Chán ông quá. Dẫn luật mà chả hiểu đang dẫn cái gì.Hi hi, em lại phải dẫn Luật làm bằng chứng thôi, bác xem quyền sử dụng đất của bác có thuộc trường hợp này ko nhé,
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tại ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho g b và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dị7ch bằng tài sản riêng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”
Ông có biết tôi viết, nói ông sai chỗ nào không? Ông chịu khó đọc lại kỹ những gì tôi chỉnh ông đi.
Ông sai ở chỗ, dùng không chính xác thuật ngữ pháp lý (chỗ tô đậm, còn chỗ khác, ông dẫn đúng). Ông dùng thuật ngữ "sau hôn nhân" ở đoạn đầu, rồi dùng thuật ngữ "sau khi đã kết hôn" ở đoạn sau để diễn tả cùng 1 ý "trong giai đoạn hôn nhân hợp pháp" là không đúng. Luật pháp không dùng thuật ngữ "sau hôn nhân" để diễn tả "sau khi đã (đăng ký) kết hôn". "Sau hôn nhân" là cách nói dân dã, nếu phân tích chính xác, là diễn tả giai đoạn sau giai đoạn hôn nhân, tức là giai đoạn khi mà hôn nhân đã xong (chấm dứt), tức là ly hôn.
Cái sai này cũng tương tự cái sai dùng thuật ngữ "sau Công nguyên". Chỉ có "trước Công nguyên" và "(trong) Công nguyên", chứ chưa xảy ra "sau Công nguyên".
Ông rất nhiệt tình, nhưng hiểu biết về luật hạn chế, nên cân nhắc khi tư vấn nhé.
Chỉnh sửa cuối: