Bác thấy vài xxx rồi qui cho tất cả thì không nên. Mình nghĩ số đông là những người tốt, dù giọt lệ hay đi BMW chăng nữa.
Bác rùa bị một lần sợ cành cong không nên. Cành cong hay thẳng cũng là cành, nhưng bác Post bài làm như thế này cũng nhiều người chấm lắm.
Bác rùa bị một lần sợ cành cong không nên. Cành cong hay thẳng cũng là cành, nhưng bác Post bài làm như thế này cũng nhiều người chấm lắm.
Trở lại cuộc chiến của vua tôi nhà Hồ chống quân Minh xâm lược Đại Ngu ta:
Cuộc chiến này tuy chỉ kết thúc trong 1 năm ngắn ngủi với 3 trận lớn: Trận thành Đa Bang, Trận Mộc Phàm Giang và Trận Hàm Tử Quan, nhưng kết quả thì hoàn toàn thất bại bởi những yếu tố mà những bài trước đã trình bày qua.
Chỉ xin nói rõ hơn 1 điều mà thật từ có chí kim sử Việt chưa có: Khi bị vây ở Trận Hàm Tử Quan, tình thế rất nguy cấp, quân Minh bao vây tứ bề khó mà chống trả, tướng nhà Hồ là Ngụy Thức tâu với cha con vua Hồ rằng: " Nước đã mất, làm vua không nên để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự sát đi còn hơn!" Nghe cậu ấy, Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức đem chém rồi định phá vòng vây bỏ chạy, thế nhưng cuối cùng cũng bị bắt ở cửa Kỳ La. Trong khi đó những quan nhà Hồ,người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử, thật đáng mặt anh hùng đất Việt. Kể ra thì cũng buồn cười và nhục nhã. Về sau, vua con nhà Hồ- Hồ Quý Ly-Hồ Hán Thương-Hồ Nguyên Trừng bị dẫn sang Yên Kinh(Bắc Kinh) Trung Hoa lại được vua Minh trọng dụng cho làm quan để phục vụ cho việc chế tạo vũ khí....
Chuyện kể rằng Hồ Nguyên Trừng (con trai cả của Hồ Quý Ly-anh ruột Hồ Hán Thương) rất giỏi về chế tạo vũ khí, đặc biệt là súng thần công và thuyền chiến. Việc đổi tiền từ tiền đồng qua tiền giấy chính là do Hồ Nguyên Trừng chủ xuất nhằm thu gom kim loại đúc súng thần công, súng phóng hỏả pháo cải tiến để sức công phá được lớn hơn, ngoài ra ông chính là người sáng chế ra thuyền chiến 2 tầng, có chở trọng pháo để tăng sức chiến đấu trên biển, lại còn tinh thông việc trị thủy, hoạt động của thủy triều, hay lo đắp đê đào kinh phục vụ giao thông thủy lợi, xây thành quách đều rất thành thạo......... ông lại là người giỏi văn chương chữ nghĩa, ông soạn ra cuốn Nam ông Mộng Lục là tác phẩm đầu tiên mở đường cho khuynh hướng viết người thực việc thực trong văn xuôi tự sự của Việt Nam. Đúng là nhân tài nhưng sinh sai thời, lại đầu thai sai chỗ nên tài năng không phục vụ nhiều được cho Đại Việt. Khi qua tới nhà Minh, vua Minh ưng ý lắm, rất trọng dụng, giao hẳn cho việc trong coi chế tạo vũ khí. Thật là nực cười, người Việt lại chế tạo vũ khí cho nhà Minh về trấn áp, cướp giết người Việt trong 10 năm sau đó. Đúng là nghiệp chướng.
Tóm lại: nhà Hồ giỏi cầm bút, cầm bàn tính hơn cầm gươm. Mất nước là chuyện đương nhiên. Thế nhưng cái tội lớn là làm mất nước Việt ta cho giặc phương Bắc vượt qua những thành tựu đã làm, lại hèn nhát mạng sống mà hàng quân Minh, bị dẫn về Tàu, sử ta chưa chép rõ vua nào nhục hơn như vậy!
Cuộc chiến này tuy chỉ kết thúc trong 1 năm ngắn ngủi với 3 trận lớn: Trận thành Đa Bang, Trận Mộc Phàm Giang và Trận Hàm Tử Quan, nhưng kết quả thì hoàn toàn thất bại bởi những yếu tố mà những bài trước đã trình bày qua.
Chỉ xin nói rõ hơn 1 điều mà thật từ có chí kim sử Việt chưa có: Khi bị vây ở Trận Hàm Tử Quan, tình thế rất nguy cấp, quân Minh bao vây tứ bề khó mà chống trả, tướng nhà Hồ là Ngụy Thức tâu với cha con vua Hồ rằng: " Nước đã mất, làm vua không nên để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự sát đi còn hơn!" Nghe cậu ấy, Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức đem chém rồi định phá vòng vây bỏ chạy, thế nhưng cuối cùng cũng bị bắt ở cửa Kỳ La. Trong khi đó những quan nhà Hồ,người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử, thật đáng mặt anh hùng đất Việt. Kể ra thì cũng buồn cười và nhục nhã. Về sau, vua con nhà Hồ- Hồ Quý Ly-Hồ Hán Thương-Hồ Nguyên Trừng bị dẫn sang Yên Kinh(Bắc Kinh) Trung Hoa lại được vua Minh trọng dụng cho làm quan để phục vụ cho việc chế tạo vũ khí....
Chuyện kể rằng Hồ Nguyên Trừng (con trai cả của Hồ Quý Ly-anh ruột Hồ Hán Thương) rất giỏi về chế tạo vũ khí, đặc biệt là súng thần công và thuyền chiến. Việc đổi tiền từ tiền đồng qua tiền giấy chính là do Hồ Nguyên Trừng chủ xuất nhằm thu gom kim loại đúc súng thần công, súng phóng hỏả pháo cải tiến để sức công phá được lớn hơn, ngoài ra ông chính là người sáng chế ra thuyền chiến 2 tầng, có chở trọng pháo để tăng sức chiến đấu trên biển, lại còn tinh thông việc trị thủy, hoạt động của thủy triều, hay lo đắp đê đào kinh phục vụ giao thông thủy lợi, xây thành quách đều rất thành thạo......... ông lại là người giỏi văn chương chữ nghĩa, ông soạn ra cuốn Nam ông Mộng Lục là tác phẩm đầu tiên mở đường cho khuynh hướng viết người thực việc thực trong văn xuôi tự sự của Việt Nam. Đúng là nhân tài nhưng sinh sai thời, lại đầu thai sai chỗ nên tài năng không phục vụ nhiều được cho Đại Việt. Khi qua tới nhà Minh, vua Minh ưng ý lắm, rất trọng dụng, giao hẳn cho việc trong coi chế tạo vũ khí. Thật là nực cười, người Việt lại chế tạo vũ khí cho nhà Minh về trấn áp, cướp giết người Việt trong 10 năm sau đó. Đúng là nghiệp chướng.
Tóm lại: nhà Hồ giỏi cầm bút, cầm bàn tính hơn cầm gươm. Mất nước là chuyện đương nhiên. Thế nhưng cái tội lớn là làm mất nước Việt ta cho giặc phương Bắc vượt qua những thành tựu đã làm, lại hèn nhát mạng sống mà hàng quân Minh, bị dẫn về Tàu, sử ta chưa chép rõ vua nào nhục hơn như vậy!
Last edited by a moderator:
Cái này cho em phản đối cái nháQuỳnh Rùa nói:Về Quân Đội nhà Hồ và cuộc xâm lược của nhà Minh:
Trước đó, nhà Hồ đã cho đắp thành Đa Bang - Sơn tây, đóng cọc trên sông Bạch hạc (sông Nhị Hà), Sông Thao, Sông cái nhằm chặn đường tiến quân của quân Minh. Đồng thời cho họp nội ngoại bách quan văn võ bàn việc nên hòa hay nên đánh (bắt chước nhà Trần) và kết quả cũng như nhà Trần lần trước: ĐÁNH.
Nhà Hồ cho tổng động viên quân đội cả nước gom được trên 20 vạn quân, ngày đêm tập luyện, chuẩn bị chống đỡ, thế nhưng vua quan nhà Hồ cũng biết tình hình đất nước, vua quan nhà Hồ than rằng: <span style=""color: #ff0000;"">"không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi</span>".
........
Có 1 chuyện em thấy chúng ta hay nói là: lòng dân, rồi "lấy yếu thắng mạnh", "lấy đoản binh thắng trường trân" chi chi đó.
Sao chúng ta ko nhìn nhận thẳng vào sự thật là binh lực của nhà vua không yếu, lương thảo thì dùng thoải mái, vậy thua trận thì đổi cho lòng dân, thực sự mà nói thì quân Minh mạnh hơn, có nhiều tài năng quân sự hơn đặc biệt là TRương Phụ, viên dũng tướng yêu quý của Minh Thành Tổ là kẻ có tài năng hơn hẳn các tướng lĩnh nước Việt.
Vì sao vậy, Trương Phụ 2 lần sang đánh dẹp nc Việt, lần đầu đánh nhà Hồ thì còn có thể nói là lòng dân ko phục do ko phải dòng chính thống
Nhưng lần 2 sang nc Việt lão vẫn thắng như trẻ tre và kết cục là nhà Hậu Trần cũng bị đánh cho lanh tanh bành
Một nguyên nhân nữa là khi giặc Minh sang đánh nc Việt, nhà vua ko những hợp tung với Chiêm Thành thì chớ lại đem quân đánh dẹp, vừa hao tổn binh mã lại vừa mất chỗ dự đằng sau lưng.
Túm lại là tài năng quân sự ko có, tự tay bóp z.á.i khi đem quân sang đánh Chiêm Thành
Last edited by a moderator:
E lấy trên Gúc Gồ về cuộc đời Trương Phụ, kẻ đã đày đoạ dân tộc Việt kể cả về văn hoá và cuộc sống:
Ông là con trai trưởng của Trương Ngọc, một dũng tướng lập được nhiều công lao thời vua Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ. Khi Chu Lệ còn là Yên vương, Trương Ngọc là tướng tâm phúc của ông. Sau khi Trương Ngọc qua đời, Trương Phụ kế nghiệp cha và lập được nhiều chiến công. Đến khi Chu Lệ lên ngôi, phong cho Trương Phụ làm Tín An bá, bổng lộc nghìn thạch. Năm 1405, Minh Thành Tổ sai Thành quốc công Chu Năng cùng Trương Phụ đem 800.000 quân sang đánh nhà Hồ, giữa lúc đó Chu Năng qua đời (tháng 1 năm 1406) nên Trương Phụ được phong làm Chinh Di tướng quân thay thế. Tại Đại Ngu, trong giai đoạn từ 1406 tới 1417, Trương Phụ nhiều lần cầm quân đánh bại lực lượng nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Tháng 8 năm 1407, sau khi đánh bại nhà Hồ, Trương Phụ cùng Mộc Thạnh đem quân về, ông được phong làm Anh quốc công, bổng lộc 3.000 thạch.
Năm 1424, Minh Thành Tổ đã 65 tuổi nhưng vẫn đem quân chinh phạt Mông Cổ lần thứ năm, tháng 7 năm đó ốm nặng, trước khi qua đời cho triệu kiến Trương Phụ dặn ông lo hậu sự, truyền cho ông phò tá Thái tử Chu Cao Xí (Minh Nhân Tông). Năm 1425, Hán vương Chu Cao Hú làm phản, Minh Tuyên Tông quyết định thân chinh, Trương Phụ chỉ huy quân đội tác chiến, Cao Hú bị đánh bại phải đầu hàng. Trong thời kỳ trị vì của Minh Tuyên Tông, về văn có "Tam Dương" (Dương Sĩ Kì, Dương Vinh, Dương Phổ), Kiển Nghĩa, Hạ Nguyên Cát, về võ có Trương Phụ, Vu Khiêm, Chu Thầm,...
Đến khi An Viễn hầu Liễu Thăng (柳升) bại trận tử vong năm 1427 tại núi Mã Yên, Lạng Sơn, Minh Tuyên Tông triệu tập đại thần nghị sự, ý muốn bỏ Giao Chỉ (Đại Việt). Trương Phụ phản đối nhưng không thành.
Đến đời Minh Anh Tông, do hoàng đế tin dùng hoạn quan Vương Chấn nên các ý kiến của ông không được trọng dụng, dù ông là một trong năm đại thần quan trọng nhất (cùng Tam Dương và Kiển Nghĩa).
Năm 1449, dù đã can ngăn nhưng không thành, lại không có quyền quyết định trận mạc và đã 75 tuổi, nhưng ông vẫn cùng Minh Anh Tông đem 500.000 quân đánh 20.000 kỵ binh Ngõa Thích của Dã Tiên (tức bộ lạc Oirat của người Mông Cổ do thủ lĩnh Esen Tayisi chỉ huy). Trận này quân Minh đại bại, ông tử trận tại Thổ Mộc bảo, còn Minh Anh Tông bị bắt sống. Sau này nhà Minh truy phong ông là Định Hưng vương, thụy Trung Liệt.
Ông là một viên tướng giỏi đánh trận, cầm quân ở Đại Việt gần như trận nào cũng thắng. Khi Vương Thông bị vây hãm trong thành Đông Quan có gửi thư về cầu viện bị Lê Thái Tổ bắt được, trong đó có viết về ông như sau: "... quân để dùng phải được như số quân đi đánh lúc đầu, và phải được 6, 7 viên đại tướng như Trương Phụ mới có thể đánh được...". Tuy nhiên, với người Việt thì Trương Phụ cũng là một kẻ tàn bạo, làm những việc hung ác ghê gớm như giết sứ Hậu Trần là Nguyễn Biểu, chôn sống hàng ngàn tù binh rồi chất xác họ thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu[sup][1][2][/sup].
<h2>[sửa]Chinh chiến ở Đại Việt </h2>
<h3>[sửa]Sang đánh lần thứ nhất </h3> Bài chi tiết: Chiến tranh Minh-Đại Ngu
Tháng 9 năm 1406, Chinh Di hữu phó tướng quân đeo ấn Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, tham tướng Hoàng Dương bá (Vân Dương bá) Trần Húc, đem 40 vạn quân từ Quảng Tây đánh vào cửa ải Pha Lũy (Nam Quan). Quân của Trương Phụ liên tiếp đánh lui hai đạo quân nhà Hồ gồm 2 vạn và 3 vạn người để tiến vào nước Nam[sup][3][/sup]. Chinh Di tả phó tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh (沐晟), tham tướng hữu đô đốc đồng tri Phong Thành hầu Lý Bân cũng đem 40 vạn quân từ Vân Nam đánh vào cửa ải Phú Lệnh (Hà Giang), xẻ núi, chặt cây, mở đường tiến quân. Hai đạo quân tổng cộng là 80 vạn[sup][4][/sup].
Tháng 11, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông Cái, đến tận Trú Giang.
Sáng ngày 12 tháng 12, Trương Phụ cùng đô đốc Hoàng Trung, đô chỉ huy Thái Phúc tiến công phía tây bắc thành Đa Bang, Mộc Thạnh cùng đề đốc Trần Tuấn tiến công phía đông nam thành. Xác chết chất cao ngang với thành mà quân Minh vẫn tiến đánh. Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy quân Thiên Trường đào thành cho voi ra. Người Minh dùng hỏa tiễn bắn voi. Voi lui lại, người Minh theo voi đánh vào, thành bị hạ[sup][5][/sup]. Các quân ở dọc sông đều tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang. Người Minh vào Đông Đô bắt cướp con gái, ngọc lụa, thống kê lương chứa, chia quan làm việc, chiêu tập dân xiêu tán, làm kế ở lâu dài. Chúng thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi và thu lấy tiền đồng ở các xứ, cho chạy trạm đưa về Kim Lăng.
Trong các trận đánh đầu tháng 2 năm 1407, quân Minh đã tiêu diệt hơn 37.390 binh lính nhà Hồ. Trong trận Lục Giang ngày 21 tháng 2 năm 1407, quân Minh giao chiến với quân Hồ Nguyên Trừng có hơn 500 chiến thuyền. Dựa vào ưu thế hỏa lực áp đảo, quân Minh giết hơn 10.000 quân Hồ[sup][6][/sup]. Tài liệu Minh ghi rằng tên đạn trận đó bắn ra như sao sa, chớp giật[sup][7][/sup].
Ngày 4/5/1407, quân hai bên lại giao chiến lớn ở cửa Hàm Tử, quân Hồ huy động đến 70.000 binh lính, với rất nhiều chiến thuyền, đậu đầy trên sông đến 10 dặm. Quân Minh lại đánh bại quân nhà Hồ, giết hơn 10.000 người, bắt đến một ngàn thuyền chiến[sup][8][/sup]. Ngày 10 tháng 5, quân nhà Hồ lại thua một trận nữa ở Thanh Hóa, mất đến 10.000 quân nữa[sup][9][/sup].
Ngày 11 tháng 5 năm 1407, quân Minh bắt được Hồ Quý Ly, ngày 12 tháng 5 bắt Hồ Hán Thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh sai đô đốc thiêm sự Liễu Thăng; hoành hải tướng quân Lỗ Lân; thần cơ tướng quân Trương Thăng, đô chỉ huy sứ Du Nhượng; chỉ huy đồng tri Lương Định; chỉ huy thiêm sự Thân Chí bắt giải Quý Ly cùng các con, cháu; các tướng Đông Sơn Hương hầu Hồ Đỗ, hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tướng quân là Huyện bá Đoàn Bổng, Đình bá Trần Thang Mông, Trung lang tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín và 17 ngàn thợ khéo đến Kim Lăng để dâng.
<h3>[sửa]Sang đánh lần thứ hai</h3> [h4][sửa]Đánh nhà Hậu Trần[/h4] Năm 1408, Mộc Thạnh không chống đỡ nổi sức công phá của quân nhà Hậu Trần do Đặng Tất chỉ huy, bị thua trong trận Bô Cô, phải chạy về thành Đông Quan. Tháng 7 năm 1409, Trương Phụ lại đem quân sang cứu viện, thế quân Minh lại lên. Biết quân Nam mạnh về thủy chiến, Trương Phụ cho đóng nhiều thuyền chiến để nghênh địch.
Tháng 8, Trùng Quang Đế cầm cự với Trương Phụ ở Bình Than. Vua lệnh cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ lương thực rất thiếu thốn, Dung chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho quân. Quân Minh dò biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử, quân Dung tan vỡ. Minh sử ghi lại Trương Phụ đánh với 20.000 quân Hậu Trần có 600 thuyền chiến, giết hơn 3.000 người, số bị chết đuối "vô số", và bắt được hơn 400 thuyền chiến[sup][10][/sup].
Ngày 6/9/1409, quân Minh lại giao chiến với quân Hậu Trần ở cửa sông Thần Đầu. Quân Hậu Trần có đến 400 chiến thuyền, tiến đánh rất hăng hái, nhưng không đọ lại được với hỏa lực quân Minh nên phải rút lui[sup][11][/sup].
Quân Minh đuổi theo quân Hậu Trần, đến ngày 7 tháng 2 năm 1410 đuổi đến châu Ngọc Ma thì thổ binh người Thái cùng voi chiến đổ ra đánh. Quân Minh dùng hỏa hổ bắn voi và quản tượng, voi hoảng sợ quay đầu chạy, quân Thái tan vỡ.
Đến ngày 12 tháng 2 năm 1410, quân Trương Phụ lại giao chiến với 2 vạn quân Hậu Trần tại Đông Hồ, giết 4.500 người và bắt làm tù binh 2.000 người[sup][12][/sup], quân Trần thua phải chạy về Nghệ An.
Tháng 6 năm 1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân đánh Nghệ An, gặp Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại thì Súy và Cảnh Dị vượt biển chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi.
Tháng 4 năm 1413, Trương Phụ lại đánh vào Nghệ An. Trùng Quang Đế rời đến Hóa Châu.
Tháng 9, Trương Phụ đánh nhau với Nguyễn Suý ở kênh Sái Già (sông Ái Tử). Quân hai bên đang cầm cự nhau, Đặng Dung mai phục binh tượng, nửa đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ nhưng không nhận ra. Phụ đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến một nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức đánh. Trương Phụ thấy quân Dung ít, quay lại đánh. Quân của Đặng Dung thua chạy.
Tháng 10, Trương Phụ cho đô đốc Hoàng Trung đi dò trước, chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba thích khách, đội cỏ xuôi dòng đến thuyền Phụ. Một người trèo lên mũi thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người, lại còn cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ý Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung phòng giữ không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém Trung. Các tướng đều tái mặt đi. Tháng 11, Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: "Tao định giết mày, lại bị mày bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn.
Trùng Quang Đế chạy sang Lão Qua. Phụ sai người lùng bắt được, đưa đến cửa quân. Người Thuận Hóa đều hàng. Nhà Hậu Trần mất.
Tháng 4 năm 1414, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Trần Hiệp đem Trùng Quang Đế, Nguyễn Súy và Đặng Dung về Đông Quan. Sai người giải về Yên Kinh. Trùng Quang Đế đi đến nửa đường nhảy xuống nước chết. Súy thấy Trùng Quang Đế đã nhảy xuống nước chết, ngày ngày chơi cờ với viên chỉ huy coi giữ mình, thành quen, mới lấy bàn cờ đánh hắn ngã xuống nước chết, Súy cũng nhảy xuống nước chết. Tháng 7, Trương Phụ ra lệnh cho các phủ, châu, huyện, phàn quân nhân bắt được tôi tớ, cùng đàn bà con gái trốn đi xứ khác thì giải về cửa quân. Tháng 8, Trương Phụ, Mộc Thạnh và Trần Hiệp trở về Bắc, chia quân trấn giữ. Hoàng Phúc ở lại.
Tháng 10 năm 1415, Trương Phụ giữ chức Chinh Lỗ phó tướng quân, lại sang trấn thủ. Đây là lần thứ 3 Phụ sang Việt Nam.
Tháng 2 năm 1416, Trương Phụ ra lệnh xét duyệt danh số thổ quân, lấy một phần ba số hộ khẩu chia về các vệ, sở. Mỗi hộ định mức là 3 đinh. Từ Thanh Hóa trở vào Nam, nhân đinh thưa thớt, định mức là 2 đinh. Chỗ nào không phải là vệ, sở mà là nơi quan yếu, cũng lập đồn lũy, lấy dân binh canh giữ. Tháng 9, quân lính huyện Tân An nổi lên, Trương Phụ dẹp được.
Năm 1417, Nội quan nhà Minh Mã Kỳ tâu rằng Trương Phụ ở Giao Chỉ chọn lấy những thổ nhân mạnh khỏe can đảm làm vi tử thủ [sup][13][/sup], hoàng đế nhà Minh nghi ngờ, gọi Phụ về, sai Phong Thành hầu Lý Bân giữ chức Tổng binh Chinh Di tướng quân sang thay Phụ trấn giữ.
Ông là con trai trưởng của Trương Ngọc, một dũng tướng lập được nhiều công lao thời vua Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ. Khi Chu Lệ còn là Yên vương, Trương Ngọc là tướng tâm phúc của ông. Sau khi Trương Ngọc qua đời, Trương Phụ kế nghiệp cha và lập được nhiều chiến công. Đến khi Chu Lệ lên ngôi, phong cho Trương Phụ làm Tín An bá, bổng lộc nghìn thạch. Năm 1405, Minh Thành Tổ sai Thành quốc công Chu Năng cùng Trương Phụ đem 800.000 quân sang đánh nhà Hồ, giữa lúc đó Chu Năng qua đời (tháng 1 năm 1406) nên Trương Phụ được phong làm Chinh Di tướng quân thay thế. Tại Đại Ngu, trong giai đoạn từ 1406 tới 1417, Trương Phụ nhiều lần cầm quân đánh bại lực lượng nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Tháng 8 năm 1407, sau khi đánh bại nhà Hồ, Trương Phụ cùng Mộc Thạnh đem quân về, ông được phong làm Anh quốc công, bổng lộc 3.000 thạch.
Năm 1424, Minh Thành Tổ đã 65 tuổi nhưng vẫn đem quân chinh phạt Mông Cổ lần thứ năm, tháng 7 năm đó ốm nặng, trước khi qua đời cho triệu kiến Trương Phụ dặn ông lo hậu sự, truyền cho ông phò tá Thái tử Chu Cao Xí (Minh Nhân Tông). Năm 1425, Hán vương Chu Cao Hú làm phản, Minh Tuyên Tông quyết định thân chinh, Trương Phụ chỉ huy quân đội tác chiến, Cao Hú bị đánh bại phải đầu hàng. Trong thời kỳ trị vì của Minh Tuyên Tông, về văn có "Tam Dương" (Dương Sĩ Kì, Dương Vinh, Dương Phổ), Kiển Nghĩa, Hạ Nguyên Cát, về võ có Trương Phụ, Vu Khiêm, Chu Thầm,...
Đến khi An Viễn hầu Liễu Thăng (柳升) bại trận tử vong năm 1427 tại núi Mã Yên, Lạng Sơn, Minh Tuyên Tông triệu tập đại thần nghị sự, ý muốn bỏ Giao Chỉ (Đại Việt). Trương Phụ phản đối nhưng không thành.
Đến đời Minh Anh Tông, do hoàng đế tin dùng hoạn quan Vương Chấn nên các ý kiến của ông không được trọng dụng, dù ông là một trong năm đại thần quan trọng nhất (cùng Tam Dương và Kiển Nghĩa).
Năm 1449, dù đã can ngăn nhưng không thành, lại không có quyền quyết định trận mạc và đã 75 tuổi, nhưng ông vẫn cùng Minh Anh Tông đem 500.000 quân đánh 20.000 kỵ binh Ngõa Thích của Dã Tiên (tức bộ lạc Oirat của người Mông Cổ do thủ lĩnh Esen Tayisi chỉ huy). Trận này quân Minh đại bại, ông tử trận tại Thổ Mộc bảo, còn Minh Anh Tông bị bắt sống. Sau này nhà Minh truy phong ông là Định Hưng vương, thụy Trung Liệt.
Ông là một viên tướng giỏi đánh trận, cầm quân ở Đại Việt gần như trận nào cũng thắng. Khi Vương Thông bị vây hãm trong thành Đông Quan có gửi thư về cầu viện bị Lê Thái Tổ bắt được, trong đó có viết về ông như sau: "... quân để dùng phải được như số quân đi đánh lúc đầu, và phải được 6, 7 viên đại tướng như Trương Phụ mới có thể đánh được...". Tuy nhiên, với người Việt thì Trương Phụ cũng là một kẻ tàn bạo, làm những việc hung ác ghê gớm như giết sứ Hậu Trần là Nguyễn Biểu, chôn sống hàng ngàn tù binh rồi chất xác họ thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu[sup][1][2][/sup].
<h2>[sửa]Chinh chiến ở Đại Việt </h2>
<h3>[sửa]Sang đánh lần thứ nhất </h3> Bài chi tiết: Chiến tranh Minh-Đại Ngu
Tháng 9 năm 1406, Chinh Di hữu phó tướng quân đeo ấn Chinh Di tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, tham tướng Hoàng Dương bá (Vân Dương bá) Trần Húc, đem 40 vạn quân từ Quảng Tây đánh vào cửa ải Pha Lũy (Nam Quan). Quân của Trương Phụ liên tiếp đánh lui hai đạo quân nhà Hồ gồm 2 vạn và 3 vạn người để tiến vào nước Nam[sup][3][/sup]. Chinh Di tả phó tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh (沐晟), tham tướng hữu đô đốc đồng tri Phong Thành hầu Lý Bân cũng đem 40 vạn quân từ Vân Nam đánh vào cửa ải Phú Lệnh (Hà Giang), xẻ núi, chặt cây, mở đường tiến quân. Hai đạo quân tổng cộng là 80 vạn[sup][4][/sup].
Tháng 11, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông Cái, đến tận Trú Giang.
Sáng ngày 12 tháng 12, Trương Phụ cùng đô đốc Hoàng Trung, đô chỉ huy Thái Phúc tiến công phía tây bắc thành Đa Bang, Mộc Thạnh cùng đề đốc Trần Tuấn tiến công phía đông nam thành. Xác chết chất cao ngang với thành mà quân Minh vẫn tiến đánh. Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy quân Thiên Trường đào thành cho voi ra. Người Minh dùng hỏa tiễn bắn voi. Voi lui lại, người Minh theo voi đánh vào, thành bị hạ[sup][5][/sup]. Các quân ở dọc sông đều tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang. Người Minh vào Đông Đô bắt cướp con gái, ngọc lụa, thống kê lương chứa, chia quan làm việc, chiêu tập dân xiêu tán, làm kế ở lâu dài. Chúng thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi và thu lấy tiền đồng ở các xứ, cho chạy trạm đưa về Kim Lăng.
Trong các trận đánh đầu tháng 2 năm 1407, quân Minh đã tiêu diệt hơn 37.390 binh lính nhà Hồ. Trong trận Lục Giang ngày 21 tháng 2 năm 1407, quân Minh giao chiến với quân Hồ Nguyên Trừng có hơn 500 chiến thuyền. Dựa vào ưu thế hỏa lực áp đảo, quân Minh giết hơn 10.000 quân Hồ[sup][6][/sup]. Tài liệu Minh ghi rằng tên đạn trận đó bắn ra như sao sa, chớp giật[sup][7][/sup].
Ngày 4/5/1407, quân hai bên lại giao chiến lớn ở cửa Hàm Tử, quân Hồ huy động đến 70.000 binh lính, với rất nhiều chiến thuyền, đậu đầy trên sông đến 10 dặm. Quân Minh lại đánh bại quân nhà Hồ, giết hơn 10.000 người, bắt đến một ngàn thuyền chiến[sup][8][/sup]. Ngày 10 tháng 5, quân nhà Hồ lại thua một trận nữa ở Thanh Hóa, mất đến 10.000 quân nữa[sup][9][/sup].
Ngày 11 tháng 5 năm 1407, quân Minh bắt được Hồ Quý Ly, ngày 12 tháng 5 bắt Hồ Hán Thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh sai đô đốc thiêm sự Liễu Thăng; hoành hải tướng quân Lỗ Lân; thần cơ tướng quân Trương Thăng, đô chỉ huy sứ Du Nhượng; chỉ huy đồng tri Lương Định; chỉ huy thiêm sự Thân Chí bắt giải Quý Ly cùng các con, cháu; các tướng Đông Sơn Hương hầu Hồ Đỗ, hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tướng quân là Huyện bá Đoàn Bổng, Đình bá Trần Thang Mông, Trung lang tướng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín và 17 ngàn thợ khéo đến Kim Lăng để dâng.
<h3>[sửa]Sang đánh lần thứ hai</h3> [h4][sửa]Đánh nhà Hậu Trần[/h4] Năm 1408, Mộc Thạnh không chống đỡ nổi sức công phá của quân nhà Hậu Trần do Đặng Tất chỉ huy, bị thua trong trận Bô Cô, phải chạy về thành Đông Quan. Tháng 7 năm 1409, Trương Phụ lại đem quân sang cứu viện, thế quân Minh lại lên. Biết quân Nam mạnh về thủy chiến, Trương Phụ cho đóng nhiều thuyền chiến để nghênh địch.
Tháng 8, Trùng Quang Đế cầm cự với Trương Phụ ở Bình Than. Vua lệnh cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử. Bấy giờ lương thực rất thiếu thốn, Dung chia quân đi gặt lúa sớm để cấp cho quân. Quân Minh dò biết, dùng thủy quân đánh cửa Hàm Tử, quân Dung tan vỡ. Minh sử ghi lại Trương Phụ đánh với 20.000 quân Hậu Trần có 600 thuyền chiến, giết hơn 3.000 người, số bị chết đuối "vô số", và bắt được hơn 400 thuyền chiến[sup][10][/sup].
Ngày 6/9/1409, quân Minh lại giao chiến với quân Hậu Trần ở cửa sông Thần Đầu. Quân Hậu Trần có đến 400 chiến thuyền, tiến đánh rất hăng hái, nhưng không đọ lại được với hỏa lực quân Minh nên phải rút lui[sup][11][/sup].
Quân Minh đuổi theo quân Hậu Trần, đến ngày 7 tháng 2 năm 1410 đuổi đến châu Ngọc Ma thì thổ binh người Thái cùng voi chiến đổ ra đánh. Quân Minh dùng hỏa hổ bắn voi và quản tượng, voi hoảng sợ quay đầu chạy, quân Thái tan vỡ.
Đến ngày 12 tháng 2 năm 1410, quân Trương Phụ lại giao chiến với 2 vạn quân Hậu Trần tại Đông Hồ, giết 4.500 người và bắt làm tù binh 2.000 người[sup][12][/sup], quân Trần thua phải chạy về Nghệ An.
Tháng 6 năm 1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân đánh Nghệ An, gặp Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại thì Súy và Cảnh Dị vượt biển chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi.
Tháng 4 năm 1413, Trương Phụ lại đánh vào Nghệ An. Trùng Quang Đế rời đến Hóa Châu.
Tháng 9, Trương Phụ đánh nhau với Nguyễn Suý ở kênh Sái Già (sông Ái Tử). Quân hai bên đang cầm cự nhau, Đặng Dung mai phục binh tượng, nửa đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ nhưng không nhận ra. Phụ đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến một nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức đánh. Trương Phụ thấy quân Dung ít, quay lại đánh. Quân của Đặng Dung thua chạy.
Tháng 10, Trương Phụ cho đô đốc Hoàng Trung đi dò trước, chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba thích khách, đội cỏ xuôi dòng đến thuyền Phụ. Một người trèo lên mũi thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người, lại còn cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ý Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung phòng giữ không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém Trung. Các tướng đều tái mặt đi. Tháng 11, Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: "Tao định giết mày, lại bị mày bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn.
Trùng Quang Đế chạy sang Lão Qua. Phụ sai người lùng bắt được, đưa đến cửa quân. Người Thuận Hóa đều hàng. Nhà Hậu Trần mất.
Tháng 4 năm 1414, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Trần Hiệp đem Trùng Quang Đế, Nguyễn Súy và Đặng Dung về Đông Quan. Sai người giải về Yên Kinh. Trùng Quang Đế đi đến nửa đường nhảy xuống nước chết. Súy thấy Trùng Quang Đế đã nhảy xuống nước chết, ngày ngày chơi cờ với viên chỉ huy coi giữ mình, thành quen, mới lấy bàn cờ đánh hắn ngã xuống nước chết, Súy cũng nhảy xuống nước chết. Tháng 7, Trương Phụ ra lệnh cho các phủ, châu, huyện, phàn quân nhân bắt được tôi tớ, cùng đàn bà con gái trốn đi xứ khác thì giải về cửa quân. Tháng 8, Trương Phụ, Mộc Thạnh và Trần Hiệp trở về Bắc, chia quân trấn giữ. Hoàng Phúc ở lại.
Tháng 10 năm 1415, Trương Phụ giữ chức Chinh Lỗ phó tướng quân, lại sang trấn thủ. Đây là lần thứ 3 Phụ sang Việt Nam.
Tháng 2 năm 1416, Trương Phụ ra lệnh xét duyệt danh số thổ quân, lấy một phần ba số hộ khẩu chia về các vệ, sở. Mỗi hộ định mức là 3 đinh. Từ Thanh Hóa trở vào Nam, nhân đinh thưa thớt, định mức là 2 đinh. Chỗ nào không phải là vệ, sở mà là nơi quan yếu, cũng lập đồn lũy, lấy dân binh canh giữ. Tháng 9, quân lính huyện Tân An nổi lên, Trương Phụ dẹp được.
Năm 1417, Nội quan nhà Minh Mã Kỳ tâu rằng Trương Phụ ở Giao Chỉ chọn lấy những thổ nhân mạnh khỏe can đảm làm vi tử thủ [sup][13][/sup], hoàng đế nhà Minh nghi ngờ, gọi Phụ về, sai Phong Thành hầu Lý Bân giữ chức Tổng binh Chinh Di tướng quân sang thay Phụ trấn giữ.
Last edited by a moderator:
Vậy xét trong các cuộc viễn chinh của Trương Phụ, chỉ có duy nhất 1 lần là bị thua:
Tháng 9, Trương Phụ đánh nhau với Nguyễn Suý ở kênh Sái Già (sông Ái Tử). Quân hai bên đang cầm cự nhau, Đặng Dung mai phục binh tượng, nửa đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ nhưng không nhận ra. Phụ đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến một nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức đánh. Trương Phụ thấy quân Dung ít, quay lại đánh. Quân của Đặng Dung thua chạy.
Tháng 10, Trương Phụ cho đô đốc Hoàng Trung đi dò trước, chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba thích khách, đội cỏ xuôi dòng đến thuyền Phụ. Một người trèo lên mũi thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người, lại còn cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ý Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung phòng giữ không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém Trung. Các tướng đều tái mặt đi. Tháng 11, Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: "Tao định giết mày, lại bị mày bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn.
Cũng có thể là vận nước nam thật đen đủi, quân nhà Hồ và nhà Hậu Trần ko thắng nổi Trương Phụ 1 trận nào trừ việc Đặng Dung suýt nữa giết chết Phụ.
Vẫn biết là lịch sử ko có chữ nếu, nhưng nếu như trong trận đánh thuỷ đó mà Đặng Dung giết chết dc Trương Phụ thì biết đâu sĩ khí quân hậu Trần sẽ lên cao làm liều đô ping để xông lên giết giặc và bọn giặc mất đi Trương Phụ cũng sẽ bị mất nhuệ khí.
Nhưng cuối cùng rồi sự thật vẫn là sự thật, nc Việt đã thua và dưới 10 năm đô hộ của nhà Minh dân Việt đã sống lại thời kỳ tăm tối nhất mà Ức Trai mô tả:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tháng 9, Trương Phụ đánh nhau với Nguyễn Suý ở kênh Sái Già (sông Ái Tử). Quân hai bên đang cầm cự nhau, Đặng Dung mai phục binh tượng, nửa đêm đánh úp doanh trại Phụ. Dung nhảy lên thuyền của Phụ, định bắt sống Phụ nhưng không nhận ra. Phụ đi thuyền nhỏ trốn chạy. Quân Minh tan vỡ đến một nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức đánh. Trương Phụ thấy quân Dung ít, quay lại đánh. Quân của Đặng Dung thua chạy.
Tháng 10, Trương Phụ cho đô đốc Hoàng Trung đi dò trước, chặn ở thượng lưu. Nguyễn Súy sai ba thích khách, đội cỏ xuôi dòng đến thuyền Phụ. Một người trèo lên mũi thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Phụ biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người, lại còn cho tiền bạc. Hôm sau Phụ hội họp các tướng nghị bàn, Hoàng Trung nói không hợp ý Phụ, Phụ nổi giận kể tội Trung phòng giữ không nghiêm, để đến nỗi có chuyện khích thách, rồi chém Trung. Các tướng đều tái mặt đi. Tháng 11, Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt sống. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: "Tao định giết mày, lại bị mày bắt", chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn.
Cũng có thể là vận nước nam thật đen đủi, quân nhà Hồ và nhà Hậu Trần ko thắng nổi Trương Phụ 1 trận nào trừ việc Đặng Dung suýt nữa giết chết Phụ.
Vẫn biết là lịch sử ko có chữ nếu, nhưng nếu như trong trận đánh thuỷ đó mà Đặng Dung giết chết dc Trương Phụ thì biết đâu sĩ khí quân hậu Trần sẽ lên cao làm liều đô ping để xông lên giết giặc và bọn giặc mất đi Trương Phụ cũng sẽ bị mất nhuệ khí.
Nhưng cuối cùng rồi sự thật vẫn là sự thật, nc Việt đã thua và dưới 10 năm đô hộ của nhà Minh dân Việt đã sống lại thời kỳ tăm tối nhất mà Ức Trai mô tả:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
couto nói:Cái này cho em phản đối cái nháQuỳnh Rùa nói:Về Quân Đội nhà Hồ và cuộc xâm lược của nhà Minh:
Trước đó, nhà Hồ đã cho đắp thành Đa Bang - Sơn tây, đóng cọc trên sông Bạch hạc (sông Nhị Hà), Sông Thao, Sông cái nhằm chặn đường tiến quân của quân Minh. Đồng thời cho họp nội ngoại bách quan văn võ bàn việc nên hòa hay nên đánh (bắt chước nhà Trần) và kết quả cũng như nhà Trần lần trước: ĐÁNH.
Nhà Hồ cho tổng động viên quân đội cả nước gom được trên 20 vạn quân, ngày đêm tập luyện, chuẩn bị chống đỡ, thế nhưng vua quan nhà Hồ cũng biết tình hình đất nước, vua quan nhà Hồ than rằng: <span style=""color: #ff0000;"">"không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi</span>".
........
Có 1 chuyện em thấy chúng ta hay nói là: lòng dân, rồi "lấy yếu thắng mạnh", "lấy đoản binh thắng trường trân" chi chi đó.
Sao chúng ta ko nhìn nhận thẳng vào sự thật là binh lực của nhà vua không yếu, lương thảo thì dùng thoải mái, vậy thua trận thì đổi cho lòng dân, thực sự mà nói thì quân Minh mạnh hơn, có nhiều tài năng quân sự hơn đặc biệt là TRương Phụ, viên dũng tướng yêu quý của Minh Thành Tổ là kẻ có tài năng hơn hẳn các tướng lĩnh nước Việt.
Vì sao vậy, Trương Phụ 2 lần sang đánh dẹp nc Việt, lần đầu đánh nhà Hồ thì còn có thể nói là lòng dân ko phục do ko phải dòng chính thống
Nhưng lần 2 sang nc Việt lão vẫn thắng như trẻ tre và kết cục là nhà Hậu Trần cũng bị đánh cho lanh tanh bành
Hơ hơ.......cái này không phải em nói, mà là Hồ Nguyên Trừng nói:
trích lục wiki và ĐvSKTT đều có cả:
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Nguy%C3%AAn_Tr%E1%BB%ABng
Nhưng quả thật Trương Phụ quá giỏi trong việc dụng binh, nên việc đánh lại đạo quân này thật là khó. Trận thành Đa bang, quân Hồ chuẩn bị rất kỹ, có cả voi chiến nhưng vẫn thua vì Trương Phụ cho vẽ hổ rồi úp lên ngựa xông thẳng vào voi. Voi thấy hổ sợ quá chạy vào thành, quân Minh nhân dịp đó ùa vào thành mà đánh thắng trận Đa Bang. Quân Hồ thảm bại.
Last edited by a moderator:
Một nguyên nhân nữa là khi giặc Minh sang đánh nc Việt, nhà vua ko những hợp tung với Chiêm Thành thì chớ lại đem quân đánh dẹp, vừa hao tổn binh mã lại vừa mất chỗ dự đằng sau lưng.
Túm lại là tài năng quân sự ko có, tự tay bóp z.á.i khi đem quân sang đánh Chiêm Thành
Túm lại là tài năng quân sự ko có, tự tay bóp z.á.i khi đem quân sang đánh Chiêm Thành
couto nói:Một nguyên nhân nữa là khi giặc Minh sang đánh nc Việt, nhà vua ko những hợp tung với Chiêm Thành thì chớ lại đem quân đánh dẹp, vừa hao tổn binh mã lại vừa mất chỗ dự đằng sau lưng.
Túm lại là tài năng quân sự ko có, tự tay bóp z.á.i khi đem quân sang đánh Chiêm Thành
Cái này đúng nè, tự nhiên năm 1400, vua Hồ 15 vạn quân kêu tướng bất tài Trần Tùng "củ chuối" sang đánh Chiêm Thành chả được gì lại đi tay không về. Tiếp đó năm 1402 lại sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ mãn đem 20 vạn quân sang đánh tiếp. vây thành Đồ Bàn cả tháng trời không hạ được thành lại "sách xe về không". đúng là hao binh tổn tướng tốn lực của đất nước, không biết tập trung lực lượng mà chống quân Minh.
Last edited by a moderator:
Quỳnh Rùa nói:Tùy bút.
"cha thời đã mất vài năm trước
mẹ thời thương nhớ bệnh liên miên
nợ thời vất vả nhiều lo lắng
tình còn vương vấn bóng hình ai!"
(Chimtrang)
Cha thì hay đau yếu
Mẹ vẫn lo quán xuyến
Nợ thì em trả dần
Tình thì bay theo gió
Couto ( Chim đen)