QBL nói:đây ạ các bác
Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
c) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
d) Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
e) Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
2. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bao gồm:
a) Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng quy định tại các điều 90, 92, 94 và 96 của Luật này;
b) Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải được tiến hành theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
c) Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
d) Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính.
và đây là link http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=27806
Bác nói là bác nhờ người khác chứng minh là bác không vi phạm bằng cách Ủy quyền bằng MIỆNG cho người đó. Ok, luật không cấm. Vậy nếu CSGT hỏi bác, bác có bằng chứng gì để chứng minh cho việc ủy quyền này không thì sao? Bác sẽ nói là tui vừa ủy quyền bằng miệng xong, CSGT sẽ nói tôi không nghe gì cả. Vậy, bác làm thế nào? Bác không có bằng chứng làm căn cứ ủy quyền thì CSGT cũng có quyền từ chối làm việc với người mà bác gọi là được ủy quyền. Cái kiểu cách này gọi là nói ngang; Khi đó bác cũng nói ngang và CSGT cũng có quyền nói ngang!
Trong trường hợp của bác, thì hay nhất là nhờ người ta hướng dẫn cho bác, rồi bác trực tiếp trao đổi với CSGT chư không thể sử dụng cái ủy quyền MIỆNG ra mà đặt vấn đề lý lẽ được.
Còn làm như bác thì không có lợi cho bác 1 chút nào cả vì CSGT lập biên bản, bác không ký, CSGT nhờ người ký vào mục người làm chứng, thì cũng vậy. Rồi sau đó bác đến đội khiếu nại thì cũng không giải quyết được gì cả. Luật không cấm bác, cũng không cấm họ. Bác lên Đội giải thích thì họ gọi 1 ông xe ôm vào và nói trước mặt bác là "Tôi ABC ủy quyền cho ông DEF làm nghề chạy xe ôm tiếp nhận ý kiến của anh GHK....bla bla" thì gậy ông đập lưng ông.
Đây là em suy diễn thôi ạ.
Last edited by a moderator: