã thuộc lòng đến không cần nghe thêm một từ nào nữa.
Vậy VinaCamera.com xin nói lại nhé! Bạn nào muốn nghe thì xem tiếp, bạn nào chán rồi thì cầm máy lên chụp vài kiểu cho đỡ xì-chét vì những điều “biết rồi, khổ lắm nói mãi”.
Một bức ảnh được tạo ra bởi việc cho phơi sáng (expose) bản phim hay cảm biến ra ngoài ánh sáng (có hình ảnh muốn chụp) – vậy mới gọi là phơi sáng. Mỗi lần phơi sáng có một giá trị ánh sáng duy nhất, được gọi là giá trị phơi sáng – nghe như chuyện trẻ con học bài vậy
, trong tiếng Anh gọi là EV (exposure value). EV là giá trị phơi sáng của một bức ảnh – hay của một lần bấm máy. Mỗi bức ảnh chỉ có một giá trị phơi sáng duy nhất, được tạo ra bởi 3 yếu tố: Khẩu độ mở, Tốc độ cửa chập và Độ nhạy ISO.
Thế rồi sao? EV (giá trị phơi sáng) được tạo ra bởi 3 yếu tố cơ bản.
<h2>1. KHẨU ĐỘ MỞ:
Là độ mở to nhỏ của lỗ điều tiết ánh sáng nằm trong ống kính. </h2> Lỗ mở càng to thì ánh sáng lọt vào càng nhiều, và ngược lại, lỗ mở càng nhỏ thì ánh sáng lọt vào càng ít. Khả năng có thể mở to đến đâu của cái lỗ này phụ thuộc vào từng ống kính nhất định. Ống kính càng mở được to thì… đầu tiên là càng đắt tiền, và càng tạo cho nhiếp ảnh gia khả năng hoạt động linh hoạt hơn trong sáng tạo.
Để tính độ mở của lỗ điều tiết ánh sáng này (gọi là aperture trong tiếng Anh, và viết tắt là A), người ta dùng đơn vị gọi là f/stop – hay trong tiếng Việt gọi là “khẩu” cho nó ngắn gọn. Do đây là một đơn vị tính bằng hệ số, nên giá trị f/stop càng nhỏ (ví dụ f/1) thì lỗ mở càng lớn, còn giá trị f càng lớn, thì lỗ khép lại càng nhỏ (ví dụ f/22). Việc mở to lỗ ánh sáng ra – để nhiều ánh sáng lọt vào bản phim hay cảm biến quang – thường được gọi là “mở khẩu”, và thu nhỏ lỗ ánh sáng – để lượng ánh sáng đi qua lỗ vào phim/cảm biến giảm đi – được gọi là “khép khẩu”, hay “đóng khẩu”. Mở khẩu là giảm giá trị f/stop, khép/đóng khẩu là tăng giá trị f (Quả là lẩn thà, lẩn thẩn!). Giá trị f/stop của một ống kính ngày nay có thể nhỏ bằng 1 (f/1) hay thậm chí bằng 0.95 (f/0.95), tức là cái lỗ ấy cực cực lớn, nhưng chỉ đối với các loại ống kính sản xuất đặc biệt. Với các ống kính thông thường, kể cả chuyên nghiệp, khẩu mở tối đa thường chỉ ở f/2.8, đôi khi lớn tới f/2, f/1.8 hoặc f/1.4. Khẩu khép tối đa của một ống kính thường là f/22 hoặc f/32, đôi khi là f/64.
Các khẩu độ mở truyền thống của ống kính gồm (từ mở khẩu lớn tới nhỏ dần): f/1.4 – f/2 – f/2.8 – f/4 – f/5.6 – f/8 – f/11 – f/16 – f/22 – f32. Khoảng cách giữa khẩu nọ tới khẩu kế tiếp kia có giá trị bằng 1 stop, tức bằng 1 khẩu. Điều này có nghĩa là nếu đang ở f/1.4 khép/đóng khẩu vào f/2 là giảm đi 1 khẩu (với lượng ánh sáng giảm đi một nửa so với khẩu trước đó là f/1.4), từ f/2 khép vào f/2.8 lại giảm đi một khẩu nữa (lượng ánh sáng lại giảm đi 1 nửa so với f/2), f/2.8 khép xuống f/4, lại giảm đi một khẩu nữa (nửa lượng sáng của khẩu f/2.8 trước đó). Mỗi lần giảm như vậy gọi là giảm 1 khẩu. Từ f/1.4 khép xuống f/4 tức là giảm đi 3 khẩu. Cũng như vậy, nếu từ f/16 mở khẩu ra thành f/4 là tăng lên 4 khẩu. Giá trị giữa các mốc truyền thống từ f/1.4 đến f/32 như nêu trên đều hơn kém nhau 1 khẩu. “Khẩu” là đơn vị thống nhất để điều chỉnh và cả bàn luận về khẩu độ mở của ống kính và của một bức ảnh. Sau này, nhất là từ thời đại ảnh kỹ thuật số, máy ảnh kết hợp với các ống kính hiện đại hơn cho phép điều chỉnh tăng giảm với giá trị nửa hoặc một phần ba khẩu, ví dụ từ f/1.4 => f/1.6 => f/1.8 => f/2, giúp cho việc điều chỉnh khẩu độ mở có độ chính xác cao hơn (Từ f/1.4 đến f/2 là một khẩu, và f/1.4 đến f/1.6 là 1/3 khẩu).
Công năng của ống kính: Mỗi ống kính có giới hạn nhất định về khả năng mở khẩu và khép khẩu tối đa. Các ống kính cao cấp và đắt tiền cho phép mở khẩu rất lớn, giúp lượng ánh sáng vào ảnh lớn hơn, vì thế có thể chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng tốt hơn. Trên ống kính, giá trị khẩu độ mở thường được biểu diễn bằng các con số như 1:1.4 hay 1:3.5 (tức khả năng mở khẩu tối đa là f/1.4 hay f/3.5). Với các ống zoom (có khả năng thay đổi chiều dài tiêu cự giúp chụp xa gần hiệu quả) cũng có loại có khả năng mở khẩu tối đa và không đổi suốt dọc chiều dài tiêu cự, ví dụ ống Nikon 70-200mm f/2.8 có khả năng mở khẩu rộng f/2.8 cả ở tiêu cự 70mm cũng như ở tiêu cự dài hơn gấp gần 3 lần là 200mm. Các ống như vậy thường có giá thành và giá bán cao hơn rất nhiều so với các ống kính có khẩu độ mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự, như ống Nikon 18-135mm f/3.5-5.6 chỉ có thể mở rộng khẩu ở f/3.5 ở tiêu cự 18mm, còn khi kéo tiêu cự (kéo zoom) ra 135mm, ống chỉ cho phép mở khẩu tối đa ở f/5.6, tương đối hẹp và kém giá trị khi chụp với tiêu cự 135mm trong điều kiện thiếu sáng, và vì vậy, các loại ống có khẩu mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự này có giá thành rẻ hơn (hay được định giá là rẻ hơn!).
Các tác dụng và hiệu ứng liên quan tới khẩu độ mở:
- Dĩ nhiên, khẩu độ mở có tác dụng điều tiết ánh sáng nhiều hay ít cho một bức ảnh. Mở khẩu càng lớn (chỉ số f/ càng nhỏ) thì càng nhiều ánh sáng, khép khẩu các nhỏ (chỉ số f/ càng lớn) thì càng ít ánh sáng vào ảnh. Tuy nhiên, kèm theo việc điều tiết ánh sáng, đóng mở khẩu độ ống kính còn có các hiệu ứng khác về quang học dưới đây.
- Khẩu độ mở càng lớn thì chiều sâu ảnh trường (depth of filed hay DOF) càng mỏng (***), và khép khẩu càng nhỏ thì chiều sâu ảnh trường càng dày, ảnh càng nét ở mọi khu vực trên bức ảnh.
- Mở khẩu lớn, do chiều sâu ảnh trường mỏng, sẽ làm các khu vực ngoài khu vực căn nét chính bị nhòa mờ (cả các chủ thể phụ trước và sau chủ thể chính), cũng như các chủ thể phụ nằm ngang hàng với chủ thể chính nhưng ở rìa của khuôn hình.
- Khẩu mở lớn, rìa của ảnh có thể có các hiệu ứng tối dần, nhất là độ tối có thể dễ quan sát được ở các góc và mép ảnh gọi là hiện tượng tối góc/ mép ảnh (vignetting).
- Nhiếp ảnh gia đóng mở khẩu độ mở của ống kính, ngoài tác dụng tăng giảm lượng ánh sáng cho ảnh, còn có tác dụng tạo hoặc triệt tiêu các hiệu ứng nét dày/mỏng, tối góc ảnh hay sáng đều trên ảnh, cũng như tạo các vòng tròn sáng mịn và mờ ở hậu ảnh của bức ảnh – gọi là bokeh (đọc là bô-kê) và thường được vận dụng làm các công cụ giúp nhiếp ảnh gia đạt được mong muốn về độ nét, ánh sáng giữa các vùng trên ảnh, tạo giá trị nghệ thuật cho bức ảnh, ví dụ như chụp chân dung, để thu hút chú ý của người xem ảnh vào chủ thể chính được chụp (người, vật), nhiếp ảnh gia thường mong muốn mở khẩu tối đa để làm nhòa mờ các vùng ngoài, trước/ sau chủ thế.
<h2>2. TỐC ĐỘ CỬA CHẬP:
Là tốc độ đóng mở của tấm chắn sáng giữa lỗ điều tiết ánh sáng trong ống kính và bản phim hay cảm biến ảnh số.</h2> Nếu bạn đọc những điều nêu trên về khẩu độ mở của ống kính đã thấy tương đối phức tạp, thì công nghệ máy ảnh còn phức tạp hơn nhiều do khẩu độ mở không phải là yếu tố duy nhất điều chỉnh ánh sáng cho ảnh. Ngoài việc điều tiết ánh sáng bằng khẩu độ mở, máy ảnh SLR/DSLR còn có một tấm chắn giữa ống kính và bản phim/ cảm biến ảnh số để ngăn ánh sáng. Tấm chắn này được gọi là cửa chập (hay shutter trong tiếng Anh) có tác dụng mở ra rồi đóng vào như cũ để khống chế thời gian phơi sáng của phim hay cảm biến số. Tốc độ mở rồi đóng lại của tấm chắn này thường vô cùng nhanh và được tính bằng một phần của giây (có thể là phần chục, phần trăm hay phần nghìn của giây). Cũng do mở rồi lại đóng ngay lại nên tấm này được gọi là cửa chập. Ở vị trí không chụp bình thường, của này luôn đóng để ngăn ánh sáng không xuyên tới phim hay cảm biến số.
Khi nhiếp ảnh gia bấm chụp một kiểu ảnh, tấm chắn sáng này – tức cửa chập – mở ra (rất nhanh) rồi lại đóng ngay lại (cũng rất nhanh), vì vậy chỉ cho phép phim hay cảm biến số tiếp xúc với ánh sáng trong một khoảnh khắc cực ngắn. Thời gian ngắn ngủi này được gọi là thời gian phơi sáng (tiếp xúc với ánh sáng) của một bức ảnh.
Các giá trị tốc độ cửa chập thường thấy (được tính bằng giây và phần của giây – tiếng Anh giây là second và viết tắt là s): 1s, 1/2s, 1/4s, 1/8s, 1/15s, 1/30s, 1/60s, 1/125s, 1/250s, 1/500s, 1/1000s, v.v… Ở đây có thể dễ dàng nhận thấy các mốc tính được cách nhau một khoảng (xấp xỉ) gấp đôi, hoặc chia đôi.
Điều thú vị và cả đáng kinh ngạc là các nhà chế tạo máy ảnh đã tính toán sao cho giá trị phơi sáng (EV) giữa các giá trị tăng giảm cửa chập theo cách nhân đôi hoặc chi đôi thời gian ĐÚNG BẰNG giá trị tăng giảm giữa các khẩu độ mở của ống kính, tức là chênh nhau 1 khẩu độ (xét về giá trị ánh sáng). Và vì vậy, khi tính giá trị ánh sáng được điều tiết (hay khống chế) bởi tốc độ cửa chập, người ta cũng tính bằng đơn vị khẩu (stop). Nếu tốc độ cửa chập tăng lên gấp đôi (tức một khẩu) thì lượng ánh sáng tiếp xúc với bản phim/ cảm biến số giảm đi một nửa (tức giảm 1 khẩu), và nếu tốc độ của chập giảm đi một nửa (tức một khẩu), giá trị ánh sáng sẽ tăng lên gấp đôi (tức tăng 1 khẩu).
Ngoài tác dụng điều tiết lượng ánh sáng để tạo phơi sáng phù hợp cho bức ảnh, tốc độ cửa chập còn là công cụ để tạo ra các hiệu ứng về mặt thời gian cho bức ảnh. Nếu muốn “bắt chết” một khoảnh khắc của một chủ thể đang chuyển động, một giá trị tốc độ của chập cao sẽ giúp nhiếp ảnh gia làm được điều này vì trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi của chập mở ra rồi đóng ngay lại với tốc độ hết sức cao/nhanh (ví dụ 1/1250s), sự di chuyển của chủ thể sẽ là không đáng kể và hình ảnh sẽ được “dừng lại” trong khuôn hình của nhiếp ảnh gia. Ngược lại, khi muốn ghi nhận các chuyển động với tính chất thời gian (ví dụ như tia sáng của pháo hoa từ lúc đạn pháo hoa ra khỏi nòng súng tới lúc bay lên cao và nổ bung với những ánh sáng đủ màu), nhiếp ảnh gia có thể điều chỉnh cho tốc độ của chập (mở/đóng) chậm hơn nhiều (ví dụ 1/2s, 1s, hay 3s) để toàn bộ “vết” pháo hoa được ghi lại trong khuôn hình.
Tốc độ cửa chập tạo ra các ảnh hưởng lớn trên ảnh đối với các chủ thể chuyển động, cũng như việc cầm máy không chắc, để run tay khi chụp. Ảnh chụp run tay với thời gian của chập mở ra lâu (tốc độ cửa chập mở/đóng chậm) sẽ làm hình ảnh bị nhòa vào nhau (mong muốn hay không mong muốn). Hiểu và sử dụng có chủ đích tốc độ cửa chập cũng sẽ giúp nhiếp ảnh gia chủ động tạo ra các hiệu ứng nghệ thuật trên bức ảnh.
<h2>3. ĐỘ NHẠY BẮT SÁNG ISO:
Là độ nhạy bắt ánh sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số. </h2> Công nghệ máy ảnh không chỉ dừng lại ở 2 yếu tố cơ bản đầu tiên là khẩu độ mở và cửa chập, mà còn càng trở nên phức tạp với khái niệm độ nhạy của bản phim (ngày nay được thay thế bằng cảm biến ảnh số trên máy ảnh DSLR).
Để hình ảnh được ghi lại trên phim, bản phim cần có khá năng bắt ánh sáng và chuyển hóa tất cả thành các giá trị nhất định (về hóa học) để khi đem tráng phim và rửa ảnh sẽ tạo ra độ sáng tối (đen/trắng) và màu sắc (phim màu) của hình ảnh. Tương tự như vậy, cảm biến ảnh số ngày nay cũng có khả năng ghi nhận ánh sáng và màu sắc , chỉ khác là sẽ chuyển thành các giá trị số hóa để ghi lại hình ảnh.
Độ nhạy bắt sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số có khả năng giúp nhiếp ảnh gia điều tiết phơi sáng của một bức ảnh. Độ nhạy này được tính bằng giá trị ISO (trước đây là ASA hoặc DIN đều cùng như nhau). ISO càng cao thì độ nhạy (khả năng bắt sáng nhanh) càng cao, giúp cho việc tăng tốc độ cửa chập lên cao (tức giảm thời gian phơi sáng) với giá trị lớn hơn, giúp cho việc chụp ảnh trong điều kiện ánh sáng yếu hiệu quả hơn.
Các giá trị ISO thường được sử dụng là: ISO 100, ISO 200, ISO 400, ISO 800, ISO 1600, ISO 3200, ISO 6400, …
Ở đây lặp lại điều thú vị như trên: Giá trị ISO đã được tính toán sao cho tương đương với việc tăng lượng ánh sáng lên gấp đôi hoặc giảm lượng ánh sáng xuống còn một nửa của các giá trị kế tiếp. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng giảm ISO cũng có thể được tính theo đơn vị khẩu. ISO 200 so với ISO 100 chênh nhau 1 khẩu, ISO 800 sẽ sáng hơn ISO 200 là 2 khẩu, v.v…
Một điều lưu ý duy nhất khi điều chỉnh ánh sáng cho ảnh dựa vào ISO là: Do công nghệ chế tạo, ISO càng lớn có ưu điểm bắt sáng càng nhạy nhưng lại gây ra càng nhiều nhiễu (noise) cho hình ảnh ghi nhận, cả ở phim và cảm biến ảnh số (ở phim là do để bắt sáng nhạy hơn thì các hạt hóa chất phải to hơn, ở cảm biến ảnh số do tốc độ bắt sáng lớn hơn thì càng bị “rơi vãi” nhiều “hạt ánh sáng hơn” – đó là VinaCamera.com xin tạm diễn đạt nôm na như vậy, xin các bạn đừng bắt bẻ về khoa học
. Chính vì điều này, trong các trường hợp chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng, sau khi đã tăng hết khả năng mở khẩu và giảm tốc độ tới ngưỡng cho phép, nhiếp ảnh gia mới phải nhờ cậy tới khả năng tăng ISO – với việc hiểu rằng ISO cao ảnh có khả năng càng bị nhiễu cao, làm giảm chất lượng ảnh, nhất là khi muốn phóng to hình ảnh sau này. ISO là yếu tố cuối cùng nhiếp ảnh gia phải vận dụng để tăng độ sáng của ảnh. Ghi chú: Với công nghệ hiện nay, các nhà chế tạo ngày càng cho ra đời nhiều cảm biến ảnh số (photo sensor) có độ nhiễu thấp ở ISO cao. Để biết được “khả năng chịu đựng” nhiễu của một máy ảnh cụ thể, các bạn cần thử nghiệm ở các ISO khác nhau và chịu khó đọc các đánh giá của giới chuyên nghiệp, từ đó sử dụng phù hợp và tự tin với yếu tố độ nhạy ISO trên máy ảnh của mình.
<h2>4. TƯƠNG TÁC GIỮA KHẨU ĐỘ MỞ – TỐC ĐỘ CỬA CHẬP – ISO</h2> Tăng tăng, giảm giảm – tăng giảm, giảm tăng. Câu chuyện về 3 yếu tố cơ bản dường như chỉ là câu chuyện dài xoay quanh việc tăng và giảm các yếu tố này để tạo ra một bức ảnh có ánh sáng đẹp và chất lượng cao. Còn việc tăng giảm thế nào, cái nào và khi nào nên cao, khi nào nên thấp phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm, con mắt nhà nghề và tay máy, cũng như các thủ pháp nghệ thuật với sự sáng tạo không giới hạn của nhiếp ảnh gia.
Tuy vậy, VinaCamera.com cũng xin chỉ ra một vài mối quan hệ và hiệu ứng cơ bản trong cái guồng tăng giảm này như sau.
- Một bức ảnh, dù đẹp hay xấu, chỉ có một giá trị phơi sáng DUY NHẤT, hy vọng là giá trị tối ưu nhất với ý đồ thể hiện hình ảnh của người chụp. Để tạo ra một giá trị phơi sáng nhất định (mà bạn cho là phù hợp), bạn sẽ phải tăng giảm 3 yếu tố cơ bản phù hợp trong từng tình huống và mong muốn cụ thể. Nếu mong muốn giá trị phơi sáng là không đổi, tăng yếu tố này sẽ phải giảm yếu tố kia để ảnh không quá sáng và không quá tối.
- Điều may mắn là các yếu tố trên đều được tính toán với một đơn vị thống nhất là “khẩu”: Tăng một khẩu của yếu tố này sẽ phải giảm một khẩu của yếu tố kia để giá trị phơi sáng là không đổi – tức giữ nguyên độ sáng của bức ảnh.
Hãy xem các tình huống dưới đây và quan sát gợi ý về tăng giảm 3 yếu tố cơ bản minh họa để hiểu thêm về sự tương tác giữa 3 yếu tố này.
Đời thì được cái này thì mất cái kia, chưn dài thì... cũng vậy , suy ra trong nhiếp ảnh thì cũng vậy thôi.
Tấm 1 khi bác mở khẩu hết cỡ F1.8 thì nét được chủ thể ( thằng cu , nhưng cô bé thì soft) nhưng bù lại được tấm ảnh đẹp và mịn , vì không phải đẩy iso lên cao quá và phông mờ và đẹp .
Nếu bác khép khẩu cho cô bé cũng nét thì lại phải giảm tốc ( dễ nhòe ảnh) hoặc đẩy iso lên cao (ảnh không mịn) , mặt khác phông phía sau sẽ không còn đẹp mà sẽ trở nên rối , ánh đèn sẽ không còn lung linh nữa .
Ở trong trường hợp bác , em cũng sẽ mở khẩu tối đa F1,8 như bác vì sẽ cho kết quả khả quan nhất .Vì bác không thử các phương án khác nên không thấy nó tệ hơn như thế nào mà thôi .
Gửi bác tham khảo thêm :
Trong nhiều trường hợp của cuộc sống, có nhiều điều cơ bản nói đi nói lại mãi mà vẫn không thừa, ví như lời khuyên đi xe máy phải cẩn thận, hay ăn uống phải giữ gìn bởi cái miệng của con người ta đâu phải cái sọt rác để mà muốn vứt cái gì vào thì vứt. Trong nhiếp ảnh, nhất là đối với những người mới làm quen với máy ảnh ống kính rời gương phản xạ KTS (Digital SLR), ba yếu tố cơ bản tạo ra giá trị phơi sáng của một bức ảnh cần được nhắc đi nhắc lại, nghe đi nghe lại đến khi nào không cần nghĩ đến chúng nữa mới thôi, đến khi nào nghe lại mà không thấy chán mặc dù có thể đã thuộc lòng đến không cần nghe thêm một từ nào nữa.
Vậy VinaCamera.com xin nói lại nhé! Bạn nào muốn nghe thì xem tiếp, bạn nào chán rồi thì cầm máy lên chụp vài kiểu cho đỡ xì-chét vì những điều “biết rồi, khổ lắm nói mãi”.
Một bức ảnh được tạo ra bởi việc cho phơi sáng (expose) bản phim hay cảm biến ra ngoài ánh sáng (có hình ảnh muốn chụp) – vậy mới gọi là phơi sáng. Mỗi lần phơi sáng có một giá trị ánh sáng duy nhất, được gọi là giá trị phơi sáng – nghe như chuyện trẻ con học bài vậy
Thế rồi sao? EV (giá trị phơi sáng) được tạo ra bởi 3 yếu tố cơ bản.
<h2>1. KHẨU ĐỘ MỞ:
Là độ mở to nhỏ của lỗ điều tiết ánh sáng nằm trong ống kính. </h2> Lỗ mở càng to thì ánh sáng lọt vào càng nhiều, và ngược lại, lỗ mở càng nhỏ thì ánh sáng lọt vào càng ít. Khả năng có thể mở to đến đâu của cái lỗ này phụ thuộc vào từng ống kính nhất định. Ống kính càng mở được to thì… đầu tiên là càng đắt tiền, và càng tạo cho nhiếp ảnh gia khả năng hoạt động linh hoạt hơn trong sáng tạo.
Để tính độ mở của lỗ điều tiết ánh sáng này (gọi là aperture trong tiếng Anh, và viết tắt là A), người ta dùng đơn vị gọi là f/stop – hay trong tiếng Việt gọi là “khẩu” cho nó ngắn gọn. Do đây là một đơn vị tính bằng hệ số, nên giá trị f/stop càng nhỏ (ví dụ f/1) thì lỗ mở càng lớn, còn giá trị f càng lớn, thì lỗ khép lại càng nhỏ (ví dụ f/22). Việc mở to lỗ ánh sáng ra – để nhiều ánh sáng lọt vào bản phim hay cảm biến quang – thường được gọi là “mở khẩu”, và thu nhỏ lỗ ánh sáng – để lượng ánh sáng đi qua lỗ vào phim/cảm biến giảm đi – được gọi là “khép khẩu”, hay “đóng khẩu”. Mở khẩu là giảm giá trị f/stop, khép/đóng khẩu là tăng giá trị f (Quả là lẩn thà, lẩn thẩn!). Giá trị f/stop của một ống kính ngày nay có thể nhỏ bằng 1 (f/1) hay thậm chí bằng 0.95 (f/0.95), tức là cái lỗ ấy cực cực lớn, nhưng chỉ đối với các loại ống kính sản xuất đặc biệt. Với các ống kính thông thường, kể cả chuyên nghiệp, khẩu mở tối đa thường chỉ ở f/2.8, đôi khi lớn tới f/2, f/1.8 hoặc f/1.4. Khẩu khép tối đa của một ống kính thường là f/22 hoặc f/32, đôi khi là f/64.
Các khẩu độ mở truyền thống của ống kính gồm (từ mở khẩu lớn tới nhỏ dần): f/1.4 – f/2 – f/2.8 – f/4 – f/5.6 – f/8 – f/11 – f/16 – f/22 – f32. Khoảng cách giữa khẩu nọ tới khẩu kế tiếp kia có giá trị bằng 1 stop, tức bằng 1 khẩu. Điều này có nghĩa là nếu đang ở f/1.4 khép/đóng khẩu vào f/2 là giảm đi 1 khẩu (với lượng ánh sáng giảm đi một nửa so với khẩu trước đó là f/1.4), từ f/2 khép vào f/2.8 lại giảm đi một khẩu nữa (lượng ánh sáng lại giảm đi 1 nửa so với f/2), f/2.8 khép xuống f/4, lại giảm đi một khẩu nữa (nửa lượng sáng của khẩu f/2.8 trước đó). Mỗi lần giảm như vậy gọi là giảm 1 khẩu. Từ f/1.4 khép xuống f/4 tức là giảm đi 3 khẩu. Cũng như vậy, nếu từ f/16 mở khẩu ra thành f/4 là tăng lên 4 khẩu. Giá trị giữa các mốc truyền thống từ f/1.4 đến f/32 như nêu trên đều hơn kém nhau 1 khẩu. “Khẩu” là đơn vị thống nhất để điều chỉnh và cả bàn luận về khẩu độ mở của ống kính và của một bức ảnh. Sau này, nhất là từ thời đại ảnh kỹ thuật số, máy ảnh kết hợp với các ống kính hiện đại hơn cho phép điều chỉnh tăng giảm với giá trị nửa hoặc một phần ba khẩu, ví dụ từ f/1.4 => f/1.6 => f/1.8 => f/2, giúp cho việc điều chỉnh khẩu độ mở có độ chính xác cao hơn (Từ f/1.4 đến f/2 là một khẩu, và f/1.4 đến f/1.6 là 1/3 khẩu).
Công năng của ống kính: Mỗi ống kính có giới hạn nhất định về khả năng mở khẩu và khép khẩu tối đa. Các ống kính cao cấp và đắt tiền cho phép mở khẩu rất lớn, giúp lượng ánh sáng vào ảnh lớn hơn, vì thế có thể chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng tốt hơn. Trên ống kính, giá trị khẩu độ mở thường được biểu diễn bằng các con số như 1:1.4 hay 1:3.5 (tức khả năng mở khẩu tối đa là f/1.4 hay f/3.5). Với các ống zoom (có khả năng thay đổi chiều dài tiêu cự giúp chụp xa gần hiệu quả) cũng có loại có khả năng mở khẩu tối đa và không đổi suốt dọc chiều dài tiêu cự, ví dụ ống Nikon 70-200mm f/2.8 có khả năng mở khẩu rộng f/2.8 cả ở tiêu cự 70mm cũng như ở tiêu cự dài hơn gấp gần 3 lần là 200mm. Các ống như vậy thường có giá thành và giá bán cao hơn rất nhiều so với các ống kính có khẩu độ mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự, như ống Nikon 18-135mm f/3.5-5.6 chỉ có thể mở rộng khẩu ở f/3.5 ở tiêu cự 18mm, còn khi kéo tiêu cự (kéo zoom) ra 135mm, ống chỉ cho phép mở khẩu tối đa ở f/5.6, tương đối hẹp và kém giá trị khi chụp với tiêu cự 135mm trong điều kiện thiếu sáng, và vì vậy, các loại ống có khẩu mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự này có giá thành rẻ hơn (hay được định giá là rẻ hơn!).
Các tác dụng và hiệu ứng liên quan tới khẩu độ mở:
- Dĩ nhiên, khẩu độ mở có tác dụng điều tiết ánh sáng nhiều hay ít cho một bức ảnh. Mở khẩu càng lớn (chỉ số f/ càng nhỏ) thì càng nhiều ánh sáng, khép khẩu các nhỏ (chỉ số f/ càng lớn) thì càng ít ánh sáng vào ảnh. Tuy nhiên, kèm theo việc điều tiết ánh sáng, đóng mở khẩu độ ống kính còn có các hiệu ứng khác về quang học dưới đây.
- Khẩu độ mở càng lớn thì chiều sâu ảnh trường (depth of filed hay DOF) càng mỏng (***), và khép khẩu càng nhỏ thì chiều sâu ảnh trường càng dày, ảnh càng nét ở mọi khu vực trên bức ảnh.
- Mở khẩu lớn, do chiều sâu ảnh trường mỏng, sẽ làm các khu vực ngoài khu vực căn nét chính bị nhòa mờ (cả các chủ thể phụ trước và sau chủ thể chính), cũng như các chủ thể phụ nằm ngang hàng với chủ thể chính nhưng ở rìa của khuôn hình.
- Khẩu mở lớn, rìa của ảnh có thể có các hiệu ứng tối dần, nhất là độ tối có thể dễ quan sát được ở các góc và mép ảnh gọi là hiện tượng tối góc/ mép ảnh (vignetting).
- Nhiếp ảnh gia đóng mở khẩu độ mở của ống kính, ngoài tác dụng tăng giảm lượng ánh sáng cho ảnh, còn có tác dụng tạo hoặc triệt tiêu các hiệu ứng nét dày/mỏng, tối góc ảnh hay sáng đều trên ảnh, cũng như tạo các vòng tròn sáng mịn và mờ ở hậu ảnh của bức ảnh – gọi là bokeh (đọc là bô-kê) và thường được vận dụng làm các công cụ giúp nhiếp ảnh gia đạt được mong muốn về độ nét, ánh sáng giữa các vùng trên ảnh, tạo giá trị nghệ thuật cho bức ảnh, ví dụ như chụp chân dung, để thu hút chú ý của người xem ảnh vào chủ thể chính được chụp (người, vật), nhiếp ảnh gia thường mong muốn mở khẩu tối đa để làm nhòa mờ các vùng ngoài, trước/ sau chủ thế.
<h2>2. TỐC ĐỘ CỬA CHẬP:
Là tốc độ đóng mở của tấm chắn sáng giữa lỗ điều tiết ánh sáng trong ống kính và bản phim hay cảm biến ảnh số.</h2> Nếu bạn đọc những điều nêu trên về khẩu độ mở của ống kính đã thấy tương đối phức tạp, thì công nghệ máy ảnh còn phức tạp hơn nhiều do khẩu độ mở không phải là yếu tố duy nhất điều chỉnh ánh sáng cho ảnh. Ngoài việc điều tiết ánh sáng bằng khẩu độ mở, máy ảnh SLR/DSLR còn có một tấm chắn giữa ống kính và bản phim/ cảm biến ảnh số để ngăn ánh sáng. Tấm chắn này được gọi là cửa chập (hay shutter trong tiếng Anh) có tác dụng mở ra rồi đóng vào như cũ để khống chế thời gian phơi sáng của phim hay cảm biến số. Tốc độ mở rồi đóng lại của tấm chắn này thường vô cùng nhanh và được tính bằng một phần của giây (có thể là phần chục, phần trăm hay phần nghìn của giây). Cũng do mở rồi lại đóng ngay lại nên tấm này được gọi là cửa chập. Ở vị trí không chụp bình thường, của này luôn đóng để ngăn ánh sáng không xuyên tới phim hay cảm biến số.
Khi nhiếp ảnh gia bấm chụp một kiểu ảnh, tấm chắn sáng này – tức cửa chập – mở ra (rất nhanh) rồi lại đóng ngay lại (cũng rất nhanh), vì vậy chỉ cho phép phim hay cảm biến số tiếp xúc với ánh sáng trong một khoảnh khắc cực ngắn. Thời gian ngắn ngủi này được gọi là thời gian phơi sáng (tiếp xúc với ánh sáng) của một bức ảnh.
Các giá trị tốc độ cửa chập thường thấy (được tính bằng giây và phần của giây – tiếng Anh giây là second và viết tắt là s): 1s, 1/2s, 1/4s, 1/8s, 1/15s, 1/30s, 1/60s, 1/125s, 1/250s, 1/500s, 1/1000s, v.v… Ở đây có thể dễ dàng nhận thấy các mốc tính được cách nhau một khoảng (xấp xỉ) gấp đôi, hoặc chia đôi.
Điều thú vị và cả đáng kinh ngạc là các nhà chế tạo máy ảnh đã tính toán sao cho giá trị phơi sáng (EV) giữa các giá trị tăng giảm cửa chập theo cách nhân đôi hoặc chi đôi thời gian ĐÚNG BẰNG giá trị tăng giảm giữa các khẩu độ mở của ống kính, tức là chênh nhau 1 khẩu độ (xét về giá trị ánh sáng). Và vì vậy, khi tính giá trị ánh sáng được điều tiết (hay khống chế) bởi tốc độ cửa chập, người ta cũng tính bằng đơn vị khẩu (stop). Nếu tốc độ cửa chập tăng lên gấp đôi (tức một khẩu) thì lượng ánh sáng tiếp xúc với bản phim/ cảm biến số giảm đi một nửa (tức giảm 1 khẩu), và nếu tốc độ của chập giảm đi một nửa (tức một khẩu), giá trị ánh sáng sẽ tăng lên gấp đôi (tức tăng 1 khẩu).
Ngoài tác dụng điều tiết lượng ánh sáng để tạo phơi sáng phù hợp cho bức ảnh, tốc độ cửa chập còn là công cụ để tạo ra các hiệu ứng về mặt thời gian cho bức ảnh. Nếu muốn “bắt chết” một khoảnh khắc của một chủ thể đang chuyển động, một giá trị tốc độ của chập cao sẽ giúp nhiếp ảnh gia làm được điều này vì trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi của chập mở ra rồi đóng ngay lại với tốc độ hết sức cao/nhanh (ví dụ 1/1250s), sự di chuyển của chủ thể sẽ là không đáng kể và hình ảnh sẽ được “dừng lại” trong khuôn hình của nhiếp ảnh gia. Ngược lại, khi muốn ghi nhận các chuyển động với tính chất thời gian (ví dụ như tia sáng của pháo hoa từ lúc đạn pháo hoa ra khỏi nòng súng tới lúc bay lên cao và nổ bung với những ánh sáng đủ màu), nhiếp ảnh gia có thể điều chỉnh cho tốc độ của chập (mở/đóng) chậm hơn nhiều (ví dụ 1/2s, 1s, hay 3s) để toàn bộ “vết” pháo hoa được ghi lại trong khuôn hình.
Tốc độ cửa chập tạo ra các ảnh hưởng lớn trên ảnh đối với các chủ thể chuyển động, cũng như việc cầm máy không chắc, để run tay khi chụp. Ảnh chụp run tay với thời gian của chập mở ra lâu (tốc độ cửa chập mở/đóng chậm) sẽ làm hình ảnh bị nhòa vào nhau (mong muốn hay không mong muốn). Hiểu và sử dụng có chủ đích tốc độ cửa chập cũng sẽ giúp nhiếp ảnh gia chủ động tạo ra các hiệu ứng nghệ thuật trên bức ảnh.
<h2>3. ĐỘ NHẠY BẮT SÁNG ISO:
Là độ nhạy bắt ánh sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số. </h2> Công nghệ máy ảnh không chỉ dừng lại ở 2 yếu tố cơ bản đầu tiên là khẩu độ mở và cửa chập, mà còn càng trở nên phức tạp với khái niệm độ nhạy của bản phim (ngày nay được thay thế bằng cảm biến ảnh số trên máy ảnh DSLR).
Để hình ảnh được ghi lại trên phim, bản phim cần có khá năng bắt ánh sáng và chuyển hóa tất cả thành các giá trị nhất định (về hóa học) để khi đem tráng phim và rửa ảnh sẽ tạo ra độ sáng tối (đen/trắng) và màu sắc (phim màu) của hình ảnh. Tương tự như vậy, cảm biến ảnh số ngày nay cũng có khả năng ghi nhận ánh sáng và màu sắc , chỉ khác là sẽ chuyển thành các giá trị số hóa để ghi lại hình ảnh.
Độ nhạy bắt sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số có khả năng giúp nhiếp ảnh gia điều tiết phơi sáng của một bức ảnh. Độ nhạy này được tính bằng giá trị ISO (trước đây là ASA hoặc DIN đều cùng như nhau). ISO càng cao thì độ nhạy (khả năng bắt sáng nhanh) càng cao, giúp cho việc tăng tốc độ cửa chập lên cao (tức giảm thời gian phơi sáng) với giá trị lớn hơn, giúp cho việc chụp ảnh trong điều kiện ánh sáng yếu hiệu quả hơn.
Các giá trị ISO thường được sử dụng là: ISO 100, ISO 200, ISO 400, ISO 800, ISO 1600, ISO 3200, ISO 6400, …
Ở đây lặp lại điều thú vị như trên: Giá trị ISO đã được tính toán sao cho tương đương với việc tăng lượng ánh sáng lên gấp đôi hoặc giảm lượng ánh sáng xuống còn một nửa của các giá trị kế tiếp. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng giảm ISO cũng có thể được tính theo đơn vị khẩu. ISO 200 so với ISO 100 chênh nhau 1 khẩu, ISO 800 sẽ sáng hơn ISO 200 là 2 khẩu, v.v…
Một điều lưu ý duy nhất khi điều chỉnh ánh sáng cho ảnh dựa vào ISO là: Do công nghệ chế tạo, ISO càng lớn có ưu điểm bắt sáng càng nhạy nhưng lại gây ra càng nhiều nhiễu (noise) cho hình ảnh ghi nhận, cả ở phim và cảm biến ảnh số (ở phim là do để bắt sáng nhạy hơn thì các hạt hóa chất phải to hơn, ở cảm biến ảnh số do tốc độ bắt sáng lớn hơn thì càng bị “rơi vãi” nhiều “hạt ánh sáng hơn” – đó là VinaCamera.com xin tạm diễn đạt nôm na như vậy, xin các bạn đừng bắt bẻ về khoa học
<h2>4. TƯƠNG TÁC GIỮA KHẨU ĐỘ MỞ – TỐC ĐỘ CỬA CHẬP – ISO</h2> Tăng tăng, giảm giảm – tăng giảm, giảm tăng. Câu chuyện về 3 yếu tố cơ bản dường như chỉ là câu chuyện dài xoay quanh việc tăng và giảm các yếu tố này để tạo ra một bức ảnh có ánh sáng đẹp và chất lượng cao. Còn việc tăng giảm thế nào, cái nào và khi nào nên cao, khi nào nên thấp phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm, con mắt nhà nghề và tay máy, cũng như các thủ pháp nghệ thuật với sự sáng tạo không giới hạn của nhiếp ảnh gia.
Tuy vậy, VinaCamera.com cũng xin chỉ ra một vài mối quan hệ và hiệu ứng cơ bản trong cái guồng tăng giảm này như sau.
- Một bức ảnh, dù đẹp hay xấu, chỉ có một giá trị phơi sáng DUY NHẤT, hy vọng là giá trị tối ưu nhất với ý đồ thể hiện hình ảnh của người chụp. Để tạo ra một giá trị phơi sáng nhất định (mà bạn cho là phù hợp), bạn sẽ phải tăng giảm 3 yếu tố cơ bản phù hợp trong từng tình huống và mong muốn cụ thể. Nếu mong muốn giá trị phơi sáng là không đổi, tăng yếu tố này sẽ phải giảm yếu tố kia để ảnh không quá sáng và không quá tối.
- Điều may mắn là các yếu tố trên đều được tính toán với một đơn vị thống nhất là “khẩu”: Tăng một khẩu của yếu tố này sẽ phải giảm một khẩu của yếu tố kia để giá trị phơi sáng là không đổi – tức giữ nguyên độ sáng của bức ảnh.
Hãy xem các tình huống dưới đây và quan sát gợi ý về tăng giảm 3 yếu tố cơ bản minh họa để hiểu thêm về sự tương tác giữa 3 yếu tố này.
Bác chủ phải làm quen DOF! Chi tiết các bác khác nói hết rồi, em thì cứ gear của bác mà chỉnh mồm thôi:
- Ống 35mm/1.8: đứng cách 5m, để f4 chụp, tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash.
- Ống 18-105mm, để 24mm, đứng cách 2m, f4 (??), tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash. (em thì em để 18mm chụp luôn cho chắc lúc nào cũng nét).
http://www.dofmaster.com/dofjs.html
Không thì chỉnh qua P mà chụp bác ạ!
- Đứng càng gần DOF càng mỏng; đứng xa ra DOF dầy lên.
- Khép khẩu DOF dầy ra; mở khẩu DOF mỏng đi.
- Tiêu cự tăng thì DOF giảm.
- Ống 35mm/1.8: đứng cách 5m, để f4 chụp, tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash.
- Ống 18-105mm, để 24mm, đứng cách 2m, f4 (??), tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash. (em thì em để 18mm chụp luôn cho chắc lúc nào cũng nét).
http://www.dofmaster.com/dofjs.html
Không thì chỉnh qua P mà chụp bác ạ!
- Đứng càng gần DOF càng mỏng; đứng xa ra DOF dầy lên.
- Khép khẩu DOF dầy ra; mở khẩu DOF mỏng đi.
- Tiêu cự tăng thì DOF giảm.
Last edited by a moderator:
thôi thì đơn giản vầy, chụp ban đêm bác cứ f5-5,6 iso 6-800 tốc thì tủy chỉnh đến khi nào thấy vừa mắt thôi như vậy là rõ hết hà mà còn xoắn nữa thì xoay cái núm qua cái khung chữ nhật xanh xanh mà chụp
help nói:Cái lão Justintran này hồi vô SG lão HDD dẫn đi gặp mấy em trẻ ,đẹp mà vẫn than : Xinh thì xinh thật , trắng thì trắng thật ... zưng mà em vẫn thích chất mộc mạc của miền trung quê em cơ , thật là ...hết biết !!!
Đời thì được cái này thì mất cái kia, chưn dài thì... cũng vậy , suy ra trong nhiếp ảnh thì cũng vậy thôi.
Tấm 1 khi bác mở khẩu hết cỡ F1.8 thì nét được chủ thể ( thằng cu , nhưng cô bé thì soft) nhưng bù lại được tấm ảnh đẹp và mịn , vì không phải đẩy iso lên cao quá và phông mờ và đẹp .
Nếu bác khép khẩu cho cô bé cũng nét thì lại phải giảm tốc ( dễ nhòe ảnh) hoặc đẩy iso lên cao (ảnh không mịn) , mặt khác phông phía sau sẽ không còn đẹp mà sẽ trở nên rối , ánh đèn sẽ không còn lung linh nữa .
Ở trong trường hợp bác , em cũng sẽ mở khẩu tối đa F1,8 như bác vì sẽ cho kết quả khả quan nhất .Vì bác không thử các phương án khác nên không thấy nó tệ hơn như thế nào mà thôi .
...
Cảm ơn bác... Vấn đề nó nằm ở chỗ đúng như bác nói. Được cái lọ thì mất cái chai. Học hỏi nhau để rút kinh nghiệm thì mau hơn là trải nghiệm theo kiểu "thử và sai" rồi...sửa. Em thì lại không mê cái vụ PS lắm. Em mê cái vụ hương đồng gió nội tự nhiên như bác nói
Trở lại cái vụ chụp hình. Như bác wanacar nói bên dưới:
- Ống 35mm/1.8: đứng cách 5m, để f4 chụp, tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash.
Để f4 thì nó sẽ bị giống bác help nói là hậu cảnh có nguy cơ tối thui, mà hình em chụp cho mấy nhóc con là Noel thì tiêu mất không khí của cái hình ... Chưa kể có khả năng bị noise vì khả năng khử nhiễu không tốt lắm của con D60
- Ống 18-105mm, để 24mm, đứng cách 2m, f4 (??), tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash. (em thì em để 18mm chụp luôn cho chắc lúc nào cũng nét).
Cái ống 18-105 khi để 24mm là f4 ... Để em thử cái vụ này xem. Giờ thì chỉ lăn tăn cái vụ background thôi. Nó mà tối thui thì xem như không khả thi. Còn mấy cái vụ trên web nhiều khi lợi bất cập hại... Giống trong Thiên long bát bộ, Vương Ngọc Yến nhìn cái là biết chiêu thức, biết sơ hở, nhưng bảo đánh thì chịu chết...
http://www.dofmaster.com/dofjs.html
Trước mắt phải cảm ơn các bác đã góp ý nhiệt tình. Em thử nghiệm tiếp mọi khả năng rồi lại hỏi tiếp Thêm 02 tấm nữa để các bác xem. Nói chung là focus ổn hơn 02 tấm hôm trước, nhưng em e là background sẽ tối thui nếu là trong trường hợp Noel hôm bữa nếu để chế độ như vầy , cộng thêm khả năng là sẽ bị noise như tấm 3., khi mà ISO ở 400...
3.
... khác hẳn với độ mịn của tấm 4. ISO ở 200. Nhưng background bắt đầu không ổn. Đúng là được cái này thì mất cái kia như bác help nói
4.
Last edited by a moderator:
(Chụp mode M)justintran nói:Trở lại cái vụ chụp hình. Như bác wanacar nói bên dưới:
- Ống 35mm/1.8: đứng cách 5m, để f4 chụp, tăng ISO 400 cho tốc phù hợp (cao nữa chắc tiêu), mở flash.
Để f4 thì nó sẽ bị giống bác help nói là hậu cảnh có nguy cơ tối thui, mà hình em chụp cho mấy nhóc con là Noel thì tiêu mất không khí của cái hình ... Chưa kể có khả năng bị noise vì khả năng khử nhiễu không tốt lắm của con D60
- Bác giảm tốc xuống 1/10 là giải quyết vụ tối. Nếu không rung bác cố gồng 1/5s ) (có tripod thì khỏe).
- ISO 400 bác đưa máy vi tính soi thì bảo noise chứ ra in ảnh chẳng thấy. Chụp RAW (khử noise tốt hơn) luôn nếu bác lo...
- Nếu chỉ 2 hàng thì bác có thể giảm thêm 1 khẩu 2.8 (vẫn cách 5m).
Nếu có thể bác trang bị cái flash 430 hay 560 gì đó là giải quyết tốt!
Last edited by a moderator:
thường trên máy có một số tính năng mà nhà sản xuất tích hợp sẵn (mà cái này mình phải trả bằng tiền khi mua máy) đó là chức năng chụp phong cảnh (hình cái núi ) chân dung (hình mặt người) closeup (hình bông hoa) hay người ban đêm (hình người có cái ngôi sao phía sau) trên bánh xe của máy ảnh.justintran nói:Đây là 2 hình để cho các bác xem...
Hình 1 em chụp bằng ống fix 35 1.8G... Hình chỉ rõ nét vô thằng cu con, còn con chị bên cạnh là bị out nét... Hình 2 là hình em chụp bằng ống 18-105, chỉ mỗi thằng cu con thì nó nét căng. Cả 2 hình chụp đều có flash. Không bàn về tốc độ chụp rung tay làm nhòe hình nghe các bác
1.
2.
Nếu bạn không rành sử dụng máy ảnh thì nên chọn các chức năng có sẵn này, lúc đó máy ảnh sẽ tính toán các thông số tối ưu rồi quyết định cho một tấm ảnh tốt nhất theo nhà sản xuất đã tính toán sẵn.Mình chỉnh tay đôi khi không được như nó đâu bạn à.
Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng máy ảnh thuần thục thì đó là chuyện khác.
Gửi bạn một tấm ảnh xem chơi lúc mình dùng chức năng chụp ảnh người ban đêm (hình người có ngôi sao phía trên), chúc bạn có nhiều tấm ảnh đẹp với gia đình mình.
@ bác ninh: đã sắm cái dSLR thì phải mò mẫm nó mới được ... Để mấy chế độ kia thì cái flash tự động nó nhảy, nhiều khi không ra sao hết... Nói chung hổm rày mò mẫm cũng đã khai sáng được một số thứ đáng kể rồi... f3.2 cho DOF ổn nhất trong gần như mọi trường hợp...... Hình chụp con bé con múa tổng kết lớp, thiếu sáng nên chỉ được vậy, nhưng cũng không tệ lắm
Last edited by a moderator: