Hạng C
30/5/11
878
3
0
45
Chiêu trò moi tiền của tiếp viên karaoke 'ôm'</h1>Sau màn ôm ấp, "du lịch tay chân", tiếp viên khéo léo gạ: “Anh ơi, mua quần áo cho em đi”. Giá để mua "một mảnh" là 500.000 đồng. Sau khi khách đưa tiền, các cô gái sẽ lột nội y ngay tại chỗ.</h2>Cửa phòng hát bật mở, nam nhân viên mặc quần tây, sơ mi trắng bước vào cất giọng lễ phép: "Mời các anh chọn nhân viên". Vừa dứt lời, một dàn tiếp viên nữ bước vào phòng và xếp hàng trước mặt khách. Các cô gái trẻ đều ăn mặc gợi cảm, cặp chân dài lấp ló sau đoạn váy ngắn cũn cỡn. Màn tuyển hàng diễn ra trong 15 phút, những tiếng xì xào, bàn tán, tiếng cười hô hố xen cả tiếng chửi thề. Cửa đóng lại, các nữ tiếp viên sà vào lòng khách với khuôn mặt đầy vẻ thỏa mãn.
Đó là quang cảnh “mở màn” thường thấy của cuộc vui trong những quán karaoke có “tay vịn”. “Ăn nhậu rồi đi hát” dường như đã trở thành một “món” được cánh mày râu sử dụng trong các dịp vui vẻ như sinh nhật, lễ, Tết… Trong gian phòng cách ly, mọi người sẽ thỏa sức hát hò, xả hơi, xả stress và hết mình với nhiều trò vui khác cùng các nữ tiếp viên. Tùy theo nhu cầu, theo thói quen, mà “thượng đế” có thể lựa chọn cho mình quán hát “phù hợp”.
Đã có một thời mô hình những quán karaoke gia đình với nội thất bài trí đẹp, thiết bị âm thanh, ánh sáng xịn, cách âm tốt đã thu hút được rất nhiều khách hàng. Nhưng nay “phong trào karaoke” có phần xẹp xuống, thú vui kéo nhau đi hát đã không còn hấp dẫn. Các gia đình đi hát karaoke cũng bớt đi vì nhiều nhà đã trang bị bộ giàn riêng để tự thỏa mãn sở thích “làm ca sĩ” bất cứ lúc nào mà không cần phải ra quán vừa mất tiền vừa bất tiện. Lại thêm gặp thời suy thoái kinh tế, lượng khách cứ dần một ít đi.
Nhưng ngược lại với nhu cầu, hàng loạt quán karaoke vẫn liên tục khai trương, thậm chí lại còn hoành tráng hơn trước rất nhiều, với mức tiền đầu tư lên tới nhiều tỷ đồng. Chưa kể tiền đầu tư trang trí, tiền thuê nhà có khi lên tới vài chục triệu một tháng, tiền thiết bị máy móc âm thanh, ánh sáng, việc trả lương cho không ít nhân viên từ trông xe cho tới phục vụ phòng… thì thu nhập của các quán karaoke phải tới mức nào mới đủ trang trải cho hàng loạt khoản trong khi số người đi hát đúng nghĩa ngày càng ít đi. Điều đó khiến người ta đặt câu hỏi: Quán karaoke kinh doanh cái gì mà vẫn có lãi vẫn có nhiều quán hoành tráng mọc lên?
Karaoke-2-1375631686_500x0.jpg
Một số quán có nữ tiếp viên mặc áo 2 dây, không nội y phục vụ khách nam. Ảnh: ANTĐ.Hoài “phò”, quản lý một quán karaoke có thâm niên ở đường dọc bờ sông Tô Lịch (quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một cuộc nhậu đã lý giải về những góc khuất, ngón nghề hút khách phía sau hậu trường của những quán karaoke Hà thành. Theo Hoài, Hà Nội đặc biệt là tại các khu nội thành, nhiều tuyến phố từ lâu đã mặc nhiên trở thành phố Karaoke như: Đê La Thành, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Cừ, Lê Văn Lương, khu Mai Dịch, dọc sân vận động Mỹ Đình...
Ở đây có nhiều quán mọc san sát nhau, nhưng không phải quán nào cũng “hút” được khách. Mặc dù có những quán mới được đầu tư hàng tỷ đồng nhưng khách chỉ vào một lần và “một đi không trở lại”. Theo lý giải của Hoài, khách đến quán karaoke mục đích là giải trí, vì vậy ngoài hát còn phải nhẩy nhót, phải có tiếp viên. "Giờ quán đẹp, thiết bị âm thanh, ánh sáng xịn nhưng khách vào hỏi mà không có tiếp viên thì vẫn chết. Đầu tư tiền tỷ vào quán hát karaoke gia đình mà khách vào hát chỉ uống vài chai bia, mấy lon nước ngọt thì có mà dẹp tiệm. Phải biết xu thế, biết chiều khách thì mới tồn tại được", Hoài nói.
Theo lời Hoài, các “chân dài” phục vụ ở quán karaoke được chia thành 2 loại là "cắm" và "dạo". “Chân dài cắm” là cách gọi chỉ những nhân viên thường làm việc cố định tại một quán karaoke. Đây là những quán Karaoke thuộc hàng cao cấp, có quy mô hoành tráng và có sẵn các tiếp viên để phục vụ khách. Không phải quán nào cũng có thể học theo mô hình này được.
Tiếp viên “cắm” trong quán thường được tuyển chọn khá kỹ lưỡng và đồng đều. Thông thường các tiếp viên sẽ có mặt ở quán từ khoảng 12h trưa và sẽ kết thúc ca làm việc vào 12h đêm. Tầng trên cùng sẽ là nơi ở của họ. Mỗi khi có khách hát, các tiếp viên sẽ được điều xuống để khách chọn lựa. Nếu không vừa ý, phục vụ sẽ thay bằng một loạt nhân viên mới. Với những khách hát có kinh nghiệm thì “hàng đẹp” bao giờ cũng được đưa ra sau. Thông thường tiếp viên “cắm” ở quán nào sẽ chỉ phục vụ cho quán đó cho tới khi rời đi nơi khác. Tất cả các nhân viên sẽ đều phải tuân thủ theo sự chỉ đạo của quản lý quán.
Nói về “chân dài dạo”, Hoài cho biết đó là cách ví von để chỉ những tiếp viên được thuê đến quán để phục vụ theo nhu cầu của khách. Như thành một tiền lệ, xung quanh các khu vực phố karaoke luôn phải có các “đại lý” để cung cấp nhân viên phục vụ. Khu vực tập trung nhiều dịch vụ nhất phải kể đến các tuyến đường Láng, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Khang, Cầu Giấy… Ở những “điểm nóng” này có thể có đến trên dưới 10 chủ dịch vụ.
Hoài bật mí: “Mỗi chủ dịch vụ trung bình nắm 5-7 tiếp viên, người nhiều có thể lên đến gần 20 tiếp viên. Mỗi quán karaoke đều có những mối ruột là các chủ dịch vụ, khi nhận được điện thoại từ quản lý của quán, các chủ dịch vụ này lập tức điều tiếp viên đến tận nơi”. Đối với các tiếp viên “dạo”, họ đều phải đóng thuế hàng ngày.
Theo quy định, mỗi tiếp viên từ khi lên phòng với khách sau 10 phút chưa xuống thì nhân viên chạy “xe ôm” được phép tính là một bàn. Khoản tiền mà tiếp viên phải đóng cho chủ dịch vụ dao động trên dưới 50.000 đồng mỗi lần ngồi bàn với khách. Số tiền này nhân với tổng số bàn ngồi được trong ngày sẽ phải nộp lại cho chủ dịch vụ vào cuối buổi. Ngày làm việc của tiếp viên được tính từ 13h nên nếu lúc đó mà không có mặt sẽ bị phạt tương đương với số tiền một bàn ngồi với khách.

Thông thường, để điều động được tiếp viên đến quán karaoke, chủ dịch vụ thường có đội ngũ xe ôm riêng. Gọi là xe ôm đặc chủng vì ngoài việc “thồ” các tiếp viên đến quán thì những người này còn kiêm luôn cả việc “chấm công”. Nghĩa là sẽ theo dõi xem tiếp viên mình đưa đi có ngồi với khách không để cuối ngày cộng sổ và báo lại với chủ. Đội ngũ xe ôm này được trả 250.000 - 300.000 đồng một ngày.
Thời gian vừa qua, hình ảnh của những nhân viên “xe ôm” chở 4 - 5 tiếp viên ăn mặc thiếu vải, không đội mũ bảo hiểm, lạng lách trên đường đã khiến người dân bức xúc. Cuối tháng 7, các tổ công tác đặc biệt 141 của Công an TP Hà Nội đã tổ chức các đợt truy quét những chiếc xe chở “gái gọi dịch vụ” trên địa bàn và tạm giữ nhiều xe ôm và các chân dài nên gần đây trên đường phố đã bớt đi những “chuyến xe ôm quá tải”.
Dù là tiếp viên “cắm” hay tiếp viên “dạo” thì họ luôn sẵn sàng chiều khách tới bến nếu như khách hàng sẵn sàng chi đậm. Điều này dễ hiểu là bởi nếu chỉ ngồi hát hò và “tâm sự” với khách thì số “tiền típ” mà các nhân viên nhận được không đáng kể. Trung bình, mỗi buổi hát 1 - 2 tiếng, họ được khách “típ” 100.000 - 200.000 đồng. Nếu trừ đi khoản phải nộp lại cho chủ dịch vụ hoặc “tiền bàn” phải trả cho nhà hàng thì số tiền còn lại dành cho tiếp viên chẳng còn bao nhiêu. Vì vậy, họ phải có các chiêu trò để “câu” tiền của khách đến hát và sẵn sàng phục vụ đến Z nếu khách có nhu cầu.
Một trong những “chiêu trò” phổ biến trong các quán karaoke là mua quần áo. Trò này xuất phát từ các tỉnh phía Nam và theo chân các tiếp viên “miền Tây” du nhập ra Bắc. Hoài bảo, các tiếp viên miền Tây với giọng nói ngọt ngào và khả năng chiều khách, khả năng quậy tới bến nên đã moi được rất nhiều tiền nhờ chiêu bài này.
Và chính vì khả năng “làm kinh tế” cao mà giờ đây “mua quần áo” đã trở nên khá phổ biến. Thông thường, sau khi khách đã sử dụng rượu bia tới tới, sau những màn ôm ấp, “du lịch tay chân” trên thân thể của tiếp viên, cuộc vui đã tới đỉnh. Tiếp viên khéo léo gạ: “Anh ơi, mua quần áo cho em đi”. Nếu khách thắc mắc sẽ được kèm theo lời “giải thích” ngọt ngào “để cho cuộc vui thêm bốc”. Các tiếp viên trong trang phục thiếu vải sẽ ra giá để cho thượng đế mua đồ nội y của mình.
Thông thường, giá để mua “một mảnh” là 500.000 đồng. Sau khi đưa tiền tiếp viên sẽ lột “nội y” ngay tại chỗ. Muốn tiếp viên ngồi hát với mình trong những bộ cánh không có nội y, khách sẽ phải bỏ ra không dưới 1 triệu đồng. Màn vui dừng lại ở đó, bởi nguyên tắc là chủ không cho phép tiếp viên đi quá giới hạn trong quán.
Muốn có những cuộc vui "nặng đô" hơn như múa lửa, tắm bia... sẽ phải tìm đến những quán hát “đặc chủng”. Muốn có mặt ở đó, phải được sự bảo trợ của những khách VIP, khách lâu năm. Và số tiền bỏ ra so với những cuộc vui kiểu mua áo cũng lớn hơn nhiều lần.
Sau quá trình “tìm hiểu” nhau qua màn “ca hát và du lịch”, con đường để các tiếp viên bán dâm hết sức đơn giản. Nếu khách có nhu cầu “vui vẻ”, cả khách và nhân viên có thể tự thỏa thuận để tìm bãi đáp là các nhà nghỉ ở quanh đó. Đối với những tiếp viên cắm, luật bất thành văn là không được phép ra khỏi quán trước khi hết ca (thường là khoảng 12h đêm). Nếu khách và tiếp viên thấy “ưng nhau” và thỏa thuận được giá cả có thể xin số điện thoại, để đợi sau khi hết ca sẽ “tái hợp”.
Còn đối với các “tiếp viên dạo”, việc này đơn giản hơn rất nhiều. Nếu khách có nhu cầu có thể tiến hành được ngay. Mặc cho việc hát hò trong phòng diễn ra, cả 2 có thể “tách nhóm” tới các nhà nghỉ ở gần đó. Giá cả mỗi lần bán dâm hoàn toàn do tiếp viên và khách tự thỏa thuận, khoảng 500.000 đến 1 triệu đồng. Tuy nhiên, đã thành một quy luật bất thành văn, nếu nhân viên dạo đi nhà nghỉ bán dâm với khách sẽ được đội ngũ “xe ôm” tính bằng 2 lần ngồi bàn tức là phải nộp 100.000 đồng.
Thời gian qua, tệ nạn mại dâm đang có chiều hướng bùng phát trở lại. Những quán karaoke kèm tiếp viên phục vụ là một phần của tệ nạn mại dâm. Đằng sau những quán karaoke này, tệ nạn mại dâm giống như những đợt sóng ngầm dữ dội.

 
Hạng C
30/5/11
878
3
0
45
Cuộc chiến không khoan nhượng trên thị trường xe máy Việt</h1>Với 60% thị phần và mạng lưới đại lý lên tới 640 trên toàn quốc, Honda khiến mọi đối thủ tìm cách đánh vào những nơi mà hãng này chưa động tới.</h2>Việt Nam là thị trường xe máy phổ thông lớn thứ tư thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Theo tính toán của Bộ Công Thương, để đạt tới con số khoảng 3 người/ xe (được coi là mức bão hòa vào năm 2020) thị trường xe máy Việt Nam còn gần 10 năm để phát triển.
Trong một vùng đất đầy tiềm năng, Honda nhờ thiên thời, địa lợi, nhân hòa đã chiếm thế thượng phong. Năm 2012, Honda Việt Nam báo doanh số 1,9 triệu xe. Như vậy chỉ tính riêng các hãng xe máy có vốn FDI, Honda chiếm khoảng 65% thị phần. Ngay phía sau là Yamaha với 25%. 10% còn lại dành cho một loạt các thương hiệu như Suzuki, SYM, Piaggio.
Về độ phủ, Honda hiện có tới 640 đại lý ủy quyền (HEAD) trên toàn quốc. Trong khi Yamaha tính cả các cơ sở sửa chữa là 540. SYM có khoảng 310, Suzuki gần 120 và Piaggio là 90.
Với chênh lệch lớn về quy mô, dễ hiểu là cuộc chiến trên thị trường gần như chỉ nằm ở câu hỏi "làm thế nào để chiếm thị phần của Honda?". Sau nhiều năm miệt mài đánh trực diện, các hãng đang dịch chuyển dần sang đánh vào những phân khúc ngách, nơi Honda chưa kịp phủ kín.
honda-60-JPG-1375180890_500x0.jpg
Honda chiếm 60% thị phần năm 2012.15 năm trước, khi mới bước vào Việt Nam, Honda có chút lợi thế thương hiệu khi có hàng loạt sản phẩm ăn vào tiềm thức khách hàng như Cub, 67, Dream. Nhưng lợi thế đó cũng không thật sự nổi bật vì với một thị trường sơ khai, cơ hội chia đều cho mọi anh tài.
Thực tế, Honda không phải là hãng giỏi nhất trong việc nghiên cứu, gợi mở nhu cầu khách hàng. Yamaha tạo ra làn sóng xe ga bắt đầu với Nouvo, Suzuki từng tạo nên xu hướng chơi xe côn tay với những dòng đầy cá tính như RGV, FX. Nhưng Honda lại mạnh ở việc đi tắt đón đầu.
Ví dụ dễ thấy nhất là cuộc chiến xe tay ga giữa Yamaha và Honda. Trong suốt 5 năm, kể từ 2002, Nouvo một mình tung hoành, nâng thị phần Yamaha tăng vọt. Người tiêu dùng biết đến khái niệm "Automatic", ga tự động nhờ sự đột phá của Yamaha. Nhưng đến 2007, Air Blade ra đời làm sự thành công của Nouvo dần rơi rụng. Air Blade chiếm thế thượng phong tới mức chưa có sản phẩm nào "sốt giá" tới 4 năm liền và chỉ chịu hạ nhiệt khi kinh tế khủng hoảng cũng như sai lầm trong thiết kế đời 2011.
Suzuki, SYM cũng một thời kiên trì cạnh tranh trực tiếp trong phân khúc xe tay ga. Nhưng cơ hội vốn ít dành cho kẻ yếu nên hầu như không tạo được dấu ấn trên thị trường.
Bước sang 2013, giữa lúc Honda gặp bài toán mở rộng quá nhanh, sức ép doanh số khi xây thêm nhà máy thứ 3, các đối thủ dường như lại tìm thấy con đường đúng. Đấu với người khổng lồ, chiến tranh quy ước là điều bất lợi. Vì thế mà cả Yamaha, Suzuki và SYM đang hướng sang thị trường ngách xe côn tay thể thao và xe dưới 50 phân khối, nơi Honda bỏ ngỏ.
nouvo-sx-9-1357091532_500x0.jpg
Honda để Yamaha Nouvo độc diễn 5 năm rồi mới tung ra Air Blade. Ảnh: Trọng Nghiệp.Suzuki, trong nỗ lực không ngừng lấy lại vị thế, chọn thông điệp hướng tới giới trẻ. Trong khi vẫn duy trì xe tay ga, hãng này tung ra một loạt dòng xe côn tay. Đầu tiên là dòng nackedbike EN150. Tiếp đến là Axelo. Hiện tại là kế hoạch trình làng Raider 150 vào cuối năm. Dù doanh số có thể không cao, nhưng rõ ràng với các sản phẩm tiên phong, cái tên Suzuki đang được nhắc tới nhiều hơn, mở đường cho người tiêu dùng tiếp cận các sản phẩm khác.
Ngoài xe côn tay, Suzuki cũng trình làng dòng xe số phun xăng điện tử, dưới cái tên nổi danh một thời Viva. Bằng cách đi có vẻ phù hợp, ít nhất về mặt truyền thông, Suzuki đang khiến khách hàng quan tâm trở lại. Vấn đề chỉ là hãng này giữ khách thế nào mà thôi.
SYM, hãng xe yếu nhất về mặt thương hiệu, sau bao lâu khai thác Attila cũng có cách tiệm cận sáng tạo là phân khúc 50 phân khối không cần bằng lái, dành cho những khách hàng còn học phổ thông hoặc bà nội trợ. Tiềm năng vẫn là dấu hỏi nhưng việc không đụng vào Honda cũng mang lại nhiều lợi thế cho một hãng nhỏ.
market2-1375184468_500x0.jpg
Thị trường ngách là nơi các hãng tập trung để chống lại sự bành trướng của Honda.Piaggio mang Vespa 946 khi mà thương hiệu xe ga cao cấp SH đã bị Honda bình dân hóa với sự xuất hiện của SH mode. Dẫu rằng Vespa 946 ở một đẳng cấp hoàn toàn khác so với SH, nhưng rõ ràng việc nổi lên đúng lúc Sh bị chìm giúp hãng xe Italy hâm nóng thương hiệu xe con ong, mà hưởng lợi trực tiếp chính là Piaggio Việt Nam khi mà Vespa LX hay LT liên đới bán hàng.
Tại sao thấy Yamaha Exciter giành thắng lợi đã 8 năm nay mà Honda chưa ra mẫu xe côn tay nào, hay lý do nào phân khúc 50 phân khối để trống đã rất lâu nhưng hãng này cũng không dòm ngó.
Phải chăng Honda lại sử dụng chiến lược bấy lâu nay, im lặng chờ đợi những "đứa con" mới ra đời của các hãng dần trưởng thành, xem xét mạnh yếu rồi mới tung ra con át uy lực. Đến khi đó, "ngách" nào cũng đã xuất hiện đầy đủ mọi đối thủ, và vòng quay thị trường lại bắt đầu với việc tìm ra những "ngách" mới