Mâu và Thuẩn
Mâu và Thuẩn là trung tâm của sự phát triển nền khoa học quân sự. Nói một cách dể hiểu :
Khoa học chiến tranh giải quyết các cuộc chiến tranh.
Chiến tranh dùng để giải quyết xung đột.
Và xung đột bắt nguồn từ mâu thuẩn.
Các cuộc chạy đua vũ trang từ ngàn xưa luôn nhằm vào mục đích tạo ra cái Mâu chọc thủng Thuẩn của đối phương, hoặc tạo ra cái Thuẩn để chắn đở phát Mâu của đối phương.
Nói về sách lược quân sự hiện đại, ta nói đến việc che chắn điểm yếu để tránh né điểm mạnh của quân địch, trong khi đó lại cơ động điểm mạnh đánh vào điểm yếu của đối phương theo Manuever Warfare, đấy chẳng qua cũng chỉ là tư duy Mâu-Thuẩn từ ngàn xưa. Điểm khác biệt từ thời gươm đao giáo mác và chiến tranh hạt nhân thời nay chỉ nằm ở chổ trải qua cách mạng công nghiệp và cách mạng hậu công nghiệp khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cho ra đời nhiều loại vũ khí mới, cũng như cách đánh mới. Nhưng tư duy quân sự thì không hề mới.
Hãy nhìn vài ví dụ nho nhỏ trong cuộc chạy đua vũ trang của Tank:
Đầu WWI, không nước nào có Tank.
Cuối WWI, Tank ra đời và được thiết kế để chịu được đòn từ bộ binh(súng máy) và tấn công bộ binh cũng như các công sự bộ binh.
Nghĩa là thời này Tank chính là cái Mâu mới được phát triển, nhưng cái Thuẩn để chống Tank thì chưa ra đời.
WWII, người ta tìm đủ mọi phương thức để chống lại tank của đối phương, và phương thức hay được sử dụng nhất đó là Pháo Chống Tank Tự Hành, hay còn gọi là Pháo Tự Hành chung chung. Từ tư duy chế ra cái Thuẩn để chống lại cái Mâu là Tank, Su-76 trang bị pháo chống tank 76mm, Su-100 trang bị pháo 100mm, và Su-152 trang bị pháo 152mm ra đời.
Để chống được Tank, các Tank Destroyer thường có giáp rất dày để chịu được đạn của Tank( đạn Tank thông thường có mục đích chính là diệt bộ binh và công sự, mục đích diệt tank là mục tiêu thứ 2) và pháo của Tank Destroyer phải dịêt được tank.
Từ cái Mâu tiến công vào bộ binh mà gần như không bị đe doạ, Tank phải đối mặt với mối nguy hiểm đang rình rập mình.
Một ví dụ cho thấy cách biên chế chiến đấu của Liên Xô vào năm 1941:
Mechanized Corp (Quân Đoàn Cơ Giới) biên chế đủ có 246 Tank hạng Trung và Nặng bao gồm (183 T-34, 21 SU-76, 21 SU-122 , 21 SU-152) đi kèm theo là 1 đến 3 lử tank hạng nhẹ, 9 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng trường, 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng máy(thường là PPSh), 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh Cơ Giới (thường là Katyusa, pháo thông thường nhưng có kèm theo máy kéo, pháo tự hành các loại)
Chúng ta có thể thấy ngay trong bản thân của 1 Quân Đoàn Cơ Giới lực lượng Pháo Chống Tank Tự Hành chiếm vai trò khá quan trong của SU-76, SU-122, SU-152.
Về tính hiệu quả của các Tank Destroyer thì không cần phải bàn cải, một Tank Destroyer thường có giáp thừa sức chịu được đòn trực diện từ các chiếc Tank cùng thời, nhưng thông thường Tank không thể chịu nổi 1 phát đạn của Tank Destroyer.
Một ví dụ tiêu biểu cho sự hiệu quả của Tank Destroyer: thiếu tá Sankovskiy đã nhận được danh hiệu Anh Hùng Liên Xô với thành tích trong 1 ngày tổ lái của ông hạ được 10 chiếc Tank của Đức.
Kể từ sau WWII, chúng ta chứng kiến một cuộc chạy đua giửa Mâu và Thuẩn ngay trong bản thân sự phát triển của Tank các loại. Khi một chủng loại tank củ như M-48 với giáp trước chỉ có 120mm dể dàng bị hạ gục bởi đạn 100mm của T55, người Mỹ phát triển M60 với giáp trước 150mm.
Súng chính của M-48 là 90mm, gặp nhiều khó khăn trong việc xuyên giáp của T-55 và M-60 ngay lập tức sử dụng pháo 105mm.
Khi người Mỹ thiết kế M-1, họ bất ngờ khi nhận ra rằng đạn pháo HE thông thường của M-1 không xuyên được giáp trước của T-72. Thế là đạn Sabot Uranium Giảm Xạ ra đời.
Người Nga nhận ra đầu đạn Sabot DU có thể đe doạ tank của họ, họ chế ra ERA thế hệ mới vừa có thể bảo vệ Tank trước đầu HE vừa có thể bảo vệ tank dưới đầu đạn xuyên Sabot. Thế là Kontakt-5 ra đời.
Người Mỹ nhận ra Kontakt-5 rẻ tiền và có thể dể dàng trang bị cho các quân đội lạc hậu xài T-72 để chống lại M-1 hiện đại của họ, họ cải tiến đầu xuyên Sabot M829A1 thành M829A2 và M829A3 tăng khả năng xuyên và chống lại Kontakt-5.
Người Nga thấy thế lại cải tiến Kontakt-5 thành loại Relikt có hiệu quả cao gấp đôi sử dụng cho T-90 và loại Kaktus đựơc sử dụng trên mẫu tank thử nghiệm T-2000 Black Eagle
...... và cuộc đua không dừng lại ở đấy.
Hệ quả của cuộc chạy đua của Tank đó chính là Tank ngày càng khác đi mục đích xa xưa của nó. Từ khởi điểm giáp của Tank chỉ vào khoảng 15~20mm, pháo chính gồm nhiều khẩu đại liên và pháo 46mm, pháo 30mm, pháo 23mm các loại ngày nay tank sử dụng pháo chính với nòng 120mm hay 125mm và chủng loại tank thế hệ 5 có thể dùng pháo đến 135mm 140mm hay 155mm.
Thời WWI Tank thiết kế chỉ để chịu đựơc hoả lực bộ binh và để tiến công vào bộ binh. Giáp mỏng và súng chính nhỏ để dịêt bộ binh.
Giờ đây sau bao nhiêu cuộc chạy đua về vỏ giáp để chống lại pháo của đối phương, trang bị pháo mạnh hơn để xuyên vỏ giáp của đối phương các chiếc Tank trở nên cồng kềnh, nặng nề, pháo chính của tank rất to và cơ số đạn thấp nên cũng không hiệu quả lắm cho việc tiêu diệt bộ binh. Còn đại liên kẹp nòng của Tank thì hiệu quả rất hạn chế do pháo chính cồng kềnh và nặng nề, góc tà của pháo cũng bị hạn chế. Tank ngày nay đã trở thành Tank Destroyer có tích hợp chút khả năng chống bộ binh và công sự. Thế là cụm từ Tank Destroyer mãi mãi chôn vùi ở WWII.
Để lấp vào khoản trống của việc tiêu diệt bộ binh của Tank, người ta thiết kế ra vô số loại tank nhẹ chuyên đánh bộ binh.
Nhưng bộ binh cũng không hề thua kém, họ tìm đến các vũ khí chống tank cầm tay cơ động và gọn nhẹ.
Khi tank hạng nhẹ các loại trở nên kém cỏi trong vịêc chống lại bộ binh trên đường phố. Người ta cho ra đời con Tank quái thai BMP-T với khung gầm và giáp dày của MBT nhưng lại trang bị hoả lực chống bộ binh là chủ yếu.
Cuộc chiến chỉ ở sự phát triển của Tank mà còn nằm ở nhiều khía cạnh khác.
Chẳng hạn như khi người Mỹ nghĩ ra hệ thống C[sup]4[/sup]I để cải thiện khả năng tác chiến của họ, người Nga nghĩ ra Krasnopol để có thể dể dàng tiêu diệt các hệ thống C[sup]4[/sup]I lẩn trốn sau chiến tuyến của Mỹ. Người Mỹ nghĩ đến phương pháp làm nhiểu đầu đạn Krasnopol và người Nga đẻ ra Krasnopol-M chống nhiểu .
Tương tự cũng xãy ra với việc chay đua giửa máy bay và radar. Máy bay tàng hình và vũ khí có thể tiến công máy bay tàng hình, cuộc đua của Mâu và Thuẩn cứ tiếp tục và chúng ta có thể dự đoán hình thái của chiến tranh tương lai dựa trên sự phát triển từng bước của chiến tranh từ xa xưa.
Mâu và Thuẩn là trung tâm của sự phát triển nền khoa học quân sự. Nói một cách dể hiểu :
Khoa học chiến tranh giải quyết các cuộc chiến tranh.
Chiến tranh dùng để giải quyết xung đột.
Và xung đột bắt nguồn từ mâu thuẩn.
Các cuộc chạy đua vũ trang từ ngàn xưa luôn nhằm vào mục đích tạo ra cái Mâu chọc thủng Thuẩn của đối phương, hoặc tạo ra cái Thuẩn để chắn đở phát Mâu của đối phương.
Nói về sách lược quân sự hiện đại, ta nói đến việc che chắn điểm yếu để tránh né điểm mạnh của quân địch, trong khi đó lại cơ động điểm mạnh đánh vào điểm yếu của đối phương theo Manuever Warfare, đấy chẳng qua cũng chỉ là tư duy Mâu-Thuẩn từ ngàn xưa. Điểm khác biệt từ thời gươm đao giáo mác và chiến tranh hạt nhân thời nay chỉ nằm ở chổ trải qua cách mạng công nghiệp và cách mạng hậu công nghiệp khoa học công nghệ phát triển vượt bậc cho ra đời nhiều loại vũ khí mới, cũng như cách đánh mới. Nhưng tư duy quân sự thì không hề mới.
Hãy nhìn vài ví dụ nho nhỏ trong cuộc chạy đua vũ trang của Tank:
Đầu WWI, không nước nào có Tank.
Cuối WWI, Tank ra đời và được thiết kế để chịu được đòn từ bộ binh(súng máy) và tấn công bộ binh cũng như các công sự bộ binh.
Nghĩa là thời này Tank chính là cái Mâu mới được phát triển, nhưng cái Thuẩn để chống Tank thì chưa ra đời.
WWII, người ta tìm đủ mọi phương thức để chống lại tank của đối phương, và phương thức hay được sử dụng nhất đó là Pháo Chống Tank Tự Hành, hay còn gọi là Pháo Tự Hành chung chung. Từ tư duy chế ra cái Thuẩn để chống lại cái Mâu là Tank, Su-76 trang bị pháo chống tank 76mm, Su-100 trang bị pháo 100mm, và Su-152 trang bị pháo 152mm ra đời.
Để chống được Tank, các Tank Destroyer thường có giáp rất dày để chịu được đạn của Tank( đạn Tank thông thường có mục đích chính là diệt bộ binh và công sự, mục đích diệt tank là mục tiêu thứ 2) và pháo của Tank Destroyer phải dịêt được tank.
Từ cái Mâu tiến công vào bộ binh mà gần như không bị đe doạ, Tank phải đối mặt với mối nguy hiểm đang rình rập mình.
Một ví dụ cho thấy cách biên chế chiến đấu của Liên Xô vào năm 1941:
Mechanized Corp (Quân Đoàn Cơ Giới) biên chế đủ có 246 Tank hạng Trung và Nặng bao gồm (183 T-34, 21 SU-76, 21 SU-122 , 21 SU-152) đi kèm theo là 1 đến 3 lử tank hạng nhẹ, 9 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng trường, 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh Cơ Giới trang bị súng máy(thường là PPSh), 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh Cơ Giới (thường là Katyusa, pháo thông thường nhưng có kèm theo máy kéo, pháo tự hành các loại)
Chúng ta có thể thấy ngay trong bản thân của 1 Quân Đoàn Cơ Giới lực lượng Pháo Chống Tank Tự Hành chiếm vai trò khá quan trong của SU-76, SU-122, SU-152.
Về tính hiệu quả của các Tank Destroyer thì không cần phải bàn cải, một Tank Destroyer thường có giáp thừa sức chịu được đòn trực diện từ các chiếc Tank cùng thời, nhưng thông thường Tank không thể chịu nổi 1 phát đạn của Tank Destroyer.
Một ví dụ tiêu biểu cho sự hiệu quả của Tank Destroyer: thiếu tá Sankovskiy đã nhận được danh hiệu Anh Hùng Liên Xô với thành tích trong 1 ngày tổ lái của ông hạ được 10 chiếc Tank của Đức.
Kể từ sau WWII, chúng ta chứng kiến một cuộc chạy đua giửa Mâu và Thuẩn ngay trong bản thân sự phát triển của Tank các loại. Khi một chủng loại tank củ như M-48 với giáp trước chỉ có 120mm dể dàng bị hạ gục bởi đạn 100mm của T55, người Mỹ phát triển M60 với giáp trước 150mm.
Súng chính của M-48 là 90mm, gặp nhiều khó khăn trong việc xuyên giáp của T-55 và M-60 ngay lập tức sử dụng pháo 105mm.
Khi người Mỹ thiết kế M-1, họ bất ngờ khi nhận ra rằng đạn pháo HE thông thường của M-1 không xuyên được giáp trước của T-72. Thế là đạn Sabot Uranium Giảm Xạ ra đời.
Người Nga nhận ra đầu đạn Sabot DU có thể đe doạ tank của họ, họ chế ra ERA thế hệ mới vừa có thể bảo vệ Tank trước đầu HE vừa có thể bảo vệ tank dưới đầu đạn xuyên Sabot. Thế là Kontakt-5 ra đời.
Người Mỹ nhận ra Kontakt-5 rẻ tiền và có thể dể dàng trang bị cho các quân đội lạc hậu xài T-72 để chống lại M-1 hiện đại của họ, họ cải tiến đầu xuyên Sabot M829A1 thành M829A2 và M829A3 tăng khả năng xuyên và chống lại Kontakt-5.
Người Nga thấy thế lại cải tiến Kontakt-5 thành loại Relikt có hiệu quả cao gấp đôi sử dụng cho T-90 và loại Kaktus đựơc sử dụng trên mẫu tank thử nghiệm T-2000 Black Eagle
...... và cuộc đua không dừng lại ở đấy.
Hệ quả của cuộc chạy đua của Tank đó chính là Tank ngày càng khác đi mục đích xa xưa của nó. Từ khởi điểm giáp của Tank chỉ vào khoảng 15~20mm, pháo chính gồm nhiều khẩu đại liên và pháo 46mm, pháo 30mm, pháo 23mm các loại ngày nay tank sử dụng pháo chính với nòng 120mm hay 125mm và chủng loại tank thế hệ 5 có thể dùng pháo đến 135mm 140mm hay 155mm.
Thời WWI Tank thiết kế chỉ để chịu đựơc hoả lực bộ binh và để tiến công vào bộ binh. Giáp mỏng và súng chính nhỏ để dịêt bộ binh.
Giờ đây sau bao nhiêu cuộc chạy đua về vỏ giáp để chống lại pháo của đối phương, trang bị pháo mạnh hơn để xuyên vỏ giáp của đối phương các chiếc Tank trở nên cồng kềnh, nặng nề, pháo chính của tank rất to và cơ số đạn thấp nên cũng không hiệu quả lắm cho việc tiêu diệt bộ binh. Còn đại liên kẹp nòng của Tank thì hiệu quả rất hạn chế do pháo chính cồng kềnh và nặng nề, góc tà của pháo cũng bị hạn chế. Tank ngày nay đã trở thành Tank Destroyer có tích hợp chút khả năng chống bộ binh và công sự. Thế là cụm từ Tank Destroyer mãi mãi chôn vùi ở WWII.
Để lấp vào khoản trống của việc tiêu diệt bộ binh của Tank, người ta thiết kế ra vô số loại tank nhẹ chuyên đánh bộ binh.
Nhưng bộ binh cũng không hề thua kém, họ tìm đến các vũ khí chống tank cầm tay cơ động và gọn nhẹ.
Khi tank hạng nhẹ các loại trở nên kém cỏi trong vịêc chống lại bộ binh trên đường phố. Người ta cho ra đời con Tank quái thai BMP-T với khung gầm và giáp dày của MBT nhưng lại trang bị hoả lực chống bộ binh là chủ yếu.
Cuộc chiến chỉ ở sự phát triển của Tank mà còn nằm ở nhiều khía cạnh khác.
Chẳng hạn như khi người Mỹ nghĩ ra hệ thống C[sup]4[/sup]I để cải thiện khả năng tác chiến của họ, người Nga nghĩ ra Krasnopol để có thể dể dàng tiêu diệt các hệ thống C[sup]4[/sup]I lẩn trốn sau chiến tuyến của Mỹ. Người Mỹ nghĩ đến phương pháp làm nhiểu đầu đạn Krasnopol và người Nga đẻ ra Krasnopol-M chống nhiểu .
Tương tự cũng xãy ra với việc chay đua giửa máy bay và radar. Máy bay tàng hình và vũ khí có thể tiến công máy bay tàng hình, cuộc đua của Mâu và Thuẩn cứ tiếp tục và chúng ta có thể dự đoán hình thái của chiến tranh tương lai dựa trên sự phát triển từng bước của chiến tranh từ xa xưa.