Bên diễn đàn otoxemáy của TTVNOL đang có cuộc tranh luận về cái này, người bảo đúng kẻ bảo sai, em dốt về kỹ thuật nên nhờ các bác phân tích hộ.
(Nguồn: TTVNOL forum)
Nguyên lý: BB 2004 chế tạo dựa trên những giải pháp kỹ thuật sau đây:
a/. Rút ngắn thời gian lượng tử hoá môi trường đốt: Chỉ đưa dòng điện cao áp lên nến điện khi đã đạt trên 2 KV. Năng lượng điện từ trong thời gian nâng điện áp lên thế hỗ cảm được tích trữ trong cuộn dây L. Do đó điện áp > 2KV cung cấp đột ngột làm không gian giữa khe phóng điện được Ion hoá tức thì. Hệ quả là đã loại bỏ khả năng đánh lửa sớm cho động cơ, giảm gánh nặng chỉ số octan cho nhiên liệu. Do đó, không cần dùng xăng có chỉ số octan cao như M92, M95 ... chẳng hạn.
b/. Nổ bằng xung lượng plasma : Trong chu trình nén, năng lượng do bộ đánh lửa tạo ra trên nền điện – từ – đồng - bộ, mau chóng vượt ngưỡng 1,5KV trên cốt - bugi, làm không gian giữa khe bugi được lượng tử hoá thành chuỗi ion. Trong áp suất lớn và điện áp cao, nhiên liệu hoà khí ở đó nhận xung lực điện từ, trở thành plasma tồn tại trong thời gian cực ngắn và cháy cục bộ với nhiệt độ Plasma-xung gần 30.000 độ F, trong thời gian hỗ cảm dưới 1/1000 giây đồng hồ. Nguồn cháy plasma này trao nhiệt năng cho toàn buồng đốt, đốt cháy một phần nhiên liệu lân cận làm thành small-bang đẩy piston về phía tử điểm hạ. Nghĩa là, nếu có biện pháp lượng tử hoá môi trưởng đốt cực nhanh thì môi trường lượng tử chóng xuất hiện, đưa đến hiệu quả dây chuyền là vùng plasma lớn và kéo dài hơn, nhiên liệu được giải phóng hoá năng cao hơn, sinh công lớn hơn, nhiên liệu trong hoà khí cần cho mỗi chu kỳ nổ ít hơn.
c/. Kéo dài thời gian phóng tia lửa điện: Khi dòng điện phóng đột ngột qua khe phóng điện trong môi trường Ion, dòng thác điện tử Maxwell được bồi áp bằng năng lượng tích trữ trong cuộn dây L, phóng mãnh liệt qua khe phóng điện, đốt cháy gần như hoàn toàn nhiên liệu hoà khí. Điện áp phóng qua khe phóng điện không tăng so với điện áp chuẩn tắc nhưng thời gian phóng điện dài hơn. Thời gian này là t = √3 td =1,732 td.
*** Tiểu dẫn : Thời gian đánh lửa dài hơn là để duy trì thác ion, đưa đến thời gian tồn tại plasma dài hơn. Cần phân biệt:
a/.Nổ plasma-bang: Chùm hạt vật chất bị lột bớt điện tử = ion ----> plasma trong không gian lượng tử hoá ----> năng lượng cực kỳ cao - vài vạn độ F (thời gian cực ngắn) - gây nổ với áp lực dữ dội (chỉ thua năng lương nguyên tử và năng lượng dưới hạt).
b/. Cháy nổ: Phân tử lớn + năng lượng cao ----> nhiều phân tử nhỏ hơn ----> năng lượng phân tử giải phóng hàng trăm đến hàng nghìn độ F (thời gian ngắn) - gây nổ với áp lực cao và rất cao.
Như vậy, ở đây duy trì vùng không gian lượng tử dưới kỳ dị là để duy trì plsma lâu hơn, tận dụng năng lượng tập trung của nó để hiệu suất nhiên liệu h cao hơn.
3/. Lưu đồ động lực với trợ thủ BB 2004, lấy mẫu từ xe 100 cm3:
a/. Điện áp phóng không đổi (3Kv) nên hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các bộ phận có liên quan đến phóng tia lửa điện như: CDI (tên thông dụng là IC), Bobine sườn, Bu – gi ...
b/. Đường nổ sớm xem như bị triệt tiêu, công suất nổ ngược không còn nên máy không khua lách cách như trước nữa, vì không phải gánh một năng lượng gây hại nên máy hoạt động nhẹ nhàng, an toàn hơn. Nhiên liệu không yêu cầu quá cao về chỉ số Octan.
***Một số tiểu dẫn quan trọng về nhiên liệu :
Đề cập đến việc dùng các loại xe khác nhau đòi hỏi nhiên liệu có chỉ số octane khác nhau, việc đó rất đúng ... với các phương pháp kích nổ thông thường.
*Trong nhiên liệu có 04 thành phần cơ bản:
I_____1_____I______2_____I_____3_____I_____4_____I
I-phần nhạy nổ 3-phần kháng nổ
2-phần cháy (theo) 4-tạp chất
Trong đó,
1-phần nhạy nổ đo bằng chỉ số kích nổ, gọi là hexane. Nó cháy nhanh và cung cấp xung lực nổ trong điều kiện áp lực và có tia lửa điện. Rất cần cho các động cơ loại 1(một) thì như động cơ turbin của phản lực cơ, tên lửa (chỉ có 1 thì nổ).
2-phần cháy đo bằng trị số nhiệt năng, tức là calori. Nó cần cho mọi loại nhiên liệu, mọi loại động cơ và là thành phần chủ yếu của nhiên liệu.
3-phần chống kích nổ đo bằng hydro cabon trung gian, có tên là octane. Nó có khả năng kìm hãm phản ứng nổ . Quá trình này rất phức tap, nên chỉ nêu giản đơn như sau:
Nhiên liệu trong áp lực và nhiệt độ cao biến đổi thành các phân tử nhỏ hơn
giải phóng năng lượng phân tử gặp octan đa phức tái tạo các mối nối thành
các phân tử lớn trở lại không nổ được).
Về lý thuyết, octane tuyệt đối chống được mọi kích nổ nguyên nhiên liệu. Thành phần này trong nhiên liệu chống không cho hiện tượng "nổ ngoài ý muốn" xảy ra khi chưa có đủ điều kiện ion hóa buồng đốt (tia lửa điên trong giới hạn cho phép của nhiệt độ và áp suất). Thực chất thì áp lực lòng máy lớn (tức là xi - lanh lớn, tốc độ máy - tua máy - cao) thì phải dùng xăng chỉ số octan cao, bugi "nóng" (bugi ngắn và nhỏ). Khi đánh lửa, điện áp tăng từ 0V lên 2KV để ion hoá mãnh liệt vùng không gian khe bugi, trong khoảng điện áp này, xăng thường xuyên bị kích nổ đối với mọi loại xe xăng có lòng máy lớn tạo ra công nổ ngược.
4-tạp chất : khỏi phải nói, nó tạo ra tàn tro cứng làm mòn máy móc...
***Qua đó ta thấy, nếu chạy với xăng có chỉ số octane thấp cho xe dùng pp đánh lửa cổ điển thì xe sẽ gầm máy hơn do công nổ ngược ---> máy nóng và chóng hư hỏng. Máy nổ "giần giật" và khó khởi động khi lòng máy nguội (sáng sớm, hay sau khi rửa xe ...).
*** Sự xuất hiện của BB2004 làm đảo lộn hết những khái niệm chống kích nổ cổ điển. Do khi cao áp đã đến 2KV thì mới được đưa lên bugi nên không thể có hiện tượng kích nổ tự do như đã nói ở trên. Có nghĩa là nhiên liệu thấp octane lại phát huy tác dụng: do thành phần tương đương octane giảm xuống nên năng lượng cháy nhiều hơn, nghĩa là lợi xăng hơn, và còn lợi về giá nữa !!!. Cần nhớ rằng, xăng 80, 83, 90, 92 hay 95 ... đều như nhau về độ tinh khiết mà chỉ khác về chỉ số octan . Nói một cách khác, BB2004 đã cởi bỏ gánh nặng về chỉ số octan của nhiên liệu.
c/. Công suất trung bình tăng lên, cải thiện một loạt vấn đề cơ – nhiệt – động lực của động cơ, tỷ khối nhiên liệu/ hoà khí giảm nên giảm hao tốn nhiên liệu (đến trên 30%).
d/. Khi đưa BB 2004 vào, tỷ lượng nhiên liệu hữu ích tăng lên nên luôn luôn có triệu chứng “dư máy”, nghĩa là vòng quay cốt máy tăng lên so với trước. Do đó cần tiến hành chỉnh chế độ hoà khí cho phù hợp thì mới phát huy được tối đa lợi ích của BB 2004.
e/. Việc điều chỉnh chế độ hoà khí dựa trên phương châm “tăng gió giảm xăng”.
- Đưa lượng không khí lớn hơn vào hoà khí đến khi máy nổ nhanh nhất.
- Giảm lượng xăng để đạt chế độ ralenti (nổ cầm chừng) đạt yêu cầu.
- Ô-tô, kể cả ô-tô phun đa nhiên liệu đều không có gì khác so với dùng carburator.
Bộ chế hoà khí - Carburator 1/. Chỉnh ốc gió đến khi tua 2/. Nới ốc xăng cho máy chậm
(bình xăng con) máy cao nhất, nổ tròn tiếng. tua vừa đủ.
*Chú ý: Khi thay đổi tình trạng hoạt động của động cơ, nên chỉnh lại như hướng dẫn. Cần thực hiện cân chỉnh cho đến khi đạt hiệu quả động lực và tiết kiệm nhiên liệu tối đa.
4/. Hiện tượng, tính năng và hiệu quả của ô – tô, xe máy sử dụng BB2004.
a/. Hiện tượng: (Phenomenon)
- Ngọn lửa điện dài gấp 03 lần so với khi chưa có BB2004.
- Vùng phóng điện rộng trên toàn bề mặt khe phóng điện.
- Màu tia lửa điện từ đỏ thẫm đến tím, biểu hiện bồi áp mạnh mẽ, tia lửa điện đều và đồng nhất, bảo đảm điều kiện nổ tốt nhất cho động cơ.
b/. Tính năng và hiệu quả khi dùng BB 2004:
- Lắp đặt đơn giản, thuận tiện kể cả với người dùng không rành về máy móc.
- Máy khởi động tốt hơn, nổ êm hơn và rất trực quan.
- Máy chạy mạnh hơn, ít nhả khói, các cơ phận liên quan sạch hơn nhiều.
- Máy nguội hơn tuổi thọ máy cao hơn, giảm chi phí bảo trì máy.
- Giảm nhiên liệu / Km hành trình so với trước, có thể đến trên 30%.
*** Một số tiểu dẫn quan trọng về hiệu suất nhiên liệu trong mối liên hệ với độ bền máy và ít tổn hao nhiên liệu :
1/. Năng lượng của hỗn hợp hoà khí trong một lòng máy của một máy nổ xác định, nổ với vận tốc nhất định, có thể qui về một hằng số. Ví dụ 1000 Calories chẳng hạn. Việc chuyển hoá hoá năng các dạng, dù phức tạp thế nào cũng không vượt khỏi nguyên lý Carno được: W1 < W0. (năng lượng thứ cấp luôn nhỏ hơn năng lượng nguồn sơ cấp).
2/. Kết quả chuyển hoá hoá năng của phần nhiên liệu hoà khí này là năng lượng biến dung, chia làm 04 thành phần:
a/. Cơ năng duy trì sự hoạt động liên tục của hệ thống (thắng ma sát nội tại, tích luỹ thành moment trong bánh đà .v.v ...) w11.
b/. Cơ năng sử dụng cho mục đích ngoài hệ thống (tạo động lực, tạo moment công tác .v .v ...). w12.
c/. Năng lượng không biến đổi được thành cơ năng (cung cấp năng lượng phân ly cho các phân tử vật chất cấu tạo máy làm hư hại chúng, chuyển thành nhiệt năng làm nóng máy.v.v...) w13.
d/. Năng lượng tiêu tán (tia nhiệt trong phổ hồng ngoại, hoá năng để kết hợp các thành phần hoà khí thành NOx, COx, NHCOx, FeOx .v.v....).w14.
3/. Trong total năng lượng, theo ví dụ trên thì: (W1 = w11 + w12 + w13 + w14) < (W1 = 1000 Calories). Trong đó chỉ có w12 là mục tiêu của nhân loại - nói riêng máy nổ - mà thôi. Có 02 phương thức (quan điểm ?) đánh giá:
* h = (w11 + w12) / Wo. Gọi là hiệu suất năng lượng. Đây là phương thức chủ yếu trong đánh giá khoa học thực nghiệm.
*k = (w11 + w12) / (w13 + w14). Gọi là hiệu suất kỹ thuật. Đây là phương thức đánh giá chủ yếu trong công nghiệp.
4/. Nhân xét:
a/. Với một máy cụ thể, w11 gần như hằng số trong hàm thống kê, có thể loại bỏ khi xét chỉ trên một máy.
b/. Hiệu suất năng lượng cao (w12 lớn) thì các thành phần vô ích càng nhỏ. Ngược lại, w13 lớn ----> nóng máy, hao mòn nhanh....; w14 lớn ----> ô nhiễm môi trường nặng .....
c/. k > h . Dùng k là một chiêu bài của giới kỹ thuật, nhà sản xuất, làm người ta hiểu sai về hiệu quả toàn năng của xe, máy.
(Nguồn: TTVNOL forum)
Nguyên lý: BB 2004 chế tạo dựa trên những giải pháp kỹ thuật sau đây:
a/. Rút ngắn thời gian lượng tử hoá môi trường đốt: Chỉ đưa dòng điện cao áp lên nến điện khi đã đạt trên 2 KV. Năng lượng điện từ trong thời gian nâng điện áp lên thế hỗ cảm được tích trữ trong cuộn dây L. Do đó điện áp > 2KV cung cấp đột ngột làm không gian giữa khe phóng điện được Ion hoá tức thì. Hệ quả là đã loại bỏ khả năng đánh lửa sớm cho động cơ, giảm gánh nặng chỉ số octan cho nhiên liệu. Do đó, không cần dùng xăng có chỉ số octan cao như M92, M95 ... chẳng hạn.
b/. Nổ bằng xung lượng plasma : Trong chu trình nén, năng lượng do bộ đánh lửa tạo ra trên nền điện – từ – đồng - bộ, mau chóng vượt ngưỡng 1,5KV trên cốt - bugi, làm không gian giữa khe bugi được lượng tử hoá thành chuỗi ion. Trong áp suất lớn và điện áp cao, nhiên liệu hoà khí ở đó nhận xung lực điện từ, trở thành plasma tồn tại trong thời gian cực ngắn và cháy cục bộ với nhiệt độ Plasma-xung gần 30.000 độ F, trong thời gian hỗ cảm dưới 1/1000 giây đồng hồ. Nguồn cháy plasma này trao nhiệt năng cho toàn buồng đốt, đốt cháy một phần nhiên liệu lân cận làm thành small-bang đẩy piston về phía tử điểm hạ. Nghĩa là, nếu có biện pháp lượng tử hoá môi trưởng đốt cực nhanh thì môi trường lượng tử chóng xuất hiện, đưa đến hiệu quả dây chuyền là vùng plasma lớn và kéo dài hơn, nhiên liệu được giải phóng hoá năng cao hơn, sinh công lớn hơn, nhiên liệu trong hoà khí cần cho mỗi chu kỳ nổ ít hơn.
c/. Kéo dài thời gian phóng tia lửa điện: Khi dòng điện phóng đột ngột qua khe phóng điện trong môi trường Ion, dòng thác điện tử Maxwell được bồi áp bằng năng lượng tích trữ trong cuộn dây L, phóng mãnh liệt qua khe phóng điện, đốt cháy gần như hoàn toàn nhiên liệu hoà khí. Điện áp phóng qua khe phóng điện không tăng so với điện áp chuẩn tắc nhưng thời gian phóng điện dài hơn. Thời gian này là t = √3 td =1,732 td.
*** Tiểu dẫn : Thời gian đánh lửa dài hơn là để duy trì thác ion, đưa đến thời gian tồn tại plasma dài hơn. Cần phân biệt:
a/.Nổ plasma-bang: Chùm hạt vật chất bị lột bớt điện tử = ion ----> plasma trong không gian lượng tử hoá ----> năng lượng cực kỳ cao - vài vạn độ F (thời gian cực ngắn) - gây nổ với áp lực dữ dội (chỉ thua năng lương nguyên tử và năng lượng dưới hạt).
b/. Cháy nổ: Phân tử lớn + năng lượng cao ----> nhiều phân tử nhỏ hơn ----> năng lượng phân tử giải phóng hàng trăm đến hàng nghìn độ F (thời gian ngắn) - gây nổ với áp lực cao và rất cao.
Như vậy, ở đây duy trì vùng không gian lượng tử dưới kỳ dị là để duy trì plsma lâu hơn, tận dụng năng lượng tập trung của nó để hiệu suất nhiên liệu h cao hơn.
3/. Lưu đồ động lực với trợ thủ BB 2004, lấy mẫu từ xe 100 cm3:
a/. Điện áp phóng không đổi (3Kv) nên hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các bộ phận có liên quan đến phóng tia lửa điện như: CDI (tên thông dụng là IC), Bobine sườn, Bu – gi ...
b/. Đường nổ sớm xem như bị triệt tiêu, công suất nổ ngược không còn nên máy không khua lách cách như trước nữa, vì không phải gánh một năng lượng gây hại nên máy hoạt động nhẹ nhàng, an toàn hơn. Nhiên liệu không yêu cầu quá cao về chỉ số Octan.
***Một số tiểu dẫn quan trọng về nhiên liệu :
Đề cập đến việc dùng các loại xe khác nhau đòi hỏi nhiên liệu có chỉ số octane khác nhau, việc đó rất đúng ... với các phương pháp kích nổ thông thường.
*Trong nhiên liệu có 04 thành phần cơ bản:
I_____1_____I______2_____I_____3_____I_____4_____I
I-phần nhạy nổ 3-phần kháng nổ
2-phần cháy (theo) 4-tạp chất
Trong đó,
1-phần nhạy nổ đo bằng chỉ số kích nổ, gọi là hexane. Nó cháy nhanh và cung cấp xung lực nổ trong điều kiện áp lực và có tia lửa điện. Rất cần cho các động cơ loại 1(một) thì như động cơ turbin của phản lực cơ, tên lửa (chỉ có 1 thì nổ).
2-phần cháy đo bằng trị số nhiệt năng, tức là calori. Nó cần cho mọi loại nhiên liệu, mọi loại động cơ và là thành phần chủ yếu của nhiên liệu.
3-phần chống kích nổ đo bằng hydro cabon trung gian, có tên là octane. Nó có khả năng kìm hãm phản ứng nổ . Quá trình này rất phức tap, nên chỉ nêu giản đơn như sau:
Nhiên liệu trong áp lực và nhiệt độ cao biến đổi thành các phân tử nhỏ hơn
giải phóng năng lượng phân tử gặp octan đa phức tái tạo các mối nối thành
các phân tử lớn trở lại không nổ được).
Về lý thuyết, octane tuyệt đối chống được mọi kích nổ nguyên nhiên liệu. Thành phần này trong nhiên liệu chống không cho hiện tượng "nổ ngoài ý muốn" xảy ra khi chưa có đủ điều kiện ion hóa buồng đốt (tia lửa điên trong giới hạn cho phép của nhiệt độ và áp suất). Thực chất thì áp lực lòng máy lớn (tức là xi - lanh lớn, tốc độ máy - tua máy - cao) thì phải dùng xăng chỉ số octan cao, bugi "nóng" (bugi ngắn và nhỏ). Khi đánh lửa, điện áp tăng từ 0V lên 2KV để ion hoá mãnh liệt vùng không gian khe bugi, trong khoảng điện áp này, xăng thường xuyên bị kích nổ đối với mọi loại xe xăng có lòng máy lớn tạo ra công nổ ngược.
4-tạp chất : khỏi phải nói, nó tạo ra tàn tro cứng làm mòn máy móc...
***Qua đó ta thấy, nếu chạy với xăng có chỉ số octane thấp cho xe dùng pp đánh lửa cổ điển thì xe sẽ gầm máy hơn do công nổ ngược ---> máy nóng và chóng hư hỏng. Máy nổ "giần giật" và khó khởi động khi lòng máy nguội (sáng sớm, hay sau khi rửa xe ...).
*** Sự xuất hiện của BB2004 làm đảo lộn hết những khái niệm chống kích nổ cổ điển. Do khi cao áp đã đến 2KV thì mới được đưa lên bugi nên không thể có hiện tượng kích nổ tự do như đã nói ở trên. Có nghĩa là nhiên liệu thấp octane lại phát huy tác dụng: do thành phần tương đương octane giảm xuống nên năng lượng cháy nhiều hơn, nghĩa là lợi xăng hơn, và còn lợi về giá nữa !!!. Cần nhớ rằng, xăng 80, 83, 90, 92 hay 95 ... đều như nhau về độ tinh khiết mà chỉ khác về chỉ số octan . Nói một cách khác, BB2004 đã cởi bỏ gánh nặng về chỉ số octan của nhiên liệu.
c/. Công suất trung bình tăng lên, cải thiện một loạt vấn đề cơ – nhiệt – động lực của động cơ, tỷ khối nhiên liệu/ hoà khí giảm nên giảm hao tốn nhiên liệu (đến trên 30%).
d/. Khi đưa BB 2004 vào, tỷ lượng nhiên liệu hữu ích tăng lên nên luôn luôn có triệu chứng “dư máy”, nghĩa là vòng quay cốt máy tăng lên so với trước. Do đó cần tiến hành chỉnh chế độ hoà khí cho phù hợp thì mới phát huy được tối đa lợi ích của BB 2004.
e/. Việc điều chỉnh chế độ hoà khí dựa trên phương châm “tăng gió giảm xăng”.
- Đưa lượng không khí lớn hơn vào hoà khí đến khi máy nổ nhanh nhất.
- Giảm lượng xăng để đạt chế độ ralenti (nổ cầm chừng) đạt yêu cầu.
- Ô-tô, kể cả ô-tô phun đa nhiên liệu đều không có gì khác so với dùng carburator.
Bộ chế hoà khí - Carburator 1/. Chỉnh ốc gió đến khi tua 2/. Nới ốc xăng cho máy chậm
(bình xăng con) máy cao nhất, nổ tròn tiếng. tua vừa đủ.
*Chú ý: Khi thay đổi tình trạng hoạt động của động cơ, nên chỉnh lại như hướng dẫn. Cần thực hiện cân chỉnh cho đến khi đạt hiệu quả động lực và tiết kiệm nhiên liệu tối đa.
4/. Hiện tượng, tính năng và hiệu quả của ô – tô, xe máy sử dụng BB2004.
a/. Hiện tượng: (Phenomenon)
- Ngọn lửa điện dài gấp 03 lần so với khi chưa có BB2004.
- Vùng phóng điện rộng trên toàn bề mặt khe phóng điện.
- Màu tia lửa điện từ đỏ thẫm đến tím, biểu hiện bồi áp mạnh mẽ, tia lửa điện đều và đồng nhất, bảo đảm điều kiện nổ tốt nhất cho động cơ.
b/. Tính năng và hiệu quả khi dùng BB 2004:
- Lắp đặt đơn giản, thuận tiện kể cả với người dùng không rành về máy móc.
- Máy khởi động tốt hơn, nổ êm hơn và rất trực quan.
- Máy chạy mạnh hơn, ít nhả khói, các cơ phận liên quan sạch hơn nhiều.
- Máy nguội hơn tuổi thọ máy cao hơn, giảm chi phí bảo trì máy.
- Giảm nhiên liệu / Km hành trình so với trước, có thể đến trên 30%.
*** Một số tiểu dẫn quan trọng về hiệu suất nhiên liệu trong mối liên hệ với độ bền máy và ít tổn hao nhiên liệu :
1/. Năng lượng của hỗn hợp hoà khí trong một lòng máy của một máy nổ xác định, nổ với vận tốc nhất định, có thể qui về một hằng số. Ví dụ 1000 Calories chẳng hạn. Việc chuyển hoá hoá năng các dạng, dù phức tạp thế nào cũng không vượt khỏi nguyên lý Carno được: W1 < W0. (năng lượng thứ cấp luôn nhỏ hơn năng lượng nguồn sơ cấp).
2/. Kết quả chuyển hoá hoá năng của phần nhiên liệu hoà khí này là năng lượng biến dung, chia làm 04 thành phần:
a/. Cơ năng duy trì sự hoạt động liên tục của hệ thống (thắng ma sát nội tại, tích luỹ thành moment trong bánh đà .v.v ...) w11.
b/. Cơ năng sử dụng cho mục đích ngoài hệ thống (tạo động lực, tạo moment công tác .v .v ...). w12.
c/. Năng lượng không biến đổi được thành cơ năng (cung cấp năng lượng phân ly cho các phân tử vật chất cấu tạo máy làm hư hại chúng, chuyển thành nhiệt năng làm nóng máy.v.v...) w13.
d/. Năng lượng tiêu tán (tia nhiệt trong phổ hồng ngoại, hoá năng để kết hợp các thành phần hoà khí thành NOx, COx, NHCOx, FeOx .v.v....).w14.
3/. Trong total năng lượng, theo ví dụ trên thì: (W1 = w11 + w12 + w13 + w14) < (W1 = 1000 Calories). Trong đó chỉ có w12 là mục tiêu của nhân loại - nói riêng máy nổ - mà thôi. Có 02 phương thức (quan điểm ?) đánh giá:
* h = (w11 + w12) / Wo. Gọi là hiệu suất năng lượng. Đây là phương thức chủ yếu trong đánh giá khoa học thực nghiệm.
*k = (w11 + w12) / (w13 + w14). Gọi là hiệu suất kỹ thuật. Đây là phương thức đánh giá chủ yếu trong công nghiệp.
4/. Nhân xét:
a/. Với một máy cụ thể, w11 gần như hằng số trong hàm thống kê, có thể loại bỏ khi xét chỉ trên một máy.
b/. Hiệu suất năng lượng cao (w12 lớn) thì các thành phần vô ích càng nhỏ. Ngược lại, w13 lớn ----> nóng máy, hao mòn nhanh....; w14 lớn ----> ô nhiễm môi trường nặng .....
c/. k > h . Dùng k là một chiêu bài của giới kỹ thuật, nhà sản xuất, làm người ta hiểu sai về hiệu quả toàn năng của xe, máy.
Chủ đề tương tự
Người đăng:
Undertaker
Ngày đăng:
Người đăng:
DNLauto
Ngày đăng:
Người đăng:
Toan Toyota Tas
Ngày đăng: