Chủ đề tương tự
CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP SBR.
1. GIỚI THIỆU
SBR ( sequencing batch reactor): Bể phản ứng theo mẻ là dạng công trình xử lí nước thải dựa trên phương pháp bùn hoạt tính , nhưng 2 giai đoạn sục khí và lắng diễn ra gián đoạn trong cùng một kết cấu.
Hệ thống SBR là hệ thống dùng đểxử lý nước thải sinh học chứa chất hữu cơ và nitơ cao.
Hệ thống hoạt động liên tục bao gồm quá trình bơm nước thải – phản ứng – lắng – hút nước thải ra; trong đó quá trình phản ứng hay còn gọi là quá trình tạo hạt (bùn hạt hiếu khí), quá trình này phụ thuộc vào khả năng cấp khí, đặc điểm chất nền trong nước thải đầu vào.Nói chung, Công nghệ SBR đã chứng tỏ được là một hệ thống xử lý có hiệu quảdo trong quá trình sử dụng ít tốn năng lượng, dễ dàng kiểm soát các sự cổ xảy ra, xử lý với lưu lượng thấp, ít tốn diện tích rất phù hợp với những trạm có công suất nhỏ, ngoài ra công nghệ SBR có thể xử lý với hàm lượng chất ô nhiễm có nồng độ thấp hơn.
2.CÁC GIAI ĐOẠN XỬ LÝ BẰNG SBR
Qui trình hoạt động: gồm 4 giai đoạn cơ bản:
1. Đưa nước vào bể (Filling): đưa nước vào bể có thể vận hành ở 3 chế độ: làm đầy tĩnh, làm đầy khuấy trộn, làm đầy sục khí.
2. Giai đoạn phản ứng ( reaction): sục khí để tiến hành quá trình nitrit hóa, nitrat hóa và phân hủy chất hữu cơ. Trong giai đoạn này cần tiến hành thí nghiệm để kiểm soát các thông số đầu vào như: DO, BOD, COD, N, P, cường độ sục khí, nhiệt độ, pH… để có thể tạo bông bùn hoạt tính hiệu quả cho quá trình lắng sau này.
3. Giai đoan lắng (Settling): Các thiết bị sục khí ngừng họat động, quá trình lắng diễn ra trong môi trường tĩnh hoàn toàn, thời gian lắng thường nhỏ hơn 2 giờ.
4.Giai đoạn xả nước ra (Discharge): Nước đã lắng sẽ được hệ thống thu nước tháo ra đến giai đoạn khử tiếp theo; đồng thời trong quá trình này bùn lắng cũng được tháo ra.
Ngoài 4 giai đoạn trên, còn có thêm pha chờ, thực ra là thời gian chờ nạp mẻ tiếp theo (pha này có thể bỏ qua).
3. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CÔNG NGHỆ SBR
A. ƯU ĐIỂM
• Hệ thống SBR linh động có thểxử lý nhiều loại nước thải khác nhau với nhiều thành phần và tải trọng.
• Dễ dàng bảo trì, bảo dưỡng thiết bị (các thiết bị ít) mà không cần phải tháo nước cạn bể. Chỉ tháo nước khi bảo trì các thiết bị như: cánh khuấy, motor, máy thổi khí, hệ thống thổi khí.
• Hệ thống có thể điều khiển hoàn toàn tự động
• TSS đầu ra thấp, hiệu quả khử photpho, nitrat hóa và khử nitrat hóa cao
• Quá trình kết bông tốt do không có hệ thống gạt bùn cơ khí
• Ít tốn diện tích do không có bể lắng 2 và quá trình tuần hoàn bùn.
• Chi phí đầu tư và vận hành thấp (do hệ thống motor, cánh khuấy… hoạt động gián đoạn)
• Quá trình lắng ở trạng thái tĩnh nên hiệu quả lắng cao.
• Có khả năng nâng cấp hệ thống
B. NHƯỢC ĐIỂM
• Do hệ thống hoạt động theo mẻ, nên cần phải có nhiều thiết bị hoạt động đồng thời với nhau.
• Công suất xử lý thấp (do hoạt động theo mẻ)
• Người vận hành phải có kỹ thuật cao
4. CÁC QUÁ TRÌNH SINH HỌC DIỄN RA TRONG BỂ SBR.
Quá trình phân hủy hiếu khí cơ chất đầu vào và nitrat hóa.
Quá trình được thực hiện bởi nhóm vi khuẩn tự dưỡng và dị dưỡng, khi điều kiện cấp khí và chất nền được đảm bảo trong bể sẽ diễn ra các quá trình sau:
• Oxy hóa các chất hữu cơ
CxHyOz + (x+y/4 – z/2) O2 → x CO2 + y/2 H2O
• Tổng hợp sinh khối tế bào
n(CxHyOz) + nNH3+ n(x+y/4 –z/2-5)O2→(C5H7NO2)n + n(x-5)CO2 + n(y-4)/2 H2O
• Tự oxy hóa vật liệu tế bào (phân hủy nội bào)
(C5H7NO2)n + 5nO¬2 → 5n CO2 + 2n H2O + nNH3
• Quá trình nitrit hóa
2NH3 + 3O2 → 2NO2- + 2H+ + 2H2O (vi khuẩn nitrosomonas)
( 2NH4+ + 3O2 → 2NO2- + 4H+ + 2H2O)
2NO2- + O2 → 2NO3- (vi khuẩn nitrobacter)
Tổng phản ứng oxy hóa amoni:
NH4+ + 2O2 → NO3- + 2H+ + 2H2O
5. ỨNG DỤNG
Dùng cho hệ thống xử lý nước có công suất nhỏ, diện tích giới hạn.
1. GIỚI THIỆU
SBR ( sequencing batch reactor): Bể phản ứng theo mẻ là dạng công trình xử lí nước thải dựa trên phương pháp bùn hoạt tính , nhưng 2 giai đoạn sục khí và lắng diễn ra gián đoạn trong cùng một kết cấu.
Hệ thống SBR là hệ thống dùng đểxử lý nước thải sinh học chứa chất hữu cơ và nitơ cao.
Hệ thống hoạt động liên tục bao gồm quá trình bơm nước thải – phản ứng – lắng – hút nước thải ra; trong đó quá trình phản ứng hay còn gọi là quá trình tạo hạt (bùn hạt hiếu khí), quá trình này phụ thuộc vào khả năng cấp khí, đặc điểm chất nền trong nước thải đầu vào.Nói chung, Công nghệ SBR đã chứng tỏ được là một hệ thống xử lý có hiệu quảdo trong quá trình sử dụng ít tốn năng lượng, dễ dàng kiểm soát các sự cổ xảy ra, xử lý với lưu lượng thấp, ít tốn diện tích rất phù hợp với những trạm có công suất nhỏ, ngoài ra công nghệ SBR có thể xử lý với hàm lượng chất ô nhiễm có nồng độ thấp hơn.
2.CÁC GIAI ĐOẠN XỬ LÝ BẰNG SBR
Qui trình hoạt động: gồm 4 giai đoạn cơ bản:
1. Đưa nước vào bể (Filling): đưa nước vào bể có thể vận hành ở 3 chế độ: làm đầy tĩnh, làm đầy khuấy trộn, làm đầy sục khí.
2. Giai đoạn phản ứng ( reaction): sục khí để tiến hành quá trình nitrit hóa, nitrat hóa và phân hủy chất hữu cơ. Trong giai đoạn này cần tiến hành thí nghiệm để kiểm soát các thông số đầu vào như: DO, BOD, COD, N, P, cường độ sục khí, nhiệt độ, pH… để có thể tạo bông bùn hoạt tính hiệu quả cho quá trình lắng sau này.
3. Giai đoan lắng (Settling): Các thiết bị sục khí ngừng họat động, quá trình lắng diễn ra trong môi trường tĩnh hoàn toàn, thời gian lắng thường nhỏ hơn 2 giờ.
4.Giai đoạn xả nước ra (Discharge): Nước đã lắng sẽ được hệ thống thu nước tháo ra đến giai đoạn khử tiếp theo; đồng thời trong quá trình này bùn lắng cũng được tháo ra.
Ngoài 4 giai đoạn trên, còn có thêm pha chờ, thực ra là thời gian chờ nạp mẻ tiếp theo (pha này có thể bỏ qua).
3. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CÔNG NGHỆ SBR
A. ƯU ĐIỂM
• Hệ thống SBR linh động có thểxử lý nhiều loại nước thải khác nhau với nhiều thành phần và tải trọng.
• Dễ dàng bảo trì, bảo dưỡng thiết bị (các thiết bị ít) mà không cần phải tháo nước cạn bể. Chỉ tháo nước khi bảo trì các thiết bị như: cánh khuấy, motor, máy thổi khí, hệ thống thổi khí.
• Hệ thống có thể điều khiển hoàn toàn tự động
• TSS đầu ra thấp, hiệu quả khử photpho, nitrat hóa và khử nitrat hóa cao
• Quá trình kết bông tốt do không có hệ thống gạt bùn cơ khí
• Ít tốn diện tích do không có bể lắng 2 và quá trình tuần hoàn bùn.
• Chi phí đầu tư và vận hành thấp (do hệ thống motor, cánh khuấy… hoạt động gián đoạn)
• Quá trình lắng ở trạng thái tĩnh nên hiệu quả lắng cao.
• Có khả năng nâng cấp hệ thống
B. NHƯỢC ĐIỂM
• Do hệ thống hoạt động theo mẻ, nên cần phải có nhiều thiết bị hoạt động đồng thời với nhau.
• Công suất xử lý thấp (do hoạt động theo mẻ)
• Người vận hành phải có kỹ thuật cao
4. CÁC QUÁ TRÌNH SINH HỌC DIỄN RA TRONG BỂ SBR.
Quá trình phân hủy hiếu khí cơ chất đầu vào và nitrat hóa.
Quá trình được thực hiện bởi nhóm vi khuẩn tự dưỡng và dị dưỡng, khi điều kiện cấp khí và chất nền được đảm bảo trong bể sẽ diễn ra các quá trình sau:
• Oxy hóa các chất hữu cơ
CxHyOz + (x+y/4 – z/2) O2 → x CO2 + y/2 H2O
• Tổng hợp sinh khối tế bào
n(CxHyOz) + nNH3+ n(x+y/4 –z/2-5)O2→(C5H7NO2)n + n(x-5)CO2 + n(y-4)/2 H2O
• Tự oxy hóa vật liệu tế bào (phân hủy nội bào)
(C5H7NO2)n + 5nO¬2 → 5n CO2 + 2n H2O + nNH3
• Quá trình nitrit hóa
2NH3 + 3O2 → 2NO2- + 2H+ + 2H2O (vi khuẩn nitrosomonas)
( 2NH4+ + 3O2 → 2NO2- + 4H+ + 2H2O)
2NO2- + O2 → 2NO3- (vi khuẩn nitrobacter)
Tổng phản ứng oxy hóa amoni:
NH4+ + 2O2 → NO3- + 2H+ + 2H2O
5. ỨNG DỤNG
Dùng cho hệ thống xử lý nước có công suất nhỏ, diện tích giới hạn.
SƠ LƯỢC VỀ CÁC QUÁ TRÌNH VI SINH TRONG BỂ XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Như đã nói ở các chương trước quá trình xử lý sinh học thường theo sau quá trình xử lý cơ học để loại bỏ các chất hữu cơ trong nước thải nhờ hoạt động của các vi khuẩn. Tùy theo nhóm vi khuẩn sử dụng là hiếu khí hay yếm khí mà người ta thiết kế các công trình khác nhau. Tùy theo khả năng về tài chính, diện tích đất mà người ta có thể dùng ao hồ có sẵn hoặc xây dựng các bể nhân tạo để xử lý.Sơ lược về các quá trình vi sinh trong việc xử lý nước thải
Quá trình hiếu khí và hiếu khí không bắt buộc (tùy nghi)
Để thiết kế và vận hành một bể xử lý sinh học có hiệu quả chúng ta phải nắm vững các kiến thức sinh học có liên quan đến quá trình xử lý. Trong các bể xử lý sinh học các vi khuẩn đóng vai trò quan trọng hàng đầu vì nó chịu trách nhiệm phân hủy các thành phần hữu cơ trong nước thải. Trong các bể bùn hoạt tính một phần chất thải hữu cơ sẽ được các vi khuẩn hiếu khí và hiếu khí không bắt buộc sử dụng để lấy năng lượng để tổng hợp các chất hữu cơ còn lại thành tế bào vi khuẩn mới. Vi khuẩn trong bể bùn hoạt tính thuộc các giống Pseudomonas, Zoogloea, Achromobacter, Flavobacterium, Nocardia, Bdellovibrio, Mycobacterium và hai loại vi khuẩn nitrát hóa là Nitrosomonas và Nitrobacter. Ngoài ra còn có cácloại hình sợi như Sphaerotilus, Beggiatoa, Thiothrix, Lecicothrix và Geotrichum. Ngoài các vi khuẩn các vi sinh vật khác cũng đóng vai trò quan trọng trong các bể bùn hoạt tính. Ví dụ như các nguyên sinh động vật và Rotifer ăn các vi khuẩn làm cho nước thải đầu ra sạch hơn về mặt vi sinh.
Khi bể xử lý được xây dựng xong và đưa vào vận hành thì các vi khuẩn có sẵn trong nước thải bắt đầu phát triển theo chu kỳ phát triển của các vi khuẩn trong một mẻ cấy vi khuẩn. Trong thời gian đầu, để sớm đưa hệ thống xử lý vào hoạt động ổn định có thể dùng bùn của các bể xử lý đang hoạt động gần đó cho thêm vào bể mới như là một hình thức cấy thêm vi khuẩn cho bể xử lý. Chu kỳ phát triển của các vi khuẩn trong bể xử lý bao gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn chậm (lag-phase): xảy ra khi bể bắt đầu đưa vào hoạt động và bùn của các bể khác được cấy thêm vào bể. Đây là giai đoạn để các vi khuẩn thích nghi với môi trường mới và bắt đầu quá trình phân bào.
Giai đoạn tăng trưởng (log-growth phase): giai đoạn này các tế bào vi khuẩn tiến hành phân bào và tăng nhanh về số lượng. Tốc độ phân bào phụ thuộc vào thời gian cần thiết cho các lần phân bào và lượng thức ăn trong môi trường.
Giai đoạn cân bằng (stationary phase): lúc này mật độ vi khuẩn được giữ ở một số lượng ổn định. Nguyên nhân của giai đoạn này là (a) các chất dinh dưỡngcần thiết cho quá trình tăng trưởng của vi khuẩn đã bị sử dụng hết, (b) số lượng vi khuẩn sinh ra bằng với số lượng vi khuẩn chết đi.
Giai đoạn chết (log-death phase): trong giai đoạn này số lượng vi khuẩn chết đi nhiều hơn số lượng vi khuẩn được sinh ra, do đó mật độ vi khuẩn trong bể giảm nhanh. Giai đoạn này có thể do các loài có kích thườc khả kiến hoặc là đặc điểm của môi trường.
Cũng cần nó thêm rằng đồ thị trên chỉ mô tả sự tăng trưởng của một quần thể vi khuẩn đơn độc. Thực tế trong bể xử lý có nhiều quần thể khác nhau và có đồ thị tăng trưởng giống nhau về dạng nhưng khác nhau về thời gian tăng trưởng cũng như đỉnh của đồ thị. Trong một giai đoạn bất kỳ nào đó sẽ có một loài có số lượng chủ đạo do ở thời điểm đó các điều kiện như pH, oxy, dinh dưỡng, nhiệt độ... phù hợp cho loài đó. Sự biến động về các vi sinh vật chủ đạo trong bể xử lý được biểu diễn trong hình bên dưới. Khi thiết kế và vận hành hệ thống xử lý chúng ta phải để ý tới cả hệ vi sinh vật này, không nên nghĩ rằng đây là một "hộp đen" với những vi sinh vật bí mật.
Như đã nói ở trên vi khuẩn đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong các bể xử lý nước thải. Do đó trong các bể này chúng ta phải duy trì một mật độ vi khuẩn cao tương thích với lưu lượng các chất ô nhiễm đưa vào bể. Điều này có thể thực hiện thông qua quá trình thiết kế và vận hành. Trong quá trình thiết kế chúng ta phải tính toán chính xác thời gian tồn lưu của vi khuẩn trong bể xử lý và thời gian này phải đủ lớn để các vi khuẩn có thể sinh sản được. Trong quá trình vận hành, các điều kiện cần thiết cho quá trình tăng trưởng của vi khuẩn (pH, chất dinh dưỡng, nhiệt độ, khuấy trộn...) phải được điều chỉnh ở mức thuận lợi nhất cho vi khuẩn.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các công trình xử lý nước thải hiếu khí
LoạiCác yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của công trình
Bùn hoạt tính
Loại bể phản ứng
Thời gian lưu của nước thải trong bể phản ứng
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Hiệu suất sục khí
Thời gian lưu trữ VSV trong bể phản ứng
Tỉ lệ thức ăn/vi sinh vật (F/M)
Tỉ lệ bùn bơm hoàn lưu về bể phản ứng
Các chất dinh dưỡng
Các yếu tố môi trường (nhiệt độ, pH)
Bể lọc sinh học nhỏ giọt
Loại nguyên liệu làm giá bám và chiều cao của cột nguyên liệu này
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Hiệu suất thông khí
Tỉ lệ hoàn lưu
Cách sắp xếp các cột lọc
Cách phân phối lưu lượng nước
Đĩa quay sinh học
Số bể, đĩa
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Bộ phận truyền động
Mật độ của nguyên liệu cấu tạo đĩa
Vận tốc quay
Các trục quay
Độ ngập nước của đĩa
Tỉ lệ hoàn lưu
Loại
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của công trình
Bùn hoạt tính
Loại bể phản ứng
Thời gian lưu của nước thải trong bể phản ứng
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Hiệu suất sục khí
Thời gian lưu trữ VSV trong bể phản ứng
Tỉ lệ thức ăn/vi sinh vật (F/M)
Tỉ lệ bùn bơm hoàn lưu về bể phản ứng
Các chất dinh dưỡng
Các yếu tố môi trường (nhiệt độ, pH)
Bể lọc sinh học nhỏ giọt
Loại nguyên liệu làm giá bám và chiều cao của cột nguyên liệu này
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Hiệu suất thông khí
Tỉ lệ hoàn lưu
Cách sắp xếp các cột lọc
Cách phân phối lưu lượng nước
Đĩa quay sinh học
Số bể, đĩa
Chế độ nạp nước thải và các chất hữu cơ
Bộ phận truyền động
Mật độ của nguyên liệu cấu tạo đĩa
Vận tốc quay
Các trục quay
Độ ngập nước của đĩa
Tỉ lệ hoàn lưu
Nguồn: Wastewater Engineering: treatment, reuse, disposal, 1991
Quá trình yếm khí
Các hệ thống yếm khí ứng dụng khả năng phân hủy chất hữu cơ của vi sinh vật trong điều kiện không có oxy. Quá trình phân hủy yếm khí chất hữu cơ rất phức tạp liên hệ đến hàng trăm phản ứng và sản phẩm trung gian. Tuy nhiên người ta thường đơn giản hóa chúng bằng phương trình sau đây:
Chất hữu cơ
[sub]lên men[/sub]
----------->
[sup]yếm khí[/sup]
CH[sub]4[/sub] + CO[sub]2[/sub] + H[sub]2[/sub] + NH[sub]3[/sub] + H[sub]2[/sub]S
Hỗn hợp khí sinh ra thường được gọi là khí sinh học hay biogas. Thành phần của Biogas như sau:
Methane (CH[sub]4[/sub])
55 ¸ 65%
Carbon dioxide (CO[sub]2[/sub])
35 ¸ 45%
Nitrogen (N[sub]2[/sub])
0 ¸ 3%
Hydrogen (H[sub]2[/sub])
0 ¸ 1%
Hydrogen Sulphide (H[sub]2[/sub]S)
0 ¸ 1%
Methane có nhiệt trị cao (gần 9.000 kcal/m[sup]3[/sup]). Do đó, nhiệt trị của Biogas khoảng 4.500 ¸ 6.000 kcal/m[sup]3[/sup], tùy thuộc vào phần trăm của methane hiện diện trong Biogas.55 ¸ 65%
Carbon dioxide (CO[sub]2[/sub])
35 ¸ 45%
Nitrogen (N[sub]2[/sub])
0 ¸ 3%
Hydrogen (H[sub]2[/sub])
0 ¸ 1%
Hydrogen Sulphide (H[sub]2[/sub]S)
0 ¸ 1%
Quá trình phân hủy yếm khí được chia thành 3 giai đoạn chính như sau:
- Phân hủy các chất hữu cơ cao phân tử.
- Tạo nên các axít.
- Tạo methane.
Giai đoạn I
Thủy phân và lên men
Giai đoạn II
Tạo axid acetic, H[sub]2[/sub]
Giai đoạn III
Sinh CH[sub]4[/sub]
Ba giai đoạn của quá trình lên men yếm khí (Mc. Cathy, 1981)
Ba nhóm vi khuẩn chính tham gia vào quá trình là nhóm vi sinh vật thủyphân ch6át hữu cơ, nhóm vi sinh vật tạo acid bao gồm các loài Clostridium spp., Peptococcus anaerobus, Bifidobacterium spp., Desulphovibrio spp., Corynebacterium spp., Lactobacillus, Actonomyces, Staphylococcus và Escherichia coli, và nhóm vi sinh vật sinh methane gồm các loài dạng hình que (Methanobacterium, Methanobacillus), dạng hình cầu (Methanococcus, Methanosarcina).(thuyết minh bằng tiếng Anh)
Các nhân tố môi trường ảnh hưởng đến quá trình lên men yếm khí Quá trình lên men yếm khí có thể được khởi động một cách nhanh chóng nếu như chất thải của một hầm ủ đang hoạt động được dùng để làm chất mồi (đưa vi khuẩn đang hoạt động vào mẻ ủ). Hàm lượng chất rắn trong nguyên liệu nạp cho hầm ủ nên được điều chỉnh ở mức 5 ¸ 10%, 90 ¸ 95% còn lại là nước.
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ và sự biến đổi của nhiệt độ trong ngày và các mùa ảnh hưởng đến tốc độ phân hủy chất hữu cơ. Thông thường biên độ nhiệt sau đây được chú ý đến trong quá trình xử lý yếm khí:
25 ¸ 40[sup]oC[/sup]: đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho các vi sinh vật ưa ấm.
50 ¸ 65[sup]oC[/sup]: nhiệt độ thích hợp cho các vi sinh vật ưa nhiệt.
Nói chung khi nhiệt độ tăng tốc độ sinh khí tăng nhưng ở nhiệt độ trong khoảng 40 ¸ 45[sup]oC[/sup] thì tốc độ sinh khí giảm vì khoảng nhiệt độ này không thích hợp cho cả hai loại vi khuẩn, nhiệt độ trên 60[sup]oC[/sup] tốc độ sinh khí giảm đột ngột và quá trình sinh khí bị kềm hãm hoàn toàn ở 65[sup]oC[/sup] trở lên.
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên khả năng sinh khí của hầm ủ
(Price and Cheremisinoff, 1981, trích dẫn bởi Chongrak, 1989)
(thuyết minh bằng tiếng Anh)
Ở các nước vùng ôn đới nhiệt độ môi trường thấp; do đó tốc độ sinh khí chậm và ở nhiệt độ dưới 10[sup]oC[/sup] thể tích khí sản xuất được giảm mạnh. Để cải thiện tốc độ sinh khí người ta có thể dùng Biogas đun nóng nguyên liệu nạp, hoặc đun nước nóng để trao đổi nhiệt qua các ống hình xoắn ốc lắp đặt sẵn trong lòng hầm ủ. Ngoài ra người ta còn dùng các tấm nhựa trong để bao hầm ủ lại, nhiệt độ bên trong tấm nhựa trong sẽ cao hơn nhiệt độ môi trường từ 5 ¸ 10[sup]oC[/sup], hoặc thiết kế cho phần trên hầm ủ chứa nước và lượng nước này được đun nóng lên bằng bức xạ mặt trời, hoặc tạo lớp cách nhiệt với môi trường bằng cách phủ phân compost hoặc lá cây lên hầm ủ.Ảnh hưởng của pH và độ kiềm (alkalinity)
pH trong hầm ủ nên được điều chỉnh ở mức 6,6 ¸ 7,6 tối ưu trong khoảng 7 ¸ 7,2 vì tuy rằng vi khuẩn tạo acid có thể chịu được pH thấp khoảng 5,5 nhưng vi khuẩn tạo methane bị ức chế ở pH đó. pH của hầm ủ có khi hạ xuống thấp hơn 6,6 do sự tích tụ quá độ các acid béo do hầm ủ bị nạp quá tải hoặc do các độc tố trong nguyên liệu nạp ức chế hoạt động của vi khuẩn methane. Trong trường hợp này người ta lập tức ngưng nạp cho hầm ủ để vi khuẩn sinh methane sử dụng hết các acid thừa, khi hầm ủ đạt được tốc độ sinh khí bình thường trở lại người ta mới nạp lại nguyên liệu cho hầm ủ theo đúng lượng quy định. Ngoài ra người ta có thể dùng vôi để trung hòa pH của hầm ủ.
Alkalinity của hầm ủ nên được giữ ở khoảng 1.000 ¸ 5.000 mg/L để tạo khả năng đệm tốt cho nguyên liệu nạp.
Ảnh hưởng của độ mặn
Thường trên 90% trọng lượng nguyên liệu là nước. TTNLM đã tìm hiểu khả năng sinh Biogas của hầm ủ tùy thuộc nồng độ muối trong nước. Kết quả cho thấy vi khuẩn tham gia trong quá trình sinh khí methane có khả năng dần dần thích nghi với nồng độ của muối ăn NaCl trong nước. Với nồng độ < 0,3% khả năng sinh khí không bị giảm đáng kể. Như vậy việc vận hành các hệ thống xử lý yếm khí tại các vùng nước lợ trong mùa khô không gặp trở ngại nhiều (Lê Hoàng Việt, 1988).
Các chất dinh dưỡng
Để bảo đảm năng suất sinh khí của hầm ủ, nguyên liệu nạp nên phối trộn để đạt được tỉ số C/N từ 25/1 ¸ 30/1 bởi vì các vi khuẩn sử dụng carbon nhanh hơn sử dụng đạm từ 25 ¸ 30 lần. Các nguyên tố khác như P, Na, K và Ca cũng quan trọng đối với quá trình sinh khí tuy nhiên C/N được coi là nhân tố quyết định.
Ảnh hưởng lượng nguyên liệu nạp
Ảnh hưởng của lượng nguyên liệu nạp có thể biểu thị bằng 2 nhân tố sau:
Hàm lượng chất hữu cơ biểu thị bằng kg COD/m[sup]3[/sup]/ngày hay VS/m[sup]3[/sup]/ngày
Thời gian lưu trữ hỗn hợp nạp trong hầm ủ HRT
Lượng chất hữu cơ nạp cao sẽ làm tích tụ các acid béo do các vi khuẩn ở giai đoạn 3 không sử dụng kịp làm giảm pH của hầm ủ gây bất lợi cho các vi khuẩn methane.
Ảnh hưởng của các chất khóang trong nguyên liệu nạp
Các chất khóang trong nguyên liệu nạp có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình sinh khí methane. Ví dụ ở nồng độ thấp Nikel làm tăng quá trình sinh khí.
Các chất khóang này còn gây hiện tượng cộng hưởng hoặc đối kháng. Hiện tượng cộng hưởng là hiện tượng tăng độc tính của một nguyên tố do sự có mặt một nguyên tố khác. Hiện tượng đối kháng là hiện tượng giảm độc tính của một nguyên tố do sự có mặt của một nguyên tố khác.
Hiện tượng cộng hưởng và đối kháng của các cation đối với quá trình lên men yếm khí
(EPA, 1979, trích dẫn bởi Chongrak, 1989)
Cations gây độc
Cations cộng hưởng
Cations đối kháng
Ammonium - NCa, Mg, K
Na
Ca
Ammniu - N, Mg
K, Na
Mg
Ammonium - N, Ca
K, Na
K
K, Na
Na
Ammonium - N, Ca, Mg
K
Khuấy trộn
Khuấy trộn tạo điều kiện cho vi khuẩn tiếp xúc với chất thải làm tăng nhanh quá trình sinh khí. Nó còn làm giảm thiểu sự lắng đọng của các chất rắn xuống đáy hầm và sự tạo bọt và váng trên mặt hầm ủ.
Góp ý về thông số amoniac trong khi thực hiện TCVN 5945:1995 đối với công nghiệp chế biến cao su thiên nhiên ở Việt Nam
TS Nguyễn Ngọc Bích
Trưởng phòng Nghiên cứu -Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam
LTS: Tiêu chuẩn nhà nước về môi trường (TCMT) đang được áp dụng vào các hoạt động kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm ở nước ta phù hợp với nguyên tắc quản lý môi trường chủ yếu hiện nay là “Mệnh lệnh và Kiểm soát”, theo đó, tiêu chuẩn môi trường được cưỡng chế áp dụng để tuân thủ với qui định các chính sách và mục tiêu quản lý môi trường. Từ khi Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành (1994), đến nay đã có hơn 350 TCVN về môi trường đã được Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (trước đây) nay là Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành và đang là một trong các công cụ áp dụng quan trọng cho công tác quản lý môi trường ở nước ta. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng thực tế cũng đã cho thấy, một số tiêu chuẩn còn có nội dung bất cập hoặc chưa đáp ứng được đầy đủ cho công tác quản lý môi trường trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Mặt khác, các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước cũng đã được bổ sung và sửa đổi do kinh tế phát triển nhanh, thành phần sở hữu đa dạng hơn, qui mô của các dự án ngày một lớn hơn. Vì vậy, hiện nay Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) đang tiến hành soát xét, sửa đổi, bổ sung 11 TCMT cho phù hợp vớibối cảnh và những yêu cầu mới. Bài viết sau đây của TS. Nguyễn Ngọc Bích từ một phần nội dung kết quả của chương trình khảo sát quản lý kỹ thuật trong xử lý nước thải (XLNT) của Tổng Công ty Cao su Việt Nam do Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam phối hợp với Ban Quản lý Kỹ thuật (Tổng Công ty Cao su), nêu lên một số kinh nghiệm khi áp dụng TCVN 5945-1995 và đề xuất phương hướng để chỉnh sửa tiêu chuẩn này.
Xử lý nước thải (XLNT) trong ngành chế biến cao su thiên nhiên hiện nay được tiến hành dựa trên Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5945:1995 - Nước thải Công nghiệp - Tiêu chuẩn thải. Từ đầu những năm 1990, Tổng Công ty Cao su Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào công tác xử lý nước thải (XLNT) tại các nhà máy chế biến cao su. Cho đến nay, trên tổng số 37 nhà máy chế biến cao su thuộc Tổng Công ty hiện đang hoạt động trên toàn quốc, có 26 nhà máy đã được trang bị hệ thống XLNT, với tổng kinh phí đầu tư ước tính trên 80 tỷ đồng. Tuy nhiên, sản lượng chế biến của các nhà máy thuộc Tổng Công ty Cao su Việt Nam là khoảng 250 ngàn tấn/năm và của các nhà máy ngoài Tổng Công ty là khoảng 120 ngàn tấn/ năm (số liệu cuối năm 2003). Với sản lượng đó, ngành chế biến cao su thiên nhiên Việt Nam hằng năm thải vào môi trường khoảng mười triệu mét khối nước thải có hàm lượng chất ô nhiễm hữu cơ và chất dinh dưỡng thuộc loại cao. Khối lượng nước thải này đang tăng lên hằng năm và dự kiến sẽ còn tăng trong những năm sắp tới song hành theo sự phát triển của các diện tích trồng cao su ngoài quốc doanh.
1. Đặc tính ô nhiễm của nước thải chế biến cao su
1.1. Phương pháp chế biến cao su và nguồn gốc nước thải
Trong quá trình chế biến cao su khối, mủ cao su tiếp nhận tại nhà máy được khuấy trộn đều trong một bể chứa, rồi được pha loãng và để lắng trong một thời gian. Mủ cao su đã pha loãng sau đó được chuyển sang các mương và được cho thêm axit (axit formic hoặc axit axêtic). Dưới tác dụng của axit, mủ cao su đông lại thành khối, tách khỏi phần dung dịch còn lại (gọi là serum). Các khối cao su sau đó được gia công cơ học bằng máy cán kéo, máy cán crepe, và máy cán băm hoặc máy cán cắt. Qua đó, khối cao su đông tụ giảm dần kích thước để cuối cùng thành các hạt cốm có kích thước khoảng 3-5 mm và được sấy khô, ép thành khối.
Tương tự như các công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông nghiệp khác, ngành chế biến cao su tạo ra nước thải chủ yếu là từ khâu rửa nguyên liệu. Trong chế biến cao su rắn, nước thải xuất hiện từ 3 công đoạn: (A) khuấy trộn và pha loãng, (B) đánh đông mủ, và (C) gia công cơ học và được tóm tắt như lưu đồ ở hình 1. Thải ra từ bể khuấy trộn là nước rửa bể và dụng cụ, trong nước rửa này có chứa một ít mủ cao su còn sót lại. Nước thải từ các mương đánh đông, vì nó chứa phần lớn là serum đã được tách ra khỏi mủ cao su trong quá trình đông tụ của mủ. Nước thải từ công đoạn gia công cơ học cũng có bản chất tương tự như nước thải từ mương đánh đông, nhưng loãng hơn. Đây là nước rửa được phun vào khối cao su nhằm loại bỏ serum cũng như các chất bẩn trong quá trình gia công trên các máy.
Tính trung bình, sản xuất một tấn thành phẩm (quy theo lượng khô) cao su khối hoặc cao su tờ từ mủ nước thải ra khoảng 25 m3 nước thải. Nếu sản xuất cao su khối từ mủ đông tạp thì khối lượng đó là khoảng 35 m3/tấn và sản xuất mủ ly tâm thì khối lượng nước thải là khoảng 18 m3/tấn.
2.2. Đặc tính ô nhiễm của nước thải chế biến cao su
Bảng 1 dưới đây trình bày các giá trị trung bình của các chỉ tiêu đặc trưng cho tính chất gây ô nhiễm của nước thải ngành chế biến cao su thiên nhiên theo chủng loại sản phẩm của nó.
Bảng 1. Đặc tính ô nhiễm của nước thải ngành chế biến cao su
Chỉ tiêu ô nhiễm
Chủng loại sản phẩm
Cao su khối từ mủ nước
Cao su khối từ mủ đông
Cao su tờ
Mủ ly tâm
COD, mg/l
3540
2720
4350
6212
BOD, mg/l
2020
1594
2514
4010
Tổng nitơ , mg/l
95
48
150
565
Amoniac theo N, mg/l
75
40
110
426
Chất rắn lơ lửng, mg/l
114
67
80
122
pH
5.2
5.9
5.1
4.2
Nước thải chế biến cao su thường có pH trong khoảng 4,2-5,2 do việc sử dụng axit để làm đông tụ mủ cao su. Đối với mủ skim, đôi khi nước thải có pH rất thấp (đến pH = 1). Đối với cao su khối được chế biến từ nguyên liệu đông tụ tự nhiên thì nước thải có pH cao hơn (khoảng pH = 6) và tính axit của nó chủ yếu là do các axit béo bay hơi, kết quả của sự phân hủy sinh học các lipid và phospholipid xảy ra trong khi tồn trữ nguyên liệu.
Hơn 90% chất rắn trong nước thải chế biến cao su là chất rắn bay hơi, chứng tỏ bản chất hữu cơ của chúng. Phần lớn chất rắn này là những hạt cao su còn sót lại sau quá trình đông tụ.
Hàm lượng nitơ hữu cơ trong nước thải chế biến cao su thường không cao lắm và có nguồn gốc từ các protein trong mủ cao su. Trong khi đó, hàm lượng nitơ ở dạng amoniac là rất cao, do việc sử dụng amoniac để chống đông tụ mủ cao su trong quá trình thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ mủ, đặc biệt là trong chế biến mủ ly tâm.
Tóm lại, nước thải chế biến cao su có tính chất gây ô nhiễm khá nặng, do chất ô nhiễm hữu cơ và chất dinh dưỡng thực vật.
2. Nguồn gốc các chất gây ô nhiễm trong nước thải chế biến cao su
2.1. Chất làm tiêu hao ôxy
Các chất làm tiêu hao ôxy trong nước thải chế biến cao su hầu hết có nguồn gốc từ mủ nước. Trong mủ nước có khoảng 4,3% là các chất hữu cơ không phải là cao su. Các chất hữu cơ này gồm chủ yếu là các protein, các hyđrat cacbon và các chất béo. Ngoài ra, amoniac và các axit hữu cơ hoặc vô cơ thêm vào trong quá trình bảo quản và chế biến mủ cũng góp phần chủ yếu làm tăng khối lượng các chất làm tiêu hao ôxy trong nước thải.
2.2. Chất dinh dưỡng thực vật
Do mủ cao su có chứa protein và do việc sử dụng amoniac NH3 để bảo quản mủ nước trước khi chế biến, chất dinh dưỡng thực vật chủ yếu có mặt trong nước thải chế biến cao su là nitơ. Hai dạng chủ yếu của nitơ trong nước thải là amoniac và nitơ hữu cơ, mà nitơ hữu cơ sau khi bị phân hủy cũng cho ra amoniac.
Bảng 2. Nguồn gốc chất gây ô nhiễm nước trong nước thải chế biến cao su
Thành phần
Trung bình
% w/w nguyên liệu
Nguồn gốc
Các protein
1,8
Nguyên liệu
Các lipid và phospholipid
0,95
Nguyên liệu
Các carbohydrate
0,9
Nguyên liệu
NH[sub]3[/sub]
0,15
Chế biến
Các axit hữu cơ và vô cơ
0,15
Chế biến
Các axit béo và axit amin tự do
0,22
Nguyên liệu
3. Tình hình áp dụng công nghệ xử lý nước thải trong ngành chế biến cao su
Các công nghệ XLNT đang được áp dụng trong ngành chế biến cao su có thể được chia thành 3 nhóm như dưới đây:
(a) Nhóm các công nghệ được nước ngoàithiết kế
Thuộc nhóm này có 2 hệ thống công nghệ do Mardec Engineering Sdn. Bhd. (Malaysia) thiết kế, hệ thống này gồm [Bể gạn mủ - Hồ kỵ khí - Hồ tùy nghi - Hồ lắng] và hệ thống [Bể gạn mủ - Hồ kỵ khí - Hồ sục khí - Hồ lắng]. Các hệ thống công nghệ này đã được nghiên cứu ứng dụng trong XLNT ngành chế biến cao su của Viện Nghiên cứu Cao su Malaysia (RRIM) vào những năm 1970 và đã được RRIM khuyến cáo áp dụng ở Malaysia vào những năm 1980...
Một hệ thống công nghệ khác do DAMIFA Ltd. (Pháp) phát triển, là hệ thống gồm [Bể gạn mủ - Bể tuyển nổi - Bể thổi khí - Bể lắng - Bể lọc sinh học]. Hệ thống này chưa được nghiên cứu ứng dụng trong ngành chế biến cao su.
(b) Nhóm các công nghệ từkết quả nghiên cứu ứng dụng trong nước
Chỉ có một hệ thống công nghệ đã được nghiên cứu trong nước nhằm mục đích ứng dụng vào XLNT ngành chế biến cao su, là hệ thống gồm [Bể gạn mủ - Bể UASB - Hồ sục khí - Hồ Tùy nghi]. Nghiên cứu này đã được thực hiện vào đầu những năm 1990 do Trung tâm Nước và Môi trường (CEFINEA) kết hợp với Viện Nghiên cứu cao su Việt Nam thực hiện.
(c) Nhóm các công nghệ được các đơn vị trong nước thiết kế
Nhóm các công nghệ này được các đơn vị trong nước tự thiết kế và đã áp dụng để XLNT cho một số lĩnh vực công nghiệp khác nhưng chưa được nghiên cứu ứng dụng trong ngành chế biến cao su. Nhóm này chủ yếu là các hệ thống công nghệ sinh học không bao gồm công đoạn xử lý kỵ khí.
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯU LƯỢNG DÒNG THẢI
Xác định lưu lượng dòng thải là một khâu quan trọng trong qui trình quan trắc nước thải. Việc làm này nhằm xác định cụ thể lưu lượng dòng thải giúp cho việc thiết kế, xây dựng các hệ thống xử lý nước thải thích hợp hoặc tính toán tải lượng của các chất ô nhiễm thải vào môi trường.Để việc đo lưu lượng dòng thải được chính xác, cần phải tiến hành khảo sát sơ bộ để ước tính lưu lượng và khả năng dao động của chúng, xem xét kĩ các chi tiết của hên thống thoát nước. Dựa trên các dữ liệu đó, chúng ta có thể lựa chọn các thiết bị đo phù hợp đặc biệt phải cân nhắc khă năng phù hợp của các thiết bị với tình trạng dòng thải. Ở Viêt Nam, do các hệ thống thoát nước tại mỗi đô thị, mỗi khu công nghiệp, mỗi nhà máy khác nhau thì không giống nhau nên việc khảo sát sơ bộ phải đặc biệt chú ý.
Hiện nay có rất nhiều thiết bị đo lưu lượng khác nhau tùy thuộc vào tính chất của dòng thải, lưu lượng thải, vị trí của cống xả thải và mục đích, yêu cầu độ chính xác.
Có 2 loại lưu lượng chính:
- Lưu lượng thể tích:
Là lượng vật chất tính theo thể tích chuyển động qua tiết diện đang xét trong một đơn vị thời gian.
Qv: là lưu lượng thể tích, m3/h
V: là thể tích của vật chất, m3.
T: là thời gian mà V m3 vật chất chuyển động qua, h (giờ).
- Lưu lượng khối lượng:
Là lượng vật chất tính theo khối lượng chuyển động qua tiết diện dòng đang xét trong một đơn vị thời gian.
Qm = m/T
Qm : là lưu lượng khối lưvật chất, kg/h.
m: là khối lượng vật chất chuyển động qua, kg .
T: là thời gian mà V m3 vật chất chuyển động qua, h (giờ).
II. Khảo sát sơ bộ nguồn thải
Khảo sát sơ bộ nguồn thải là một khâu quan trọng trước khi tiến hành đo lưu lượng.
Việc làm này đặc biệt cần thiết khi đo lưu lượng trong các kênh hở mà khi kênh đầy thì ứng với lưu lượng lớn nhất. Phải khảo sát kĩ để nắm rõ tình hình nhằm chủ động hơn trong việc lựa chọn phương pháp đo, thiết bị đo thích hợp.
Đối với các kênh hở không có áp lực thì lưu lượng dòng thải có thể tính gần đúng dựa vào công thức:
Q = A. v
Trong đó:
Q: lưu lượng thải, m[sup]3[/sup]/s
A: tiết diện ngang, m[sup]2[/sup]
v: vận tốc dòng thải, m/s
Diện tích mặt cắt ngang có thể ước tính dễ dàng: xác định chiều cao H và chiều rộng B của kênh dẫn và A= H.B
Vận tốc của dòng thải được ước tính bằng cách xác định thời gian cần thiết để một chiếc thuyền giấy hoặc mẩu gỗ trôi giữa hai điểm quan sát.
III. Các dụng cụ đo lưu lượng
Cống xả thải có hai loại: có áp suất và không có áp suất nên các dụng cụ đo lưu lượng cũng được thiết sao cho phù hợp.
III.1 Các dụng cụ đo lưu lượng các dòng thải có áp
Các dòng thải có áp là các dòng thải chảy trong các ống kín và lấp đầy ống. Khi nước thải gần như lấp đầy ống thì tiết diện ngang A đã được xác định, như vậy chúng ta chỉ cần đo vận tốc của dòng thải là có thể xác định lưu lượng Q.
Dưới đây là một số phương pháp đo điển hình trong ống có áp suất
III.1.1 Phương pháp đo dựa vào sự thay đổi áp suất (DP)
Là phương pháp đo lưu lượng chất lỏng bằng cách xác định các áp suất khác nhau tại các điểm khác nhau và sự tương quan được biểu diễn dưới dạng căn bặc hai
Các dụng cụ trên đếu sử dụng phương trình Bernoulli để xác định lưu lượng chất lỏng ,dựa vào sự thay đổi áp suất giữa hai đầu của chướng ngại vật trong dòng chảy
Trong các dụng cụ đo dựa vào phương trình Bernoulli, áp suất ở phía sau chướng ngại vật sẽ nhỏ hơn áp suất phía trước.
Phương trình Bernoulli và máy đo lưu lượng.
Giả sử ống dòng nằm ngang (hoặc bỏ qua sự khác nhau về độ cao giữa các điểm đo), phương trình Bernoulli được biễu diễn :
p[sub]1[/sub] +1/2.ρ.v[sub]1[/sub][sup]2[/sup] = p[sub]2[/sub] +1/2 .ρ.v[sub]2[/sub][sup]2[/sup] (1)
pi: áp suất
ρ: khối lượng riêng chất lỏng
vi: vận tốc
Phương trình liên tục: Q = v[sub]1[/sub].A[sub]1[/sub] =v[sub]2[/sub].A[sub]2 [/sub] (2) Q: lưu lượng
A: diện tích
Kết hợp hai phương trình trên ,giả sử A2
Q = A[sub]2[/sub].[2.(p[sub]1[/sub] –p[sub]2[/sub])/ρ.(1-(A[sub]2[/sub]/A[sub]1[/sub])2)]½ (3)
Nếu biết các diện tích A[sub]1[/sub],A[sub]2[/sub] lưu lượng chất lỏng được xác định dựa vào chênh lệch áp suất p1,p2.
Ở phương trình (3) ,lưu lượng q chỉ là lý thuyết ,nó sẽ nhỏ hơn lưu lượng thực tế 2-40% phụ thuộc vào điều kiện đo đạc .
Phương trình (3),có thể được thay đổi với hệ số Cd
Q = C[sub]d[/sub] A[sub]2[/sub][2*(p[sub]1[/sub] –p[sub]2[/sub])/ρ*(1-(A[sub]2[/sub]/A[sub]1[/sub])[sup]2[/sup])]½ (3’)
Cd: discharge coefficient
Phương trình (3’) ↔ Q = C[sub]d[/sub].П/4.D[sub]2[/sub][sup]2[/sup].[2.(p[sub]1[/sub]-p[sub]2[/sub])/ρ.(1-d[sup]4[/sup])]½
D[sub]1[/sub]: đường kính của ống
D[sub]2[/sub]: đường kính trong của các dụng cụ đo
d: D[sub]2[/sub]/D[sub]1[/sub]:tỉ lệ đường kính
Đo lưu lượng dựa vào sự khác biệt về áp suất là một phương pháp phổ biến ,hơn 50% các dụng cụ đo lưu lượng dựa vào phương pháp này,
Nguyên tắc vận hành dựa vào giả thiết sự giảm áp suất khi chất lỏng đi qua máy đo tương ứng với diện tích dòng chảy ;
Các máy đo lưu lượng dựa vào nguyên tắc này cũng như phần lớn thiết bị đo lưu lượng đều có hai bộ phận: bộ phận sơ cấp và bộ phận thứ cấp: gây ra sự biến đổi về động lực để tạo ra sự khác biệt về áp suất ở trong ống dẫn phù hợp với kích thước ống dẫn ,điều kiện dòng chảy ,tính chất của chất lỏng và đo chính xác trong một giới hạn cho phép.
- Orifice plate
Hình dạng của lỗ rất khác nhau: hình tròn ,oval ,bán nguyệt hay hình côn
Khi đo đạc ,nó được lắp đặt ở rong ống dẫn nước ,đóng vai trò là một bộ phận sơ cấp ,sẽ cản trở dòng chảy để tạo ra sự khác biệt về áp suất khi chất lỏng đi qua .Ống thông nhau đặt ở hai phía của đĩa để xác định sự chênh lệch áp suất
Sự tiện lợi của dụng cụ này :không có những phần chuyển động và chi phí không phụ thuộc vào kích thước ống dẫn
Các thiết bị này để đo chất lỏng với hệ số Reynold thấp
Những đĩa có lỗ hình côn có dòng vào nghiêng ,độ sâu và góc của nó phải được xác định
Đĩa có lỗ hình bán nguyệt dùng để đo lưu lượng của chất lỏng có chứa các loại chất rắn với hệ số Reynold thấp .Lưu lượng của chất lỏng vẫn tương quan với sự giảm áp suất bằng quan hệ căn bậc hai .Nó rất đơn giản và chỉ có một kích thước lỗ xác định .Mức giảm áp lực khi qua thiết bị này chi bằng một nữa các đĩa truyền thống.
- Venturi
</h2> <h2> Flow through a Venturi Tube</h2>
Có thể đo được lưu lượng lớn chất lỏng với mức giảm áp lực thấp .Nó là một ống có đầu vào nhỏ dần và sau đó là một đoạn thẳng .Khi chất lỏng đi qua phần nhỏ dần ,vận tốc của nó sẽ tăng lên và áp suất sẽ giảm .Sau đoạn ống thẳng ,vận tốc sẽ giảm dần và áp suất sẽ tăng .Ta sẽ đo áp suất tại hai điểm: một điểm ở trước đoạn thu hẹp và một điểm ở sau đoạn ống thẳng tức là trước khi ống được mở rộng.
Kênh venturi được sử dụng rộng rãi vì không có những phần động và cản trở dòng chảy không lớn nên gây ra tổn thất áp lực nhỏ không ảnh hưởng đến dòng chảy .
Vì vậy, kênh venturi có thể đo lưu lượng chất lỏng lớn hơn rất nhiều loại dung cụ đo lưu lượng khác
III.1.2. Đo lưu lượng bằng phương pháp cảm ứng từ
Các loại máy đo theo nguyên tắc này có một vai trò quan trọng trong các hệ thống ống cống đặc biệt là phải choáng đầy ống và lưu lượng dòng chảy lớn.
Nguyên tắc của phương pháp này là dựa vào định luật cảm ứng từ của Faraday .
Một dung dịch được dẫn qua một vùng từ ( dung dịch này có khả năng dẫn được điện) , sự vận động của các phần tử trong dung dịch làm cho lượng từ thông gửi qua một cuộn dây bị biến đổi do đó trong dây sẽ xuất hiện một suất điện động cảm ứng . Suất điện động này tỉ lệ với vận tốc dòng chảy trung bình và độ lớn của vùng từ : E ~ v
Suất điện động được xác định theo công thức sau : U[sub]e[/sub]= B.L.v
U[sub]e[/sub] là sức điện động cảm ứng .
B : hằng số cảm ứng từ (Vs/m[sub][/sub][sup]2[/sup] ); L: khoảng cách giữa 2 điện cực (m) ; v : vận tốc dòng chảy trung bình (m/s)
Độ lớn của vùng từ cũng như khoảng cách giữa các điện cực luôn cố định do đó dòng điện cảm ứng sẽ tỉ lệ trực tiếp với vận tốc dòng chảy . Một bộ phận đo sức điện động sinh ra ở giữa hai cực , xác định được giá trị này ta sẽ tính được lưu lượng dòng chảy theo công thức sau:
Q = (П.L[sup]2[/sup]/4)v ( m[sup]3[/sup]/s)
-Thuận lợi:
+ tính chính xác cao và ít thay đổi
+ đường kính có thể thay đổi trong khoảng 25mm – 1200 mm
+ không phụ thuộc vào áp suất và nhiệt độ
+ có thể điều chỉnh được
-Khó khăn :
+ điện cực nhạy với dầu mỡ
+ chi phí lắp đặt cao
+ vận tốc nhỏ nhất là 1m/s
Một minh họa về máy đo lưu lượng theo nguyên tắc cảm ứng từ : máy đo lưu lượng turbin ( turbin flowmeter)
Thành phần cơ bản của máy này là một rotor turbin có dạng hình quạt được lắp đặt trong ống dòng chảy . Loại máy đo này là 1 máy biến năng , nó cảm ứng động lượng của dòng chảy . Khi chất lỏng đi qua máy sẽ làm quay cánh quạt , cánh quạt quay sẽ làm biến thiên từ thông qua một vòng dây làm sinh ra một xung điện trong vòng dây .Mỗi xung sinh ra sẽ ứng với một lượng chất lỏng đi qua máy .
Nếu ta chia số xung sinh ra cho một lượng chất lỏng nào đó ta sẽ được tham số K . Một bộ phận trong máy sẽ tính lượng xung sinh ra khi chất lỏng đi qua trong một đơn vị thời gian và nó sẽ lấy số xung này chia cho K và cho ta kết quả là lưu lượng đi qua máy .
III.1.3. Đo lưu lượng bằng phương pháp siêu âm
Nguyên tắc : sóng tín hiệu đã biết tần số được truyền từ một thiết bị phát đi xuyên qua dung dịch cần đo một thiết bị nhận ( chúng được lắp ở hai bên ống ) . Do gặp phải sự cản trở cản trở của dung dịch , hay bóng khí là cho tín hiệu bị phản xạ trở lại . Tín hiệu lúc này đã bị thay đổi , sự thay đổi này tỉ lệ với vận tốc của dung dịch.
Người ta thường phân thành hai loại công nghệ là clamp – on technology và insertion technology
Theo nguyên tắc này thì có một số loại sau:
+ Máy đo dựa vào thời gian truyền sóng siêu âm (Ultrasonic Transit-Time Method)
+ Máy đo dựa vào sự chênh lệch giữa các pha siêu âm (Ultrasonic Phase Difference Measurement)
+ Máy đo theo phương pháp siêu âm Doppler (Ultrasonic Doppler Method)
+ Máy đo theo phương pháp xung siêu âm Doppler(Ultrasonic Pulse Doppler Method)
-Thuận lợi :
+ dễ tháo lắp ( công nghệ clamp- on )
+ không nhạy cảm với các loại nước thải chứa dầu mỡ
- Khó khăn :
+ không chính xác khi chất rắn trong dung dịch lớn
+ đối với công nghệ clamp- on thì sai số sẽ lớn khi thành ống bị đóng cặn và công nghệ này đòi hỏi bề ngoài của ống phải đồng nhất .
Trường hợp máy đo dựa vào thời gian truyền âm
Máy đo theo nguyên tắc này có hai bộ phận truyền và nhận tín hiệu nằm trong dung dịch ( như hình vẽ trên) . Bộ phận truyền âm thứ nhất truyền âm sang bộ phận thứ hai lúc này nó sẽ cùng chiều với dòng chảy do đó thời gian đi của nó đến bộ phận thứ hai sẽ nhanh hơn so với thời gian mà bộ phận thứ hai truyền ngược lại cho nó . Sự chênh lệch về thời gian này được dùng để tính vận tốc trung bình theo công thức sau:
V[sub]m [/sub]: vận tốc trung bình ; V[sub]R [/sub]: vận tốc truyền âm trong môi trường tĩnh
α : góc hợp giữa đường truyền âm và phương của dòng chảy
L : khoảng cách giữa hai bộ truyền âm ; t[sub]2[/sub] – t[sub]1 [/sub]: là độ chênh lệch về thời gian giữa hai chiều
Từ giá trị của vận tốc ta xác định được lưu lượng.
Một số hình ảnh :
Một minh họa về máy đo lưu lượng theo nguyên tắc cảm ứng từ : máy đo lưu lượng turbin ( turbin flowmeter)
Thành phần cơ bản của máy này là một rotor turbin có dạng hình quạt được lắp đặt trong ống dòng chảy . Loại máy đo này là 1 máy biến năng , nó cảm ứng động lượng của dòng chảy . Khi chất lỏng đi qua máy sẽ làm quay cánh quạt , cánh quạt quay sẽ làm biến thiên từ thông qua một vòng dây làm sinh ra một xung điện trong vòng dây .Mỗi xung sinh ra sẽ ứng với một lượng chất lỏng đi qua máy .
Nếu ta chia số xung sinh ra cho một lượng chất lỏng nào đó ta sẽ được tham số K . Một bộ phận trong máy sẽ tính lượng xung sinh ra khi chất lỏng đi qua trong một đơn vị thời gian và nó sẽ lấy số xung này chia cho K và cho ta kết quả là lưu lượng đi qua máy
Khi đo lưu lượng các dòng thải có áp cần chú ý các điểm sau:
- Đảm bảo cống thải luôn đầy nước
- Vận tốc nước thải chảy qua tiết diện ngang của cống thải phải đều nhau.
CÁC HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Tác giả: Lê Hoàng Việt
Trong bài này chúng tôi muốn giới thiệu với các bạn các trang web của Đại Học Catolica, Bồ Đào Nha về xử lý nước thải. Các trang web này trình bày tóm tắt các công đoạn xử lý nước thải gia dụng và công nghiệp, đồng thời giới thiệu địa chỉ các trang web của các trường Đại Học khác có chứa thông tin về lĩnh vực này.Nước thải từ các hoạt động khác nhau của con người (sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp) không còn được thải thẳng ra môi trường mà phải qua xử lý. Việc xử lý bao gồm một chuỗi các quá trình lý học, hóa học và sinh học. Các quá trình này nhằm thúc đẩy việc xử lý, cải thiện chất lượng nước thải sau xử lý để có thể sử dụng lại chúng hoặc thải ra môi trường với các ảnh hưởng nhỏ nhất.
Việc xử lý được tiến hành qua các công đoạn sau:
- Điều lưu và trung hòa
- Keo tụ, tạo bông cặn và kết tủa
- Tuyển nổi
- Xử lý sinh học hiếu khí
- Lắng
- Xử lý cấp 3 (Lọc, hấp phụ, trao đổi ion)
Điều lưu
Điều lưu là quá trình giảm thiểu hoặc kiểm soát các biến động về đặc tính của nước thải nhằm tạo điều kiện tối ưu cho các quá trình xử lý kế tiếp. Quá trình điều lưu được tiến hành bằng cách trữ nước thải lại trong một bể lớn, sau đó bơm định lượng chúng vào các bể xử lý kế tiếp.Quá trình điều lưu được sử dụng để:
- Điều chỉnh sự biến thiên về lưu lượng của nước thải theo từng giờ trong ngày.
- Tránh sự biến động về hàm lượng chất hữu cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động của vi khuẩn trong các bể xử lý sinh học.
- Kiểm soát pH của nước thải để tạo điều kiện tối ưu cho các quá trình sinh học, hóa học sau đó.
Bể điều lưu còn là nơi cố định các độc chất đối với quá trình xử lý sinh học làm cho hiệu suất của quá trình này tốt hơn.
Trung hoà
Nước thải thường có pH không thích hợp cho các quá trình xử lý sinh học hoặc thải ra môi trường, do đó nó cần phải được trung hòa. Có nhiều cách để tiến hành quá trình trung hòa:- Trộn lẫn nước thải có pH acid và nước thải có pH bazơ. Bằng cách trộn lẫn hai loại nước thải có pH khác nhau, chúng ta có thể đạt được mục đích trung hòa. Quá trình này đòi hỏi bể điều lưu đủ lớn để chứa nước thải.
- Trung hòa nước thải acid: người ta thường cho nước thải có pH acid chảy qua một lớp đá vôi để trung hoà; hoặc cho dung dịch vôi vào nước thải, sau đó vôi được tách ra bằng quá trình lắng.
- Trung hòa nước thải kiềm: bằng các acid mạnh (lưu ý đến tính kinh tế). CO2 cũng có thể dùng để trung hòa nước thải kiềm, khi sục CO2 vào nước thải, nó tạo thành acid carbonic và trung hòa với nước thải.
KEO TỤ VÀ TẠO BÔNG CẶN
Hai quá trình hóa học này kết tụ các chất rắn lơ lửng và các hạt keo để tạo nên những hạt có kích thước lớn hơn. Nước thải có chứa các hạt keo có mang điện tích (thường là điện tích âm). Chính điện tích của nó ngăn cản không cho nó va chạm và kết hợp lại với nhau làm cho dung dịch được giữ ở trạng thái ổn định. Việc cho thêm vào nước thải một số hóa chất (phèn, ferrous chloride...) làm cho dung dịch mất tính ổn định và gia tăng sự kết hợp giữa các hạt để tạo thành những bông cặn đủ lớn để có thể loại bỏ bằng quá trình lọc hay lắng cặn.
Các chất keo tụ thường được sử dụng là muối sắt hay nhôm có hóa trị 3.
Các chất tạo bông cặn thường được sử dụng là các chất hữu cơ cao phân tử như polyacrilamid. Việc kết hợp sử dụng các chất hữu cơ cao phân tử với các muối vô cơ cải thiện đáng kể khả năng tạo bông cặn.
KẾT TỦA
Kết tủa là phương pháp thông dụng nhất để loại bỏ các kim loại nặng ra khỏi nước thải. Thường các kim loại nặng được kết tủa dưới dạng hydroxide. Do đó, để hoàn thành quá trình này người ta thường cho thêm các base vào nước thải để cho nước thải đạt đến pH mà các kim loại nặng cần phải loại bỏ có khả năng hòa tan thấp nhất. Thường trước quá trình kết tủa, người ta cần loại bỏ các chất ô nhiễm khác có khả năng làm cản trở quá trình kết tủa. Quá trình kết tủa cũng được dùng để khử phosphate trong nước thải.TUYỂN NỔI
Quá trình này dùng để loại bỏ các chất có khả năng nổi trên mặt nước thải như dầu, mỡ, chất rắn lơ lửng. Trong bể tuyển nổi người ta còn kết hợp để cô đặc và loại bỏ bùn.Đầu tiên nước thải, hay một phần của nước thải được tạo áp suất với sự hiện diện của một lượng không khí đủ lớn. Khi nước thải này được trả về áp suất tự nhiên của khí quyển, nó sẽ tạo nên những bọt khí. Các hạt dầu, mỡ và các chất rắn lơ lửng sẽ kết dính với các bọt khí và với nhau để nổi lên trên và bị một thanh gạt tách chúng ra khỏi nước thải.
LẮNG
Quá trình lắng áp dụng sự khác nhau về tỉ trọng của nước, chất rắn lơ lửng và các chất ô nhiễm khác trong nước thải để loại chúng ra khỏi nước thải. Đây là một phương pháp quan trọng để loại bỏ các chất rắn lơ lửng.
Bể lắng thường có dạng chữ nhật hoặc hình tròn.
Đối với dạng bể lắng hình chữ nhật ở đáy bể có thiết kế thanh gạt bùn theo chiều ngang của bể, thanh gạt này chuyển động về phía đầu vào của nước thải và gom bùn về một hố nhỏ ở đây, sau đó bùn được thải ra ngoài.
Có hai loại bể lắng hình tròn:
- Loại 1 nước thải được đưa vào bể ở tâm của bể và lấy ra ở thành bể
- Loại 2 nước thải được đưa vào ở thành bể và lấy ra ở tâm bể.
Quá trình lắng còn có thể kết hợp với quá trình tạo bông cặn hay đưa thêm vào một số hóa chất để cải thiện rõ nét hiệu suất lắng.
XỬ LÝ SINH HỌC HIẾU KHÍ
Phần lớn các chất hữu cơ trong nước thải bị phân hủy bởi quá trình sinh học. Trong quá trình xử lý sinh học các vi sinh vật sẽ sử dụng oxy để phân hủy chất hữu cơ và quá trình sinh trưởng của chúng tăng nhanh. Ngoài chất hữu cơ (hiện diện trong nước thải), oxygen (do ta cung cấp) quá trình sinh học còn bị hạn chế bởi một số chất dinh dưỡng khác. Ngoại trừ nitơ và phospho, các chất khác hiện diện trong chất thải với hàm lượng đủ cho quá trình xử lý sinh học. Nước thải sinh hoạt chứa các chất này với một tỉ lệ thích hợp cho quá trình xử lý sinh học. Một số loại nước thải công nghiệp như nước thải nhà máy giấy có hàm lượng carbon cao nhưng lại thiếu phospho và nitơ, do đó cần bổ sung hai nguồn này để vi khuẩn hoạt động có hiệu quả. Những yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình xử lý sinh học là nhiệt độ, pH và các độc tố.
Có nhiều thiết kế khác nhau cho bể xử lý sinh học hiếu khí, nhưng loại thường dùng nhất là bể bùn hoạt tính, nguyên tắc của bể này là vi khuẩn phân hủy các chất hữu cơ trong nước thải và sau đó tạo thành các bông cặn đủ lớn để tiến hành quá trình lắng dễ dàng. Sau đó các bông cặn được tách ra khỏi nước thải bằng quá trình lắng cơ học. Như vậy một hệ thống xử lý bùn hoạt tính bao gồm: một bể bùn hoạt tính và một bể lắng.
SỤC KHÍ
Quá trình sục khí không những cung cấp oxy cho vi khuẩn hoạt động để phân hủy chất hữu cơ, nó còn giúp cho việc việc khử sắt, magnesium, kích thích quá trình oxy hóa hóa học các chất hữu cơ khó phân hủy bằng con đường sinh học và tạo lượng DO đạt yêu cầu để thải ra môi trường. Có nhiều cách để hoàn thành quá trình sục khí: bằng con đường khuếch tán khí hoặc khuấy đảo.
XỬ LÝ CẤP 3
Lọc: quá trình lọc nhằm loại bỏ các chất rắn lơ lửng hoặc các bông cặn (từ quá trình keo tụ hoặc tạo bông cặn), bể lọc còn nhằm mục đích khử bớt nước của bùn lấy ra từ các bể lắng. Quá trình lọc dựa trên nguyên tắc chủ yếu là khi nước thải đi qua một lớp vật liệu có lổ rỗng, các chất rắn có kích thước lớn hơn các lổ rỗng sẽ bị giữ lại. Có nhiều loại bể lọc khác nhau nhưng ít có loại nào sử dụng tốt cho quá trình xử lý nước thải. Hai loại thường sử dụng trong quá trình xử lý nước thải là bề lọc cát và trống quay.Hấp phụ: quá trình hấp phụ thường được dùng để loại bỏ các mảnh hữu cơ nhỏ trong nước thải công nghiệp (loại này rất khó loại bỏ bằng quá trình xử lý sinh học). Nguyên tắc chủ yếu của quá trình là bề mặt của các chất rắn (sử dụng làm chất hấp phụ) khi tiếp xúc với nước thải có khả năng giữ lại các chất hòa tan trong nước thải trên bề mặt của nó do sự khác nhau của sức căng bề mặt. Chất hấp phụ thường được sử dụng là than hoạt tính (dạng hạt). Tùy theo đặc tính của nước thải mà chúng ta chọn loại than hoạt tính tương ứng. Quá trình hấp phụ có hiệu quả trong việc khử COD, màu phenol... Than hoạt tính sau một thời gian sử dụng sẽ bảo hòa và mất khả năng hấp phụ, chúng ta có thể tái sinh chúng lại bằng các biện pháp tách các chất bị hấp phụ ra khỏi than hoạt tính thông qua: nhiệt, hơi nước, acid, base, ly trích bằng dung môi hoặc oxy hóa hóa học.
Trao đổi ion: trao đổi ion là quá trình ứng dụng nguyên tắc trao đổi ion thuận nghịch của chất rắn và chất lỏng mà không làm thay đổi cấu trúc của chất rắn. Quá trình này ứng dụng để loại bỏ các cation và anion trong nước thải. Các cation sẽ trao đổi với ion hydrogen hay sodium, các anion sẽ trao đổi với ion hydroxyl của nhựa trao đổi ion.
Hầu hết các loại nhựa trao đổi ion là các hợp chất tổng hợp. Nó là các chất hữu cơ hoặc vô cơ cao phân tử đính kết với các nhóm chức. Các nhựa trao đổi ion dùng trong xử lý nước thải là các hợp chất hữu cơ cao phân tử có cấu trúc không gian 3 chiều và có lổ rỗng. Các nhóm chức được đính vào cấu trúc cao phân tử bằng cách cho hợp chất này phản ứng với các hóa chất chứa nhóm chức thích hợp. Khả năng trao đổi ion được tính bằng số nhóm chức trên một đơn vị trọng lượng nhựa trao đổi ion. Hoạt động và hiệu quả kinh tế của phương pháp này phụ thuộc vào khả năng trao đổi ion và lượng chất tái sinh cần sử dụng. Nước thải được cho chảy qua nhựa trao đổi ion cho tới khi các chất ion cần loại bỏ biến mất. Khi nhựa trao đổi ion đã hết khả năng trao đổi ion, nó sẽ được tái sinh lại bằng các chất tái sinh thích hợp. Sau quá trình tái sinh các chất tái sinh sẽ được rửa đi bằng nước và bây giờ nhựa trao đổi ion đã sẳn sàng để sử dụng cho chu trình kế.MÔ HÌNH XỬ LÝ NƯỚC THẢI TẠI CHỖ VÀ PHÂN TÁN ÁP DỤNG CHO CÁC KHU DÂN CƯ, DU LỊCH VÀ ĐÔ THỊ
Gần đây, trên thế giới đã hình thành một phương thức tiếp cận mới trong vệ sinh môi trường, đảm bảo sự cân bằng và phù hợp giữa nhu cầu và khả năng, dựa trên sự phát huy tối đa vai trò của người sử dụng dịch vụ vệ sinh, bao gồm cả thoát nước, xử lý nước thải. Đó là mô hình "Vệ sinh môi trường với gia đình là trung tâm". Mô hình này dựa trên hai nguyên tắc:
- Giảm tối thiểu đầu vào của nguồn phát sinh chất thải (nước, vật dụng, phế thải,...) và giảm thiểu chất thải đầu ra (nước thải, chất thải rắn,...);
- Giải quyết các vấn đề vệ sinh môi trường càng gần nguồn thải càng tốt.
Theo mô hình này, các phương án thoát nước và xử lý nước thải có thể thuộc một trong ba nhóm chính sau hoặc kết hợp:
- Hệ thống xử lý tại chỗ: chất thải được xử lý ngay tại nơi phát sinh;
- Hệ thống xử lý tập trung, sử dụng hệ thống thoát nước rẻ tiền và đơn giản;
- Hệ thống phân tán, nước thải được làm sạch tại các trạm xử lý nhỏ, phân tán, đặt gần nơi phát sinh nguồn nước thải, và sau đó nước thải được sử dụng lại hoặc xả vào nguồn tiếp nhận hay hệ thống thoát nước mưa mà không đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống thoát nước lớn, tốn kém. Chất thải rắn thu được sau xử lý cũng được sử dụng lại làm phân bón.
Cách tiếp cận này, xuất phát từ quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu của con người với môi trường, với những dịch vụ vệ sinh không tốn kém, phù hợp với khả năng của người tiêu dùng có thu nhập thấp, có thể được coi như một công cụ định hướng chiến lược cho quy hoạch, cải thiện các dịch vụ vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, ở mỗi nước, mỗi khu vực lại phải có những nghiên cứu cụ thể, nhằm đưa ra được những giải pháp phù hợp.
Việt Nam hiện có 684 đô thị. Tình hình cơ sở kỹ thuật hạ tầng trong đó có thoát nước và vệ sinh đô thị còn ở tình trạng rất yếu kém. Ở hầu hết các đô thị, tình trạng úng ngập thường xuyên xẩy ra. Chỉ trừ một số ít hộ gia đình có xây dựng nhà vệ sinh với xí tự hoại, còn lại hầu hết nước thải sinh hoạt từ các hộ gia đình đều không được xử lý mà xả trực tiếp ra mạng lưới cống thoát nước chung rồi sau đó chảy vào các nguồn tiếp nhận, kênh mương ao hồ tự nhiên. Kết quả dẫn đến tình trạng quá tải, vượt quá khả năng tự làm sạch của sông hồ và gây ô nhiễm môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ tác động trực tiếp tới sức khỏe cộng đồng, tới tài nguyên sinh thái, làm mất giá trị cảnh quan, thưởng ngoạn du lịch, thể thao, vui chơi giải trí,...
Thực tế cho thấy, nếu giải quyết theo kiểu thoát nước và xử lý tập trung thì rất tốn kém, đòi hỏi lượng kinh phí khổng lồ và không khả thi, đồng thời không đạt được mục đích yêu cầu đề ra.
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào hạ được chi phí đầu tư, vận hành của hệ thống thoát nước và xử lý nước thải để có thể chấp nhận được, mà vẫn giải quyết được vấn đề vệ sinh môi trường đô thị. Đề tài "Nghiên cứu các mô hình thoát nước và xử lý nước thải sinh hoạt theo kiểu phân tán cho các đô thị loại III - loại V của Việt Nam" được đặt ra để hướng tới giải quyết những mâu thuẫn đó.
II. MỘT SỐ MÔ HÌNH TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Bể tự hoại cải tiến (BASTAF)
BASTAF là bể phản ứng kỵ khí với các vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí dòng hướng lên, có chức năng xử lý nước thải sinh hoạt và các loại nước thải khác có thành phần tính chất tương tự như nước thải sinh hoạt (xem hình 1).
Quy trình công nghệ, thiết bị của BASTAF:
Nguyên tắc, nước thải được đưa vào ngăn thứ nhất của bể, có vai trò làm ngăn lắng - lên men kỵ khí, đồng thời điều hòa lưu lượng và nồng độ chất bẩn trong dòng nước thải. Nhờ các vách ngăn hướng dòng, ở những ngăn tiếp theo, nước thải chuyển động theo chiều từ dưới lên trên, tiếp xúc với các vi sinh vật kỵ khí trong lớp bùn hình thành ở đáy bể trong điều kiện động, các chất bẩn hữu cơ được các vi sinh vật hấp thụ và chuyển hóa, đồng thời, cho phép tách riêng 2 pha (lên men axit và lên men kiềm). BASTAF cho phép tăng thời gian lưu bùn, nhờ vậy hiệu suất xử lý tăng trong khi lượng bùn cần xử lý lại giảm. Các ngăn cuối cùng là ngăn lọc kỵ khí, có tác dụng làm sạch bổ sung nước thải, nhờ các vi sinh vật kỵ khí gắn bám trên bề mặt các hạt của lớp vật liệu lọc, và ngăn cặn lơ lửng trôi ra theo nước.
- Tiêu chuẩn đạt được: Sử dụng bể BASTAF để xử lý nước thải sinh hoạt cho phép đạt hiệu suất tốt, ổn định (Hiệu suất xử lý trung bình theo hàm lượng cặn lơ lửng SS, nhu cầu oxy hóa học COD, nhu cầu oxy sinh hóa BOD5 từ 70 - 75%). So với các bể tự hoại thông thường trong điều kiện làm việc tốt, BASTAF có hiệu suất xử lý cao hơn gấp 2 - 3 lần. Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn theo TCVN 5945-1995 (Tiêu chuẩn thải, nước thải công nghiệp), TCVN 6772-2000 (Chất lượng nước - Nước thải sinh hoạt - Giới hạn ô nhiễm cho phép), TCVN 6980-2001 đến 6987-2001 tùy thuộc loại nguồn tiếp nhận nước thải.
Các lĩnh vực có thể áp dụng:
- Có thể được sử dụng thay cho các bể tự hoại thông thường, hoặc xử lý bổ sung sau các bể tự hoại sẵn có.
- Xử lý nước thải sinh hoạt từ các hộ hay nhóm hộ gia đình, khu chung cư, nhà cao tầng, biệt thự, khách sạn, nhà công cộng như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, văn phòng làm việc,...
- Xử lý nước thải có tỷ lệ các chất hữu cơ cao như nước thải công nghiệp thực phẩm, nước thải từ các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm,...
Ưu điểm của công nghệ, thiết bị:
- Bể BASTAF có cơ chế vận hành đơn giản, hiệu suất xử lý cao và ổn định.
- Chi phí đầu tư xây dựng thấp. Không tốn chi phí vận hành, do không sử dụng điện năng, hóa chất, vv...
- Lĩnh vực áp dụng rộng.
Hiện nay BASTAF đã được áp dụng để sản xuất ở quy mô công nghiệp, làng nghề, quy mô các hộ gia đình.
Yêu cầu kỹ thuật trong lắp đặt, vận hành đơn giản, tương đương với việc lắp đặt, vận hành các bể tự hoại (bể phốt) thông thường.
2. Trạm xử lý nước thải quy mô nhỏ hợp khối (AFSB - 100)
Quy trình công nghệ/thiết bị của AFSB-100
- Nguyên tắc: Nước thải được đưa vào ngăn thu của trạm bơm nước thải, đồng thời được điều hòa về lưu lượng và nồng độ chất bẩn trong nước thải, từ đó được bơm sang ngăn lắng, nơi tách các tạp chất rắn không tan. Dòng nước thải từ máng thu của ngăn lắng tự chảy sang ống phân phối trung tâm của các ngăn xử lý kỵ khí, nơi có các vật liệu mang (sản phẩm thân môi trường, được sản xuất từ vật liệu tái chế) đóng vai trò giá thể cho các vi sinh vật kỵ khí dính bám, được làm sạch một phần, đồng thời giữ cho tải trọng (đã được giảm đáng kể) lên các ngăn xử lý hiếu khí phía sau ổn định. Các ngăn xử lý hiếu khí (nhờ oxy cấp từ máy nén khí), với giá thể vi sinh ngập nước, sẽ tiếp tục xử lý các chất bẩn còn lại trong nước thải nhờ các vi sinh vật hiếu khí dính bám. Bùn - màng vi sinh vật bong ra sẽ được tách khỏi nước thải đã qua xử lý trong bể lắng đợt 2. Nước thải được khử trùng rồi xả ra nguồn. Bùn được ổn định trong ngăn chứa - phân huỷ bùn, sau đó được bơm đi tiếp tục xử lý, làm khô và/hoặc chở ra bãi chôn lấp theo quy định. Dòng nước thải và bùn tuần hoàn bằng bơm đặt trong gian máy, giúp cho ổn định bùn và loại bỏ các chất dinh dưỡng trong nước thải (tránh gây phú dưỡng nguồn nước), đồng thời duy trì chế độ làm việc đặc biệt của trạm khi cần thiết.
- Tiêu chuẩn đạt được: Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn cột A theo TCVN 5945-1995 (Tiêu chuẩn thải, nước thải công nghiệp) hay mức I theo TCVN 6772-2000 (Chất lượng nước - Nước thải sinh hoạt - Giới hạn ô nhiễm cho phép), TCVN 6980-2001 đến 6987-2001.
Các lĩnh vực có thể áp dụng:
-Xử lý nước thải sinh hoạt từ các nhóm hộ gia đình, khu chung cư, các tòa nhà cao tầng, khu biệt thự, các khách sạn, các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, nhà ăn; xử lý nước thải cho các đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ, v.v...
-Xử lý nước thải công nghiệp có thành phần, tính chất gần giống nước thải sinh hoạt hoặc nước thải công nghiệp có tỷ lệ chất hữu cơ cao, như công nghiệp chế biến thực phẩm, nước thải sinh hoạt của công nhân trong các khu công nghiệp, nước thải từ các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm,...
- Công suất 50 - 5.000 m3 nước thải/ngày đêm (hoặc phục vụ 500 - 50.000 dân).
Ưu điểm của công nghệ, thiết bị:
- Có hiệu suất xử lý cao và ổn định, cơ chế vận hành đơn giản.
- Chi phí đầu tư xây dựng thấp. Chi phí vận hành hợp lý.
- Gọn, yêu cầu diện tích ít. Tránh được mùi, đảm bảo mỹ quan.
- Lĩnh vực áp dụng rộng.
Mức độ phát triển:
Hiện đã sử dụng để sản xuất ở quy mô công nghiệp, đã được áp dụng cho khu du lịch Cát Bà và được giải thưởng tại Chợ công nghệ Techmart 2003 tại Hà Nội .
<h1>III. KẾT LUẬN</h1> Xu hướng hiện nay trên thế giới là các công trình, thiết bị xử lý nước thải càng gần nguồn phát sinh thì càng kinh tế mà vẫn đảm bảo chất lượng môi trường. Vì vậy những mô hình được giới thiệu ở đây là những mô hình rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam, không chỉ đối với khu dân cư đô thị, khu du lịch mà có thể áp dụng cả ở những vùng nông thôn.
GS. TS. TRẦN HIẾU NHUỆ
TS. NGUYỄN VIỆT ANH
Trung tâm Kỹ thuật Môi trường
Đô thị và Khu công nghiệp (CEETIA)
<h1>I. ĐẶT VẤN ĐỀ</h1> Ngày nay, vấn đề vệ sinh môi trường là một trong những mối quan tâm hàng đầu của những nhà quản lý môi trường đô thị trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ngay cả ở các nước công nghiệp phát triển cũng gặp phải nhiều khó khăn về độ ổn định và bền vững. Bên cạnh đó, chi phí vận hành những hệ thống này thường cao, tiêu thụ nhiều năng lượng không phục hồi được. Các chất dinh dưỡng có giá trị như Nitơ, Phốt pho... bị thải bỏ. Những nghiên cứu khoa học gần đây cũng cho thấy lượng các chất hóa học và hoóc môn ngày càng được sử dụng nhiều trong sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,... bị thải ra môi trường từ các trạm xử lý tập trung, có thể gây nên những hậu quả lâu dài và khó lường trước đối với con người và môi trường xung quanh.Gần đây, trên thế giới đã hình thành một phương thức tiếp cận mới trong vệ sinh môi trường, đảm bảo sự cân bằng và phù hợp giữa nhu cầu và khả năng, dựa trên sự phát huy tối đa vai trò của người sử dụng dịch vụ vệ sinh, bao gồm cả thoát nước, xử lý nước thải. Đó là mô hình "Vệ sinh môi trường với gia đình là trung tâm". Mô hình này dựa trên hai nguyên tắc:
- Giảm tối thiểu đầu vào của nguồn phát sinh chất thải (nước, vật dụng, phế thải,...) và giảm thiểu chất thải đầu ra (nước thải, chất thải rắn,...);
- Giải quyết các vấn đề vệ sinh môi trường càng gần nguồn thải càng tốt.
Theo mô hình này, các phương án thoát nước và xử lý nước thải có thể thuộc một trong ba nhóm chính sau hoặc kết hợp:
- Hệ thống xử lý tại chỗ: chất thải được xử lý ngay tại nơi phát sinh;
- Hệ thống xử lý tập trung, sử dụng hệ thống thoát nước rẻ tiền và đơn giản;
- Hệ thống phân tán, nước thải được làm sạch tại các trạm xử lý nhỏ, phân tán, đặt gần nơi phát sinh nguồn nước thải, và sau đó nước thải được sử dụng lại hoặc xả vào nguồn tiếp nhận hay hệ thống thoát nước mưa mà không đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống thoát nước lớn, tốn kém. Chất thải rắn thu được sau xử lý cũng được sử dụng lại làm phân bón.
Cách tiếp cận này, xuất phát từ quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu của con người với môi trường, với những dịch vụ vệ sinh không tốn kém, phù hợp với khả năng của người tiêu dùng có thu nhập thấp, có thể được coi như một công cụ định hướng chiến lược cho quy hoạch, cải thiện các dịch vụ vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, ở mỗi nước, mỗi khu vực lại phải có những nghiên cứu cụ thể, nhằm đưa ra được những giải pháp phù hợp.
Việt Nam hiện có 684 đô thị. Tình hình cơ sở kỹ thuật hạ tầng trong đó có thoát nước và vệ sinh đô thị còn ở tình trạng rất yếu kém. Ở hầu hết các đô thị, tình trạng úng ngập thường xuyên xẩy ra. Chỉ trừ một số ít hộ gia đình có xây dựng nhà vệ sinh với xí tự hoại, còn lại hầu hết nước thải sinh hoạt từ các hộ gia đình đều không được xử lý mà xả trực tiếp ra mạng lưới cống thoát nước chung rồi sau đó chảy vào các nguồn tiếp nhận, kênh mương ao hồ tự nhiên. Kết quả dẫn đến tình trạng quá tải, vượt quá khả năng tự làm sạch của sông hồ và gây ô nhiễm môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ tác động trực tiếp tới sức khỏe cộng đồng, tới tài nguyên sinh thái, làm mất giá trị cảnh quan, thưởng ngoạn du lịch, thể thao, vui chơi giải trí,...
Thực tế cho thấy, nếu giải quyết theo kiểu thoát nước và xử lý tập trung thì rất tốn kém, đòi hỏi lượng kinh phí khổng lồ và không khả thi, đồng thời không đạt được mục đích yêu cầu đề ra.
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào hạ được chi phí đầu tư, vận hành của hệ thống thoát nước và xử lý nước thải để có thể chấp nhận được, mà vẫn giải quyết được vấn đề vệ sinh môi trường đô thị. Đề tài "Nghiên cứu các mô hình thoát nước và xử lý nước thải sinh hoạt theo kiểu phân tán cho các đô thị loại III - loại V của Việt Nam" được đặt ra để hướng tới giải quyết những mâu thuẫn đó.
II. MỘT SỐ MÔ HÌNH TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Bể tự hoại cải tiến (BASTAF)
BASTAF là bể phản ứng kỵ khí với các vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí dòng hướng lên, có chức năng xử lý nước thải sinh hoạt và các loại nước thải khác có thành phần tính chất tương tự như nước thải sinh hoạt (xem hình 1).
Quy trình công nghệ, thiết bị của BASTAF:
Nguyên tắc, nước thải được đưa vào ngăn thứ nhất của bể, có vai trò làm ngăn lắng - lên men kỵ khí, đồng thời điều hòa lưu lượng và nồng độ chất bẩn trong dòng nước thải. Nhờ các vách ngăn hướng dòng, ở những ngăn tiếp theo, nước thải chuyển động theo chiều từ dưới lên trên, tiếp xúc với các vi sinh vật kỵ khí trong lớp bùn hình thành ở đáy bể trong điều kiện động, các chất bẩn hữu cơ được các vi sinh vật hấp thụ và chuyển hóa, đồng thời, cho phép tách riêng 2 pha (lên men axit và lên men kiềm). BASTAF cho phép tăng thời gian lưu bùn, nhờ vậy hiệu suất xử lý tăng trong khi lượng bùn cần xử lý lại giảm. Các ngăn cuối cùng là ngăn lọc kỵ khí, có tác dụng làm sạch bổ sung nước thải, nhờ các vi sinh vật kỵ khí gắn bám trên bề mặt các hạt của lớp vật liệu lọc, và ngăn cặn lơ lửng trôi ra theo nước.
- Tiêu chuẩn đạt được: Sử dụng bể BASTAF để xử lý nước thải sinh hoạt cho phép đạt hiệu suất tốt, ổn định (Hiệu suất xử lý trung bình theo hàm lượng cặn lơ lửng SS, nhu cầu oxy hóa học COD, nhu cầu oxy sinh hóa BOD5 từ 70 - 75%). So với các bể tự hoại thông thường trong điều kiện làm việc tốt, BASTAF có hiệu suất xử lý cao hơn gấp 2 - 3 lần. Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn theo TCVN 5945-1995 (Tiêu chuẩn thải, nước thải công nghiệp), TCVN 6772-2000 (Chất lượng nước - Nước thải sinh hoạt - Giới hạn ô nhiễm cho phép), TCVN 6980-2001 đến 6987-2001 tùy thuộc loại nguồn tiếp nhận nước thải.
Các lĩnh vực có thể áp dụng:
- Có thể được sử dụng thay cho các bể tự hoại thông thường, hoặc xử lý bổ sung sau các bể tự hoại sẵn có.
- Xử lý nước thải sinh hoạt từ các hộ hay nhóm hộ gia đình, khu chung cư, nhà cao tầng, biệt thự, khách sạn, nhà công cộng như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, văn phòng làm việc,...
- Xử lý nước thải có tỷ lệ các chất hữu cơ cao như nước thải công nghiệp thực phẩm, nước thải từ các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm,...
Ưu điểm của công nghệ, thiết bị:
- Bể BASTAF có cơ chế vận hành đơn giản, hiệu suất xử lý cao và ổn định.
- Chi phí đầu tư xây dựng thấp. Không tốn chi phí vận hành, do không sử dụng điện năng, hóa chất, vv...
- Lĩnh vực áp dụng rộng.
Hiện nay BASTAF đã được áp dụng để sản xuất ở quy mô công nghiệp, làng nghề, quy mô các hộ gia đình.
Yêu cầu kỹ thuật trong lắp đặt, vận hành đơn giản, tương đương với việc lắp đặt, vận hành các bể tự hoại (bể phốt) thông thường.
2. Trạm xử lý nước thải quy mô nhỏ hợp khối (AFSB - 100)
Quy trình công nghệ/thiết bị của AFSB-100
- Nguyên tắc: Nước thải được đưa vào ngăn thu của trạm bơm nước thải, đồng thời được điều hòa về lưu lượng và nồng độ chất bẩn trong nước thải, từ đó được bơm sang ngăn lắng, nơi tách các tạp chất rắn không tan. Dòng nước thải từ máng thu của ngăn lắng tự chảy sang ống phân phối trung tâm của các ngăn xử lý kỵ khí, nơi có các vật liệu mang (sản phẩm thân môi trường, được sản xuất từ vật liệu tái chế) đóng vai trò giá thể cho các vi sinh vật kỵ khí dính bám, được làm sạch một phần, đồng thời giữ cho tải trọng (đã được giảm đáng kể) lên các ngăn xử lý hiếu khí phía sau ổn định. Các ngăn xử lý hiếu khí (nhờ oxy cấp từ máy nén khí), với giá thể vi sinh ngập nước, sẽ tiếp tục xử lý các chất bẩn còn lại trong nước thải nhờ các vi sinh vật hiếu khí dính bám. Bùn - màng vi sinh vật bong ra sẽ được tách khỏi nước thải đã qua xử lý trong bể lắng đợt 2. Nước thải được khử trùng rồi xả ra nguồn. Bùn được ổn định trong ngăn chứa - phân huỷ bùn, sau đó được bơm đi tiếp tục xử lý, làm khô và/hoặc chở ra bãi chôn lấp theo quy định. Dòng nước thải và bùn tuần hoàn bằng bơm đặt trong gian máy, giúp cho ổn định bùn và loại bỏ các chất dinh dưỡng trong nước thải (tránh gây phú dưỡng nguồn nước), đồng thời duy trì chế độ làm việc đặc biệt của trạm khi cần thiết.
- Tiêu chuẩn đạt được: Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn cột A theo TCVN 5945-1995 (Tiêu chuẩn thải, nước thải công nghiệp) hay mức I theo TCVN 6772-2000 (Chất lượng nước - Nước thải sinh hoạt - Giới hạn ô nhiễm cho phép), TCVN 6980-2001 đến 6987-2001.
Các lĩnh vực có thể áp dụng:
-Xử lý nước thải sinh hoạt từ các nhóm hộ gia đình, khu chung cư, các tòa nhà cao tầng, khu biệt thự, các khách sạn, các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, nhà ăn; xử lý nước thải cho các đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ, v.v...
-Xử lý nước thải công nghiệp có thành phần, tính chất gần giống nước thải sinh hoạt hoặc nước thải công nghiệp có tỷ lệ chất hữu cơ cao, như công nghiệp chế biến thực phẩm, nước thải sinh hoạt của công nhân trong các khu công nghiệp, nước thải từ các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm,...
- Công suất 50 - 5.000 m3 nước thải/ngày đêm (hoặc phục vụ 500 - 50.000 dân).
Ưu điểm của công nghệ, thiết bị:
- Có hiệu suất xử lý cao và ổn định, cơ chế vận hành đơn giản.
- Chi phí đầu tư xây dựng thấp. Chi phí vận hành hợp lý.
- Gọn, yêu cầu diện tích ít. Tránh được mùi, đảm bảo mỹ quan.
- Lĩnh vực áp dụng rộng.
Mức độ phát triển:
Hiện đã sử dụng để sản xuất ở quy mô công nghiệp, đã được áp dụng cho khu du lịch Cát Bà và được giải thưởng tại Chợ công nghệ Techmart 2003 tại Hà Nội .
6
8
5
5
4
3
2
1
1
2
3
4
5
5
8
6
9
7
<h1>III. KẾT LUẬN</h1> Xu hướng hiện nay trên thế giới là các công trình, thiết bị xử lý nước thải càng gần nguồn phát sinh thì càng kinh tế mà vẫn đảm bảo chất lượng môi trường. Vì vậy những mô hình được giới thiệu ở đây là những mô hình rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam, không chỉ đối với khu dân cư đô thị, khu du lịch mà có thể áp dụng cả ở những vùng nông thôn.
Xây dựng công nghệ thích hợp xử lý nước thải chăn nuôi heo công nghiệp đang là vấn đề được chú ý ở nước ta. Hiện nay các cơ sở chăn nuôi heo thường nằm trong các khu dân cư, tại thành phố Hồ Chí Minh đang có xu thế chuyển ra các khu quy hoạch mới với hệ thống xử lý nước thải hữu hiệu, vốn đầu tư thấp, vận hành đơn giản, và chi phí vừa phải.
Báo cáo này giới thiệu mô hình xử lý nước thải chăn nuôi heo 30 m3/ngày xây dựng tại Xí nghiệp Chăn nuôi Gò Sao, quận 12 thành phố Hồ Chí Minh.
Xí nghiệp đang nuôi 12.000 đầu heo các loại. Lượng nước thải trung bình 935 m3/ ngày.
Hệ thống thiết bị xử lý gồm : Bể chứa nước thải dung tích 22,4 m3, sàng tách chất rắn, bể chứa nước để bơm lên bồn cao vị, bồn cao vị dung tích 5 m3 đặt trên bể phân hủy yếm khí, bể phân hủy yếm khí 30 m3 (2,8 m x 2,8 m x 3,8 m) (dung tích làm việc 28 m3), bể lọc yếm khí dung tích 22 m3 (2,8 m x 3,6 m) (dung tích làm việc 20 m3) và ao thực vật thủy sinh 720 m2.
Vật liệu cố định vi sinh trong bể lọc yếm khí được chế tạo từ các chất vô cơ và làm thành dạng tấm.
Vi sinh vật cố định được lấy từ túi biogas xử lý nước thải phân heo. Thời gian cố định và tạo vi sinh vật thích ứng trong 15 ngày.
Hiệu quả xử lý trong bể phân hủy yếm khí
Kết quả thử nghiệm từ tháng 6 đến đầu tháng 11/2000 cho thấy hệ thống thiết bị chạy khá ổn định.Nước thải ban đầu của xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao có hàm lượng COD trung bình 3081 mg/l, BOD = 1845 mg/l, SS = 2266,5 mg/l, N-NH4+ = 447,8 mg/l. Khi nước thải ra khỏi bể phân hủy yếm khí COD còn lại 814,3 mg/l, giảm 68,7%. BOD giảm từ 1845 xuống còn 408 mg/l giảm 71,8%. Riêng hàm lượng khí ammoniac thì đã tăng chút ít 582,1 mg/l so với 447,7 mg/l (tăng 23%). SS giảm rất đáng kể từ 2265 mg/l xuống còn 173 mg/l giảm 92%. pH chuyển về 7,8, lý do pH tăng là do hàm lượng N - NH4 + tăng. Kết quả trên cho thấy phần lớn chất rắn đã được phân hủy trong bể phân hủy yếm khí, pH chuyển về phía kiềm, hiệu quả khử COD và BOD5 tương đối tốt và ổn định chứng tỏ các quá trình thủy giải các phân tử hữu cơ có trọng lượng phân tử lớn xảy ra tốt, quá trình axit hóa và quá trình methane hóa xảy ra uyển chuyển với quá trình thủy giải trước đó. Với lưu lượng 30 m3/ngày thì thời gian lưu nước trong bể phân hủy yếm khí là 22,3 giờ và tải trọng COD là 3,3 kg COD/m3/ngày, tải trọng BOD5 là 1,976 kg/m3/ngày.
Hiệu quả xử lý trong bể lọc yếm khí
Nước thải sau khi xử lý trong bể phân hủy yếm khí được đưa qua bể lọc yếm khí theo phương pháp chảy ngược. Hàm lượng COD của nước vào bể lọc yếm khí là 814,3 mg/l, của nước ra bể yếm khí là 183 mg/l, giảm 76,1%. BOD của nước vào bể lọc yếm khí là 408,8 mg/l, của nước ra bể lọc yếm khí còn 96,5 mg/l giảm 74,9%. Hàm lượng ammoniac gần như không đổi. SS giảm 92,5%. Thời gian lưu nước trong bể lọc yếm khí là 16 giờ. Tải trọng COD là 1,22 kg/m3/ngày. Tải trọng BOD là 0,613 kg/m3/ngày.
Hiệu quả xử lý ở ao thực vật thủy sinh
Từ bể lọc yếm khí nước thải tự chảy vào ao thực vật thủy sinh. Diện tích ao rộng 720 m2, trong ao nuôi chủ yếu là lục bình, kết quả cho thấy hiệu quả xử lý của lục bình khá tốt. Hàm lượng COD của nước vào ao từ 183 mg/l giảm xuống còn 100 mg/l (44,3%). Hàm lượng BOD giảm 51%. Ammonia giảm nhiều nhất từ
465,7 mg/l xuống còn 2,3 mg/l (99,5). SS giảm 49,4%. pH = 6,7.
Như vậy nếu tính theo hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước thải chăn nuôi heo trước khi vào hệ thống xử lý: COD = 3081,5 mg/l; BOD5 = 1894; N-NH4 + = 447,8; và SS = 2.266,5 mg/l với hàm lượng các chất ô nhiễm của nước xả sau xử lý: COD = 100 mg/l, BOD = 46,3 mg/l, N-NH4 + = 2,3 mg/l và SS = 46,8 mg/l, thì hiệu quả xử lý của toàn hệ thống đạt được ở từng chỉ tiêu: COD = 96,7%; BOD5 = 97,4%; N-NH4 + = 99,4% và SS = 97,9%.
Kết luận
Hệ thống xử lý nước thải công suất 30 m3/ngày đã được thiết kế và xây dựng tại Xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao. Hiệu quả xử lý đạt như sau COD 96,7%, BOD 97,4%, N-NH4+ 99,4% và SS 97,9%. Nước ra đạt loại B theo TCVN. Trên cơ sở kết quả đạt được hiện nay nhóm tác giả đang nghiên cứu phát triển tiếp tục mô hình này.
Tác giả: Ngô Kế Sương, Nguyễn Hữu Phúc, Phạm Ngọc Liên, Võ Thị Kiều Thanh
Nguồn: Tin địa phương tỉnh Long Định, 16/2/2006
Báo cáo này giới thiệu mô hình xử lý nước thải chăn nuôi heo 30 m3/ngày xây dựng tại Xí nghiệp Chăn nuôi Gò Sao, quận 12 thành phố Hồ Chí Minh.
Xí nghiệp đang nuôi 12.000 đầu heo các loại. Lượng nước thải trung bình 935 m3/ ngày.
Hệ thống thiết bị xử lý gồm : Bể chứa nước thải dung tích 22,4 m3, sàng tách chất rắn, bể chứa nước để bơm lên bồn cao vị, bồn cao vị dung tích 5 m3 đặt trên bể phân hủy yếm khí, bể phân hủy yếm khí 30 m3 (2,8 m x 2,8 m x 3,8 m) (dung tích làm việc 28 m3), bể lọc yếm khí dung tích 22 m3 (2,8 m x 3,6 m) (dung tích làm việc 20 m3) và ao thực vật thủy sinh 720 m2.
Vật liệu cố định vi sinh trong bể lọc yếm khí được chế tạo từ các chất vô cơ và làm thành dạng tấm.
Vi sinh vật cố định được lấy từ túi biogas xử lý nước thải phân heo. Thời gian cố định và tạo vi sinh vật thích ứng trong 15 ngày.
Hiệu quả xử lý trong bể phân hủy yếm khí
Kết quả thử nghiệm từ tháng 6 đến đầu tháng 11/2000 cho thấy hệ thống thiết bị chạy khá ổn định.Nước thải ban đầu của xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao có hàm lượng COD trung bình 3081 mg/l, BOD = 1845 mg/l, SS = 2266,5 mg/l, N-NH4+ = 447,8 mg/l. Khi nước thải ra khỏi bể phân hủy yếm khí COD còn lại 814,3 mg/l, giảm 68,7%. BOD giảm từ 1845 xuống còn 408 mg/l giảm 71,8%. Riêng hàm lượng khí ammoniac thì đã tăng chút ít 582,1 mg/l so với 447,7 mg/l (tăng 23%). SS giảm rất đáng kể từ 2265 mg/l xuống còn 173 mg/l giảm 92%. pH chuyển về 7,8, lý do pH tăng là do hàm lượng N - NH4 + tăng. Kết quả trên cho thấy phần lớn chất rắn đã được phân hủy trong bể phân hủy yếm khí, pH chuyển về phía kiềm, hiệu quả khử COD và BOD5 tương đối tốt và ổn định chứng tỏ các quá trình thủy giải các phân tử hữu cơ có trọng lượng phân tử lớn xảy ra tốt, quá trình axit hóa và quá trình methane hóa xảy ra uyển chuyển với quá trình thủy giải trước đó. Với lưu lượng 30 m3/ngày thì thời gian lưu nước trong bể phân hủy yếm khí là 22,3 giờ và tải trọng COD là 3,3 kg COD/m3/ngày, tải trọng BOD5 là 1,976 kg/m3/ngày.
Hiệu quả xử lý trong bể lọc yếm khí
Nước thải sau khi xử lý trong bể phân hủy yếm khí được đưa qua bể lọc yếm khí theo phương pháp chảy ngược. Hàm lượng COD của nước vào bể lọc yếm khí là 814,3 mg/l, của nước ra bể yếm khí là 183 mg/l, giảm 76,1%. BOD của nước vào bể lọc yếm khí là 408,8 mg/l, của nước ra bể lọc yếm khí còn 96,5 mg/l giảm 74,9%. Hàm lượng ammoniac gần như không đổi. SS giảm 92,5%. Thời gian lưu nước trong bể lọc yếm khí là 16 giờ. Tải trọng COD là 1,22 kg/m3/ngày. Tải trọng BOD là 0,613 kg/m3/ngày.
Hiệu quả xử lý ở ao thực vật thủy sinh
Từ bể lọc yếm khí nước thải tự chảy vào ao thực vật thủy sinh. Diện tích ao rộng 720 m2, trong ao nuôi chủ yếu là lục bình, kết quả cho thấy hiệu quả xử lý của lục bình khá tốt. Hàm lượng COD của nước vào ao từ 183 mg/l giảm xuống còn 100 mg/l (44,3%). Hàm lượng BOD giảm 51%. Ammonia giảm nhiều nhất từ
465,7 mg/l xuống còn 2,3 mg/l (99,5). SS giảm 49,4%. pH = 6,7.
Như vậy nếu tính theo hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước thải chăn nuôi heo trước khi vào hệ thống xử lý: COD = 3081,5 mg/l; BOD5 = 1894; N-NH4 + = 447,8; và SS = 2.266,5 mg/l với hàm lượng các chất ô nhiễm của nước xả sau xử lý: COD = 100 mg/l, BOD = 46,3 mg/l, N-NH4 + = 2,3 mg/l và SS = 46,8 mg/l, thì hiệu quả xử lý của toàn hệ thống đạt được ở từng chỉ tiêu: COD = 96,7%; BOD5 = 97,4%; N-NH4 + = 99,4% và SS = 97,9%.
Kết luận
Hệ thống xử lý nước thải công suất 30 m3/ngày đã được thiết kế và xây dựng tại Xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao. Hiệu quả xử lý đạt như sau COD 96,7%, BOD 97,4%, N-NH4+ 99,4% và SS 97,9%. Nước ra đạt loại B theo TCVN. Trên cơ sở kết quả đạt được hiện nay nhóm tác giả đang nghiên cứu phát triển tiếp tục mô hình này.
Tác giả: Ngô Kế Sương, Nguyễn Hữu Phúc, Phạm Ngọc Liên, Võ Thị Kiều Thanh
Nguồn: Tin địa phương tỉnh Long Định, 16/2/2006
[font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"]
Định hướng phát triển công nghệ môi trường Việt Nam
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Công nghiệp môi trường (Environmental Industries) là một thực thể kinh tế có từ rất sớm
tại nhiều nước. Đây là ngành công nghiệp tạo ra các giá trị gia tăng từ chính việc giải quyết
các vấn đề môi trường, đã và đang có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho phát triển
theo hướng bền vững, chiếm vị thế quan trọng trong cơ cấu công nghiệp.
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] 1. Tổng quan về công nghệ môi trường:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Công nghiệp môi trường (Environmental Industries) là một thực thể kinh tế có từ rất sớm
tại nhiều nước. Đây là ngành công nghiệp tạo ra các giá trị gia tăng từ chính việc giải quyết
các vấn đề môi trường, đã và đang có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho phát triển
theo hướng bền vững, chiếm vị thế quan trọng trong cơ cấu công nghiệp. Một số tổ chức
và các nước trên thế giới đã đưa ra khái niệm về công nghiệp môi trường (CNMT) như
sau:
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế - OECD: CNMT bao gồm các hoạt động sản
xuất hàng hóa và dịch vụ nhằm đo lường, ngăn chặn, hạn chế tối thiểu hóa hay hiệu chỉnh
tác hại môi trường tới nước; không khí và đất cũng như các vấn đề liên quan đến chất thải
và hệ sinh thái.
Văn phòng thống kê Cộng đồng Châu Âu cho rằng: CNMT bao gồm các dịch vụ sản xuất
hàng hóa và dịch vụ mà chúng có khả năng đo lường, ngăn chặn, hạn chế hay hiệu chỉnh
các tác hại môi trường như ô nhiễm nước, không khí, đất cũng như chất thải và các vấn đề
liên quan đến tiếng ồn. Chúng cũng bao gồm công nghệ sạch nhằm hạn chế ô nhiễm và sử
dụng nguyên liệu thô.
Mạng lưới thông tin và quan sát Châu Âu: CNMT bao gồm các hoạt động thúc đẩy công
nghệ sạch hơn, xử lý nước và xử lý nước thải; quá trình tái chế; quá trình công nghệ sinh
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] học, chất xúc tác, màng ngăn; giảm tiếng ồn và các hoạt động sản xuất các sản phẩm khác
nhằm mục đích bảo vệ môi trường.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Ở Hoa Kỳ:
quy định môi trường; đánh giá phân tích và bảo vệ môi trường; kiểm soát ô nhiễm không
khí, quản lý chất thải, làm giảm ô nhiễm; cung cấp và phân phối tài nguyên môi trường:
nước, nguyên liệu tái tạo, năng lượng sạch và công nghệ và các hoạt động góp vào việc
tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và nguyên liệu, sản phẩm chất lượng cao và phân phối
tài nguyên môi trường: nước, nguyên liệu tái tạo, năng lượng sạch và công nghệ và các
hoạt động đóng góp vào việc tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và nguyên liệu, sản phẩm
chất lượng cao và phát triển kinh tế bền vững.
Kinh tế-xã hội ngày càng phát triển đặt ra những yêu cầu về môi trường ngày càng lớn, liên
tục và không ngừng tạo ra các nhu cầu mới kích thích phát triển. CNMT thế giới chính vì
thế những năm gần đây phát triển bùng nổ với nhiều năng lực và sản phẩm mới, không chỉ
đáp ứng nhu cầu nội tại của mỗi quốc gia mà còn tạo đóng góp tăng trưởng trao đổi xuất
nhập khẩu toàn cầu. Thị trường ngành CNMT thế giới ngày càng phát triển và lớn mạnh.
Năm 1992, thị trường ngành CNMT ước khoảng 300 tỷ USD, năm 1996 đạt 453 tỷ USD,
năm 2004 tăng lên 628,5 tỷ USD và dự báo đến năm 2010 quy mô thị trường ngành
CNMT thế giới đạt khoảng 688 tỷ USD. Các nước công nghiệp hàng đầu như Hoa Kỳ,
Nhật Bản và một số nước Tây Âu chiếm hầu hết thị phần ngành CNMT thế giới (chiếm tới
85%), trong đó Hoa Kỳ là quốc gia đứng đầu thế giới, chiếm 38% thị phần của toàn thế
giới.
Ở Việt Nam, khái niệm ngành CNMT vẫn còn rất mới, doanh nghiệp môi trường được biết
đến chỉ với ý nghĩa đơn giản là các công ty môi trường đô thị, một số doanh nghiệp tư vấn,
cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường quy mô nhỏ. Hội nghị Môi trường toàn quốc ngày
22/4/2005, nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã chỉ đạo "nhanh chóng xây
dựng ngành công nghiệp môi trường" phù hợp với điều kiện của một nước đang phát triển
và có nhiều hạn chế về nguồn lực tài chính như nước ta".
Luật Bảo vệ môi trường, được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, cũng đã thể chế hoá
chủ trương nói trên, giao "Bộ Công nghiệp chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan và
UBND cấp tỉnh chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp môi trường".
Những năm gần đây, bức tranh về doanh nghiệp môi trường cũng có những thay đổi quan
trọng với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần, trong nước, ngoài
nước, tư nhân và nhiều hình thức liên kết với quy mô ngày càng lớn. CNMT ngày nay
không mang tính công ích thuần tuý mà ngày càng thể hiện rõ tính kinh tế trong các hoạt
động của nó, đặc biệt khi chuyển từ cách tiếp cận "xử lý cuối đường ống", xử lý chất thải
sang cách tiếp cận ngăn ngừa ô nhiễm tại nguồn, đồng thời coi chất thải như tài nguyên để
tái sử dụng tạo ra các giá trị mới.
Công nghiệp môi trường của Việt Nam bao hàm các hoạt động và doanh nghiệp đặc thù,
chuyên sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu bảo vệ và phòng ngừa các
tác động xấu tới môi trường. Điều nay đang tạo động lực để phát triển và mở rộng các lĩnh
vực mới và gia tăng số lượng các doanh nghiệp môi trường. Kinh doanh môi trường ngày
càng được xem là ngành "siêu lợi nhuận" vì những lợi ích kép mà nó mang lại.
Tham khảo quốc tế, gắn liền với điều kiện Việt Nam, ngành CNMT được hiểu như sau:
"Công nghiệp môi trường là một ngành kinh tế cung cấp các sản phẩm và dịch vụ môi
trường đáp ứng nhu cầu phòng ngừa ô nhiễm và bảo vệ môi trường của nền kinh tế".
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"]CNMT bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo ra giá trị liên quan tới thực hiện các[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Tại một số nước, hoạt động của ngành CNMT được chia ra các phân ngành "Dịch vụ môi
trường", "Thiết bị môi trường" và "Tài nguyên môi trường". Mỗi phân ngành có lĩnh vực
hoạt động khác nhau:
- Dịch vụ môi trường bao gồm các hoạt động có doanh thu từ việc thu phí các dịch vụ môi
trường như: phân tích và thử nghiệm môi trường, quản lý và xử lý chất thải, chất thải nguy
hại, phục hồi môi trường, tư vấn và dịch vụ kỹ thuật môi trường.
- Thiết bị môi trường bao gồm các hoạt động có doanh thu từ việc bán hoặc cho thuê thiết
bị môi trường như: Thiết bị xử lý chất thải, thiết bị đo và hệ thống thông tin, thiết bị kiểm
soát ô nhiễm, thiết bị quản lý chất thải, công nghệ xử lý và ngăn ngừa ô nhiễm.
- Tài nguyên môi trường bao gồm các hoạt động có doanh thu từ việc bán tài nguyên (ví dụ
nước hoặc năng lượng) hoặc tái chế chất thải (ví dụ thép hoặc giấy).
Nhìn chung, để phát triển ngành CNMT, nhiều nước đã áp dụng các biện pháp:
- Xây dựng và cưỡng chế thực thi các đạo luật về bảo vệ môi trường: xây dựng các đạo luật
về bảo vệ môi trường và cưỡng chế thực thi mạnh mẽ các đạo luật đó là chính sách phổ
biến nhất thúc đẩy sự phát triển của ngành CNMT. Khi các quy định trở nên ngặt nghèo
hơn, các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm các giải pháp công nghệ, sản phẩm và dịch vụ
mới để đáp ứng. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, ngành CNMT bắt đầu phát triển từ khi Đạo luật về
không khí sạch ban hành năm 1963 với nội dung hạn chế phát thải đối với các hoạt động
liên quan đến quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Tương tự như vậy, Nhật Bản ban
hành Luật Cơ bản về kiểm soát ô nhiễm năm 1967 về giảm phát thải là cơ sở cho việc phát
triển ngành CNMT ở nước này.
- Xây dựng các chính sách khuyến khích sử dụng sản phẩm dịch vụ ngành CNMT: Ngoài
các văn bản luật và vấn đề cưỡng chế, nhằm tạo thị trường cho ngành CNMT, Chính phủ
các nước cũng khuyến khích doanh nghiệp xây dựng/ lắp đặt các hệ thống kiểm soát ô
nhiễm thông qua ban hành hàng loạt các biện pháp giảm thuế, khấu hao ưu đãi và hệ thống
giải thưởng đối với các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngành.
- Tổ chức các hội thảo, triển lãm, hội trợ quốc tế để quảng bá sản phẩm, dịch vụ CNMT:
Các nước tiên tiến thường tổ chức các hội thảo, hội trợ, triển lãm về các công nghệ, sản
phẩm, tư vấn môi trường. Điển hình là Hoa Kỳ, hàng năm có hàng chục hội thảo quốc tế,
hội chợ, triển lãm khác nhau liên quan đến ngành này được tổ chức bởi các hiệp hội
chuyên ngành như Hiệp hội xử lý nước thải, Hiệp hội đánh giá tác động môi trường v.v…
Các hoạt động này không chỉ giúp quảng bá đối với các nước khác thông qua việc tạo điều
kiện/ tổ chức cho các đoàn doanh nghiệp nước ngoài tham dự các triển lãm trong nước,
cũng như giúp tổ chức các triển lãm ở nước ngoài.
- Hỗ trợ ngành CNMT mở rộng thị trường thông qua chính sách ODA: Thông qua các hỗ
trợ về ODA đối với các nước đang phát triển, các nước phát triển cũng có chính sách hỗ trợ
đối với ngành CNMT trong nước bằng cách có chính sách ưu tiên đối với việc các dự án
ODA sử dụng công nghệ, sản phẩm và tư vấn từ nước tài trợ. Ví dụ điển hình của biện
pháp này là Nhật Bản. Nước này đã sử dụng hệ thống hỗ trợ ODA của mình ở các nước
đang phát triển để tăng thị phần ngành CNMT của mình tại đây.
- Hỗ trợ các dự án nghiên cứu về CNMT từ ngân sách quốc gai: Các nước trong khu vực
Châu Á Thái Bình Dương và các khu vực khác cũng có các hoạt động thúc đẩy ngành
CNMT bằng cách xây dựng các dự án nghiên cứu sử dụng kinh phí hỗ trợ của nhà nước.
- Hỗ trợ phát triển CNMT thông qua chính sách chuyển giao công nghệ: hầu hết các nước
đang phát triển không tự xây dựng công nghệ, sản phẩm mới mà thường tập trung vào hoạt
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] động tìm kiếm chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Điều này cũng giúp thúc đẩy
mạnh mẽ thị trường cho ngành CNMT.
Từ những kinh nghiệm phát triển ngành CNMT của các nước đi trước và điều kiện cụ thể
của nước ta, có thể rút ra một số bài học cho sự phát triển của ngành CNMT của Việt Nam
như sau:
- Cần xây dựng một cách có hệ thống và đồng bộ các đạo luật về bảo vệ môi trường, đi đôi
với việc nâng cao năng lực thực thi, cưỡng chế, kiểm tra và giám sát việc tuân thủ các quy
định về bảo vệ môi trường. Khi các quy định trở nên ngặt nghèo hơn, công tác kiểm tra,
giám sát và cưỡng chế thực thi được thực hiện nghiêm túc thì các doanh nghiệp buộc phải
tìm kiếm các giải pháp công nghệ, sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng, làm thúc đẩy sự phát
triển của ngành CNMT.
- Cần đặc biệt coi trọng và thường xuyên quan tâm, thực hiện tốt việc nâng cao nhận thức
về bảo vệ môi trường, nhận thức về sự tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường cho mọi
đối tượng người dân trong xã hội, từ những người có học thức cao, người quản lý, chủ
doanh nghiệp đến những người lao động, học sinh, sinh viên… Ý thức bảo vệ môi trường
được nâng cao sẽ tạo ra các luồng dư luận và sức ép của cộng đồng trong xã hội đòi hỏi các
tổ chức, các nhân gây ô nhiễm phải đầu tư xử lý môi trường.
- Nhà nước cần có cơ chế, chính sách và quan tâm đúng mức tới việc thúc đẩy phát triển
thị trường về tư vấn, dịch vụ, công nghệ, thiết bị… cho ngành CNMT.
- Ngoài việc tự đầu tư của các doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu phát triển, nhà nước cần
có sự đầu tư thích đáng cho việc xây dựng và triển khai các chương trình ưu tiên của Chính
phủ về nghiên cứu triển khai, nâng cao năng lực quản lý môi trường, đồng thời, ban hành
các cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích, thúc đẩy, hỗ trợ cho ngành CNMT phát
triển.
- Nhà nước có sự hỗ trợ thích đáng đối với hoạt động nghiên cứu và triển khai liên quan
đến ngành CNMT thông qua các cơ chế hỗ trợ tài chính, tổ chức các hội chợ triển lãm liên
quan đến ngành.
- Cần tận dụng tốt nguồn vốn hỗ trợ ODA để chuyển giao công nghệ cho ngành CNMT
trong nước.
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] 2. Thực trạng ngành CNMT ở Việt Nam:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Ngành CNMT Việt Nam mặc dù chưa chính thức hình thành và vẫn còn nhỏ bé nhưng đã
xuất hiện trên các trang thông tin và thống kê quốc tế với xuất phát điểm là các công ty vệ
sinh (nay là công ty môi trường đô thị - URENCO). Đây là hệ thống các doanh nghiệp Nhà
nước, có từ rất sớm hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công chuyên thu gom, vận chuyển xử
lý chất thải và vệ sinh đô thị. Đến nay hệ thống các công ty môi trường đô thị đã phát triển
ở hầu hết các tỉnh/thành với doanh thu hàng năm lên đến nhiều ngàn tỷ đồng.
Theo kết quả điều tra của Dự án "Điều tra hiện trạng ngành CNMT, đề xuất giải pháp
nhằm phát triển ngành CNMT Việt Nam" đã tiến hành trong các năm 2006-2007 trên phạm
vi 20 tỉnh, đã thống kê được khoảng trên 2000 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực
môi trường. Trong đó, ngoài các công ty URENCO của các tỉnh/thành phố còn có các
doanh nghiệp tư nhân cả trong nước và nước ngoài, các hình thức liên doanh, liên kết. Quy
mô của các công ty có doanh số lên đến 1000 tỷ VNĐ/năm. Các lĩnh vực hoạt động cũng
không ngừng được mở rộng không chỉ môi trường đô thị, mà còn phát triển rất nhanh sang
khu vực doanh nghiệp, khu công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm, tái chế và quản lý tài nguyên,
sản xuất thiết bị, công nghệ. Hoạt động môi trường của Việt Nam đang dần trở nên chuyên
môn hóa sâu, mang tính công nghiệp với các doanh nghiệp với các doanh nghiệp chuyên
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] sản xuất và cung ứng dịch vụ trên tất cả 3 lĩnh vực dịch vụ, sản xuất thiết bị công nghệ và
quản lý tài nguyên.
Thực tế ngành CNMT ở Việt Nam đang có những đóng góp ban đầu không chỉ cho bảo vệ
môi trường mà còn như một ngành kinh tế với các doanh nghiệp và sản phẩm đặc thù. Đây
cũng là ngành có rất nhiều tiềm năng phát triển trong bối cảnh đất nước đang thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ngành Công nghiệp môi trường của Việt Nam có thể
được chia thành 3 lĩnh vực hoạt động chính:
- Dịch vụ môi trường;
- Phát triển công nghệ và sản xuất thiết bị;
- Phát triển và phục hồi tài nguyên thiên nhiên.
[/font][/font][font="times new roman bold italic+fpe"][font="times new roman bold italic+fpe"] a. Dịch vụ môi trường
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] - Phân tích và quan trắc môi trường hiện nay ở Việt Nam chủ yếu do các đơn vị công lập
(trung tâm quan trắc và phòng thí nghiệm) thực hiện, theo đơn giá Nhà nước quy định. Sản
phẩm chủ yếu là dịch vụ quan trắc, lấy mẫu, phân tích, các cơ sở dữ liệu thông tin liên
quan. Tuy nhiên, lĩnh vực này ngày càng được xã hội hóa, cho phép nhiều thành phần tham
gia.
- Quản lý, kiểm soát ô nhiễm, bao gồm các hoạt động dịch vụ:
+ Quản lý, xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải.
+ Quản lý ô nhiễm khác bao gồm ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, nhiệt, phóng xạ và sự cố môi
trương (tràn dầu, hóa chất…). Trong lĩnh vực quản lý này có các sản phẩm dịch vụ, cung
cấp/chế tạo thiết bị và xây lắp công trình. Trên thực tế, còn có rất nhiều dịch vụ mang tính
chuyên ngành khác.
+ Quảnl ý chất thải nguy hại có các hoạt động như kiểm soát, phân loại, thu gom, vận
chuyển và xử lý. Trong xử lý có cả thiết bị và xây lắp công trình. Hệ thống phân loại các
chất thải nguy hại hiện nay rất phức tạp, liên quan đến POPs có 12 nhóm hóa chất bị cấm;
những hoá chất thuộc các điều ước quốc tế mà Việt Nam làm nước thành viên…
- Dịch vụ tư vấn quản lý môi trường có hoạt động rất đa dạng. Lĩnh vực tư vấn phổ biến
hiện nay bao gồm:
+ Đánh giá tác động môi trường;
+ Phân tích thí nghiệm;
+ Đào tạo nguồn nhân lực;
+ Công nhận chứng nhân (ISO 14000, EMS,…);
+ Thiết kế môi trường;
[/font][/font][font="times new roman bold italic+fpe"][font="times new roman bold italic+fpe"] b. Phát triển công nghệ và sản xuất thiết bị
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Gồm có các hoạt động/phân ngành sau:
+ Nghiên cứu R&D và chuyển giao công nghệ;
+ Sản xuất thiết bị và vật liệu xử lý môi trường;
+ Phát triển công nghệ thông tin chuyên ngành môi trường;
+ Sản xuất thiết bị đo lường và kiểm soát ô nhiễm môi trường;
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] + Công nghệ ngăn ngừa ô nhiễm.
- Công nghệ, thiết bị và vật liệu xử lý môi trường rất đa dạng. Sản phẩm là các công nghệ,
thiết bị và vật liệu, hóa chất và chủng vi sinh sử dụng trong công nghệ xử lý chất thải, làm
sạch môi trường.
- Công nghệ thông tin chuyên ngành gồm các phầm mềm dự báo phân tích đánh giá môi
trường, các phần mềm tự động hóa trong công nghệ quan trắc, cập nhật thông tin tự động
cơ sở dữ liệu, bản đồ số hoá…
- Thiết bị đo lường và kiểm soát ô nhiễm gồm các thiết bị đo, kit thử nhanh dùng phát hiện
các chất nguy hại có trong môi trường, thiết bị tự động đo và quan trắc các chỉ số môi
trường…
- Công nghệ hạn chế ô nhiễm, gồm các sản phẩm công nghệ tiết kiệm năng lượng, tiết
kiệm nguyên liệu và công nghệ sử dụng nguyên liệu mới không có chất thải. Đó là sản
phẩm công nghệ và sản phẩm thân thiện môi trường (không tạo ra chất thải hoặc ít chất
thải).
[/font][/font][font="times new roman bold italic+fpe"][font="times new roman bold italic+fpe"] c. Phát triển và khôi phục tài nguyên
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] - Cung cấp nước sạch, theo các phân loại quốc tế thuộc hoạt động của ngành CNMT.
- Phục hồi tài nguyên, bao gồm các hoạt động khôi phục các vùng đất, vùng nước bị ô
nhiễm, các mỏ khoáng sản sau khai thác, các thảm thực vật, phát triển các vùng sinh thái,
đa dạng sinh học (khu sinh thái, du lịch sinh thái, đô thị sinh thái…).
- Phát triển các dạng năng lượng mới, như năng lượng gió, mặt trời địa nhiệt, hydro, các
dạng năng lượng thay thế ít chất thải (ethanol, Bio-diesel).
- Tái chế chất thải, như tái chế giấy, thu hồi kim loại nặng, điện tử…
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] 3. Định hướng phát triển công nghiệp môi trường Việt Nam:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Thực tế đã chỉ ra một số trở ngại chính đối với sự phát triển CNMT ở Việt Nam:
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Một là
không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, do đó chưa tạo thành động lực quan
trọng để công nghiệp, dịch vụ môi trường được phát triển. Hệ quả là, chưa có nhiều nhà
đầu tư sản xuất thiết bị, công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường.
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"]: Nhận thức của doanh nghiệp về bảo vệ môi trường chưa cao, nhiều doanh nghiệp[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Hai là
chưa đầy đủ, chưa đồng bộ; các chế tài xử phát chưa đủ mạnh mẽ bắt buộc mọi người dân,
tổ chức phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, làm cho thị trường về dịch vụ
môi trường chưa phát triển tương xứng với yêu cầu về công tác bảo vệ môi trường và phát
triển ngành CNMT.
Các cơ chế, chính sách khuyến khích chưa rõ ràng, chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư vào
phát triển CNMT. Nhà nước chưa có định hướng cụ thể để phát triển lĩnh vực công nghiệp
này.
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"]: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) về bảo vệ môi trường (BVMT)[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Ba là:
thuyết phục. Đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ môi trường còn yếu và thiếu, đặc biệt
là chuyên gia có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm.
Dựa trên quan điểm: "Phát triển ngành CNMT Việt Nam phải phù hợp điều kiện thực tế
của Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tế đặt ra từ
quá trình phát triển kinh tế-xã hội, góp phần phát triển bền vững đất nước", nhằm đạt được
mục tiêu phát triển ngành CNMT thành một ngành kinh tế quant trọng, có khả năng cung
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"]Uy tín của các nhà cung cấp công nghệ, thiết bị và dịch vụ trong nước chưa đủ[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] cấp các dịch vụ, công nghệ, thiết bị môi trường, cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường
trong nước; tạo bước chuyển biến cơ bản, vững chắc và toàn diện trong công tác bảo vệ
môi trường để chủ động hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, kiểm soát và cải thiện chất
lượng môi trường; giải quyết tình trạng suy thoái môi trường, cần thực hiện một số nhiệm
vụ sau:
- Hoàn thiện thể chế, tăng cường cưỡng chế tuân thủ quy định BVMT.
+ Hoàn thiện tổ chức các cơ quan đầu mối quản lý môi trường từ Trung ương đến địa
phương và doanh nghiệp, bao gồm các nội dung: rà soát, đánh giá và hoàn thiện mạng lưới
tổ chức và chức năng nhiệm vụ; đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nâng cao năng lực thực thi
nhiệm vụ quản lý;
+ Rà soát, xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển ngành CNMT, theo hướng:
+ Khuyến khích, hỗ trợ nghiên cứu KHCN, chuyển giao công nghệ BVMT, chế tạo thiết bị
môi trường, phát triển thị trường và dịch vụ BVMT, quản lý và sử dụng tài nguyên.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động BVMT, bao gồm từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ,
chế tạo thiết bị đến cung cấp các dịch vụ BVMT, quản lý và sử dụng tài nguyên.
+ Triển khai các chương trình, đề tài và dự án KHCN trọng điểm phục vụ bảo vệ môi
trường, bao gồm: công nghệ xử lý nước thải (nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp,
nước thải bệnh viện, nước thải các bãi chôn lấp…); công nghệ xỷ lý khí thải, đặc biệt là khí
thải chứa NOx, SOx, CO, H
chất thải rắn (chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại); công nghệ
chế tạo các thiết bị xử lý môi trường và các dụng cụ phục vụ lấy mẫu, bảo quản, vận
chuyển, phân tích môi trường; quy trình lấy mẫu, bảo quản, vận chuyển, phân tích môi
trường.
+ Tăng cường năng lực thiết kế, chế tạo thiết bị môi trường: đầu tư các phần mềm thiết kế
chuyên dụng, đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ làm công tác thiết kế, chế tạo thiết
bị, đầu tư cơ sở nhà xưởng, thiết bị phục vụ chế tạo.
+ Tăng cường hoạt động nhập khẩu, làm chủ và nhân rộng các loại thiết bị bảo vệ môi
trường, đặc biệt là các thiết bị có hàm lượng công nghệ cao như thiết bị DeSOx, DeNOx,
thiết bị xử lý chất thải y tế, chất thải công nghiệp nguy hại v.v…
+ Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu KH&CN phục vụ bảo vệ môi
trường.
+ Hình thành và phát triển mạng lưới các tổ chức tư vấn, dịch vụ, chuyển giao công nghệ
môi trường, bao gồm: dịch vụ phân tích, thử nghiệm về môi trường; dịch vụ tư vấn, đánh
giá, thẩm định, quản lý dự án; dịch vụ quan trắc môi trường, đánh giá tác động môi trường,
kiểm toán môi trường, tư vấn áp dụng sản xuất sạch hơn, thu gom, vận chuyển, xử lý, tái
chế chất thải; dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử lý môi trường; dịch vụ tập
huấn, đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài nguyên, môi trường, vận hành thiết bị, áp dụng
SXSH…
- Đẩy mạnh hoạt động quản lý và sử dụng tiết kiệm năng lượng.
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả sử dụng tài nguyên, bao gồm: xử lý và cung cấp nước sạch,
thu gom, tái chế các sản phẩm phụ, các sản phẩm đã qua sử dụng, xử lý, phục hồi tài
nguyên, các khu vực bị ô nhiễm, hoàn thổ phục vụ hồi môi trường các bãi thải…; cung cấp
các loại dịch thiết bị năng lượng mới, năng lượng tái tạo; trạm điện/pin mặt trời, trạm điện
sức gió, thuỷ điện nhỏ, địa nhiệt…; cung cấp các sản phẩm công nghệ và dịch vụ thân môi
trường.
[/font][/font][font="times new roman+fpef"]185[/font]186[/size][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"]S, HF, dung môi hữu cơ, dioxin, furan,…; công nghệ xử lý[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] - Tăng cường công tác thông tin tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn
nhân lực bảo vệ môi trường.
+ Xây dựng và triển khai các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức về BVMT và
quản lý môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài tiếng nói Việt Nam,
Truyền hình Việt Nam,…
+ T
[font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"]
Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp (Industrial Pollution Prevention - IPP) là một thuật ngữ
được dùng để miêu tả các công nghiệp sản xuất và những chiến lược mà nó dẫn đến kết
quả là loại trừ hoặc giảm bớt các dòng thải cả về số lượng dòng thải cũng như đặc tính ô
nhiễm của mỗi dòng thải. Có thể có những cách định nghĩa khác nhau, ở đây chỉ xin được
trích dẫn 2 định nghĩa có tính bao quát nhất:
Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP): "Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp là
việc áp dụng một cách liên tục chiến lược ngăn ngừa tổng hợp về mặt môi trường đối với
các quá trình sản xuất, các sản phẩm và các dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và
giảm thiểu các rủi ro đối với con người và môi trường".
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Mục tiêu của quá trình sản xuất:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Bảo tồn vật liệu và năng lượng, loại bỏ các vật liệu thô độc hại và giảm bớt khối lượng
cũng như độc tính của tất cả các chất thải và các hơi khí độc hại ngay tại nguồn.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Mục tiêu đối với các sản phẩm:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Giảm bớt các tác động tiêu cực trong suốt toàn bộ vòng đời của một sản phẩm, từ lúc thiết
kế cho đến lúc thải bỏ.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Mục tiêu đối với các dịch vụ:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Lồng ghép các khái niệm môi trường vào trong việc thiết kế và cung cấp các dịch vụ.
Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA): "Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp là việc sử dụng
các vật liệu, các quá trình hoặc các thao tác vận hành sao cho giảm bớt hoặc loại trừ khả
năng tạo ra các chất ô nhiễm hoặc các chất thải ngay tại nguồn. Nó bao gồm các hành động
làm giảm việc sử dụng các vật liệu độc hại, năng lượng, nước, hoặc các tài nguyên thiên
nhiên thông qua việc bảo tồn hoặc sử dụng có hiệu quả hơn".
Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp đòi hỏi phải có sự thay đổi về nhận thức và thái độ của
các đối tượng có liên quan, thực hiện việc quản lý môi trường với tinh thần trách nhiệm và
định hướng những sự lựa chọn về công nghệ.
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Các yếu tố cốt lõi của cách tiếp cận về ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp được tổng hợp lại.
Hiện nay chiến lược ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp đang được Chương trình môi trường
của Liên hiệp quốc (UNEP) và các chương trình môi trường của nhiều nước công nghiệp
phát triển áp dụng triển khai nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường. Ngăn ngừa
ô nhiễm nói chung và ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp nói riêng sẽ trở thành yếu tố quyết
định trong chiến lược quản lý môi trường thống nhất của cả thế giới.
Nhiều thuật ngữ đã được sử dụng để miêu tả các hoạt động để giới hạn hoặc làm giảm
thiểu sự phát triển, sự phát sinh của chất thải nguy hại, giảm tối thiểu chất thải, giảm chất
thải, nguồn thải ngăn ngừa ô nhiễm, tái chế và tái sử dụng.
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] Một số ví dụ về quản lý ngăn ngừa các nguồn chất thải nguy hại
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Chất thải nguy hại, đôi khi còn được gọi là các chất thải đặc biệt, là những chất thải cần
phải vận chuyển, xử lý, và thải bỏ một cách đặc biệt vì tiềm năng nguy hại hay thể tích lớn
của chúng, tốt nhất các chất thải này không thể nhập với các dòng thải sinh hoạt, nhưng
hiện tượng này vẫn xảy ra khá thường xuyên, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt
Nam.
Chất thải đặc biệt có thể gây tác động nghiêm trọng tới sức khoẻ và môi trường nếu không
được quản lý tốt. Những người làm việc với các chất thải này (như những người lượm rác
chẳng hạn) phải đối mặt thường xuyên với những sự rủi ro khá cao. Thành phần độc hại
của các chất thải này có thể đi vào môi trường, làm ô nhiễm các nguồn nước. Chất nguy
hại cũng có thể làm xuống cấp các trang thiết bị của bãi chôn lấp chất thải. Ngăn ngừa chất
thải nguy hại được thảo luận đến ở đây bởi vì chúng có tác động tiêu cực tiềm năng lên hệ
thống quản lý chất thải đô thị nói chung, trong đó đặc biệt là các chất thải công nghiệp
nguy hại.
Quản lý chất thải rắn nguy hại là một công việc tương đối khó khăn đối với hầu hết các
nước đang phát triển, đặc biệt những nơi chưa có hệ thống quản lý chất thải sinh hoạt hoàn
chỉnh. Có 3 nguyên do: thứ nhất: quy định đối với quản lý chất thải chưa rõ ràng; thứ hai:
các nguồn lực sẵn có để quản lý chất thải còn thiếu vốn; và thứ ba: công nghệ cần thiết để
quản lý chất thải nguy hại đặc biệt thường không phổ biến.
Việc quản lý hữu hiệu các chất thải nguy hại đặc biệt cần bắt đầu với việc đánh giá của
chất thải lên sức khoẻ và môi trường, lợi ích môi trường của việc quản lý đúng quy cách
chất thải nguy hại có thể rất lớn vì trong nhiều trường hợp một lượng nhỏ chất thải có thể
gây thiệt hại lớn. Tuy nhiên, mặc dầu chất thải nguy hại có rủi ro, số lượng không phải lúc
nào cũng đủ nhiều để được thu gom và thải riêng rẽ.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Ngăn ngừa rủi ro trong quá trình thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại.
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Cơ sở phát sinh chất thải nguy hại cần phải kê khai số lượng, thành phần chất thải cần thu
gom, xử lý.
Hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại chỉ được thực hiện bởi đơn vị
được cấp giấy phép.
Khi thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại phải đảm bảo an toàn, tránh rò rỉ, đổ vỡ trang
thiết bị vận chuyển theo tiêu chuẩn quy định, lộ trình vận chuyển không quá dài, tránh các
khu đông dân cư, khu công cộng, đơn vị thu gom phải có nhật ký hành trình, có kế hoạch
ứng cứu sự cố khi xảy ra tai nạn khi vận chuyển, thu gom xử lý chất thải nguy hại.
Chất thải nguy hại phải được đóng gói và ghi nhãn theo quy định.
Việc ghi nhãn cảnh báo chất thải nguy hại là rất quan trọng. Giấy nhãn và mực in trên nhãn
phải bền trong điều kiện vận chuyển. Trên nhãn phải đảm bảo những thông tin quan trọng
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] nhất như: Tên gọi, xuất xứ, đặc tính lý hoá, tính độc, thành phần cấu tạo, thời hạn bảo quản
hạn sử dụng. Có 2 loại nhãn hiệu:
Nhãn báo nguy hiểm dùng cho tất cả các chất nguy hại và chất thải nguy hại. Nhãn có dạng
hình vuông nghiêng 45
nhãn báo nguy hại phụ phải dán ngay bên cạnh nhãn chính.
Nhãn chỉ dẫn bảo quản, dạng hình chữ nhật ghi một mình hoặc ghi kèm theo nhãn. Nhãn
này ghi các chất cần lưu ý như tính dễ vỡ, tính từ, điều kiện bảo quản khi vận chuyển, lưu
trữ và hay sử dụng.
Nhãn trên bao bì chứa chất nguy hại và chất thải nguy hại có hình dạng, màu sắc, ký hiệu
và chữ viết theo chuẩn quốc tế, hoặc một số chất sẽ theo quy định của quốc gia. Việt Nam
cũng đã có Nghị định 68/2005/NĐ-CP về an toàn hoá chất, trong đó cũng có quy định về
nhận dạng và khai báo hoá chất nguy hiểm.
Vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới phải tuân thủ các quy định của công ước
Basel.
[/font][/font][font="times new roman+fpef"]81[font="times new roman bold+fpef"]82[/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"], chất nguy hại được biểu diễn bằng hình ảnh và chữ viết nếu có[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Ngăn ngừa rủi ro trong quá trình lưu chứa chất thải nguy hại
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Chất nguy hại và chất thải nguy hại chỉ được lưu chứa tạm thời trong những khu vực quy
định, theo tiêu chuẩn, có biển báo từ xa. Lưu chứa một lượng lớn chất thải nguy hại cần có
địa điểm kho đáp ứng về kết cấu, kiến trúc, phòng chống cháy nổ nhằm đảm bảo an toàn,
tránh sự cố rò rỉ, thất thoát ra môi trường xung quanh. Nhà kho đảm bảo một số yêu cầu kỹ
thuật như:
Vận liệu xây dựng không dễ bắt lửa, khung nhà được gia cố bằng thép hay bê tông hay nên
bọc cách nhiệt khung thép. Bê tông, gạch đặc hay gạch bê tông vừa chống cháy tốt vừa có
độ bền và ổn định.
Kết cấu và bố trí đảm bảo các khu vực kín và rộng đều có lối thoát hiểm ít nhất theo hai
đường, có chỉ dẫn rõ ràng, cửa thoát hiểm dễ mở. Thiết kế nhà kho thông gió tốt, sàn
không bị thấm, không có khe nứt, không có đường cống hở trong kho.
Các thiết bị, phương tiện an toàn, ứng phó sự cố được trang bị đầy đủ, các thiết bị điện
phải được nối đất và có bộ ngắt mạch khi rò điện, bảo vệ quá tải.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Ngăn ngừa rủi ro trong quá trình xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Trong quá trình xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại, người lao động tuyệt đối tuân thủ quy
trình kỹ thuật xử lý và an toàn lao động giúp loại trừ chất thải nguy hại vào môi trường.
Các thao tác và xử lý chất thải nguy hại được ghi thành hướng dẫn cụ thể bao gồm cả các
nguy hại khi xảy ra sự cố, cách thức xử lý trước và sau sự cố, kỹ thuật sơ cứu tương ứng.
Ngoài các biện pháp kỹ thuật giảm nhẹ hoặc loại trừ sự cố, việc trang bị phòng hộ cá nhân
cũng được bắt buộc và người lao động phải được huấn luyện sử dụng, thao tác với các
dụng cụ phòng hộ đạt mức thành thạo.
Bên cạnh việc quản lý về mặt kỹ thuật như trên, quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro
chất thải nguy hại nói riêng còn được quản lý về mặt quản lý. Đối với các tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động sản xuất cũng như dịch vụ đều cần tránh rủi ro cho hoạt động của mình.
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] Các biện pháp kỹ thuật ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Một cách tổng quát có thể chia ra thành 3 nhóm kỹ thuật chính:
Giảm thiểu tại nguồn.
Tái sinh.
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Cải tiến sản phẩm.
Mỗi nhóm kỹ thuật trên có thể chia ra thành các tiểu nhóm và trong mỗi tiểu nhóm có thể
có nhiều biện pháp kỹ thuật khác nhau.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Giảm thiểu chất thải tại nguồn
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Thuật ngữ giảm tối thiểu chất thải tại nguồn áp dụng cho các kỹ thuật quản lý hoặc sự thay
đổi quy trình mà cuối cùng là làm giảm khối lượng hoặc độc tính của chất thải đưa đến
khâu xử lý hoặc thải bỏ. Thuật ngữ này không bao gồm các hoạt động đơn thuần cố gắng
giảm tính nguy hại của chất thải về thể tích đến việc giảm độ nguy hiểm.
Một vài thuật ngữ ngăn ngừa ô nhiễm liên quan đến định nghĩa này bao gồm:
Quản lý hoá chất để làm giảm sự cố
Nhận ra và định lượng tất cả những chất cần thải bỏ.
Giảm tối thiểu chất thải
Giảm thiểu tại nguồn bao gồm:
Cải tiến việc quản lý nội tại và vận hành sản xuất
+ Những cải tiến về điều độ sản xuất
+ Ngăn ngừa việc thất thoát và chảy tràn
+ Tách riêng các dòng chất thải
+ Đào tạo nhân sự
Các chương trình ngăn ngừa ô nhiễm có thể thay đổi từ những chương trình nhận thức về ô
nhiễm đơn giảm mà ở đó các nhà quản lý và các công nhân được yêu cầu xác định các cách
thức làm giảm sự phát sinh chất thải, cho tới những chương trình phức tạp đòi hỏi phải bố
trí các nhân sự riêng biệt và rộng hơn nữa - các hoạt động toàn cầu. Trong những trường
hợp đó, các nhân công đóng một vai trò chủ chốt. Một chiến dịch hiệu quả nhằm giảm
thiểu lượng chất thải sinh ra đòi hỏi phải được kết hợp với một chương trình huấn luyện
nhân viên có hiệu quả, dạy nhân viên làm thế nào để nhận biết sự rò rỉ, tràn và thất thoát tài
nguyên vật liệu. Những người vận hành quá trình và các cá nhân bảo trì cần phải được tập
huấn bổ sung chuyên sâu về các phương pháp ngăn ngừa ô nhiễm.
Bảo toàn năng lượng: Năng lượng nhiệt có thể được bảo toàn bằng cách quan tâm đến việc
ngăn ngừa các chất thoát nhiệt năng trong quá trình vận chuyển từ nguồn cung cấp đến nơi
tiêu thụ. Cũng có thể phục hồi và sử dụng nhiệt được sinh ra bởi chính các quy trình sản
xuất. Các nhà máy sản xuất tiêu thụ một khối lượng khổng lồ nhiệt năng cho các quá trình
sản xuất và cho cả các hoạt động sinh hoạt trong nhà máy.
Thay đổi quá trình: Những thay đổi về quá trình liên quan với việc một sản phẩm được tạo
ra như thế nào.
[/font][/font][font="times new roman italic+fpef"][font="times new roman italic+fpef"] Những thay đổi về nguyên liệu đầu vào:
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Thay đổi hẳn nguyên vật liệu có tính độc hại cao bằng những nguyên vật liệu có tính độc
hại thấp hơn hoặc không độc hại. Ví dụ có thể sử dụng các tác nhân tẩy rửa có khả năng
hòa tan trong nước để thay cho các dung môi độc hại.
[/font][/font][font="times new roman bold+fpef"][font="times new roman bold+fpef"] Đẩy mạnh giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và truyền thông môi trường
[/font][/font][font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Sự nghiệp bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân thì mới có môi trường trong sạch
lâu dài. Cần phát động và khuyến khích các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi
trường. Thay đổi nếp sống không phù hợp với bảo vệ môi trường.
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.
[font="times new roman+fpef"][font="times new roman+fpef"] Điều quan trọng là làm sao cho mỗi hộ sản xuất, mỗi chủ xe máy, chỉ xí nghiệp, mỗi lãnh
đạo chính quyền từ phường đến thành phố đều có được những nhận thức, hiểu biết và có
trách nhiệm cao đối với bảo vệ môi trường. Nếu như người ta cứ vứt rác bừa bãi ra đường,
đổ rác xuống sông ngòi, xả nước bẩn ra mặt đường thì không thể bảo đảm được phố
phường sạch - đẹp - vệ sinh.
PGS.TS. Nguyễn Đức Khiển, KS. Nguyễn Văn Hoà - Môi trường và Sức khoẻ, 2010, số
135, tr.17
[/font][/font] Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
[link]http://www.foxitsoftware.com[/link] For evaluation only.