Tài sản được cho tặng trong thời kỳ hôn nhân được chia làm 2 trường hợp. Tài sản được cho tặng chung và tài sản cho tặng riêng. Nếu là tài sản cho riêng vợ hoặc chồng thì đó là tài sản riêng, khi nào là cho tặng chung thì mới là tài sản chung. Cái này được Luật quy định rất rõ, không nhập nhằng. Tuy nhiên, người Việt mình lúc trước thường không có thói quen làm hợp đồng cho tặng, vì vậy gần như tài sản được cho tặng riêng cuối cùng đều không có giấy tờ chứng minh, và vì vậy bị xử là tài sản chung. Ví dụ cha mẹ mua xe hơi cho con, xây nhà cho con, thanh toán tiền mua nhà cho con, ... Dù là chuyển tiền đi từ tài khoản của ba mẹ, nhưng lại không có giấy tờ ghi rõ đây là tặng riêng cho con mình, chứ không phải cho cả con rể hoặc con dâu, vì vậy cuối cùng vẫn sẽ bị xem là tài sản chung.
Cho nên mọi người nên rút kinh nghiệm, cho cái gì thì phải làm hợp đồng công chứng rõ là cho riêng, chứ không phải im lặng, rồi đến lúc tòa xử thì họ sẽ xem là cho chung, dù rõ ràng chứng minh được tiền thanh toán là từ tài khoản của mình. Thậm chí là con cái nhận được tiền do bố mẹ cho tặng, có hợp đồng đàng hoàng, nhưng lại mang số tiền đó đi trả nợ cho căn nhà đang đứng tên chung, đến lúc chia nhà thì vẫn bị tính là 5-5 mà thôi. Tòa sẽ xem như phần tiền nhận được từ ba mẹ đó, đã được người con mang ra gộp vào tài sản chung, cho nên trở thành tài sản chung. Muốn giữ được số tiền này thì phải làm thêm một hợp đồng, hoặc cam kết, ghi rõ số tiền trả nợ đó là tài sản riêng của người con góp vào.
Trường hợp của bạn gì ở trên, bị bên công chứng làm khó dễ là do bên đó nhát hay không muốn rắc rối. Chứ như nhà mình, ba mình cho chú mượn tiền mua nhà, nhưng vì không thích vợ chú nên đã trực tiếp mua, rồi làm hợp đồng cho tặng chú, đến lúc bán nhà đâu có cần chữ ký của thím đâu, thậm chí đến lúc ly dị, Tòa cũng vẫn xử đó là tài sản riêng.