Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Cuốn nhật ký được số hóa từ nhật ký của Liệt Sỹ Dương Văn Minh - là một trong số các chiến sỹ đã chiến đấu và hy sinh trên điểm cao 384 - bởi một nhóm bạn trẻ yêu thích chủ đề người lính và quân sự sinh hoạt trên facebook tại địa chỉ : http://www.facebook.com/WarComissar.
___________________________________________________________________

Trăn trở lớn nhất của ông Dương Văn Minh ( đã mất ) người ghi lại cuốn nhật kí này cùng gia đình liệt sĩ Nguyễn Tiến Liễu là chưa tìm được hài cốt của các liệt sĩ Đại đội 62 anh dũng đã nằm lại trên đồi 384 về với quê hương, cũng như câu chuyện về những người anh hùng ấy chưa được gia đình các liệt sĩ còn lại biết tới. Vì vậy xin cộng đồng hãy cùng chung tay giúp sức, đưa cuốn nhật ký này tới gia đình những người anh hùng sau nếu có thể tìm được:
Liệt sỹ : Đồng Văn Soạn. Sinh năm : 1948. Quê: Phú Lương – Thái Nguyên. Nhập ngũ: 1967. Thiếu Úy. Đại Đội Trưởng. Đảng Viên. Hy sinh: 18-4-1972 tại cao điểm 384.

Liệt sỹ: HOẠT. Quê: Kiến An - Hải Phòng. Chuẩn úy, Đại đội trưởng. Đảng viên. Hy sinh: 27-1-1973. Tại cầu Suối Vối. Xã Song An. An Khê. Gia Lai <đường 19>.

Liệt sỹ: Nông Văn Thu. Năm sinh: 1948. Quê: Bản Noọng. Xã ?. Huyện Phú Lương. Thái Nguyên. Nhập ngũ: 1967. Trung sỹ. Tiểu đội trưởng. Hy sinh: 15-4-1972. Tại cao điểm 384.
Liệt sỹ: Đào Duy Hiển. Năm sinh: 1953. Quê: xóm Minh Phượng. Nham Sơn. Yên Dũng. Bắc Giang. Nhập ngũ 5-1971. Chiến sỹ. Hy sinh: 15-4-1972. Tại cao điểm 384.

Liệt sỹ: Hà Văn Bình. Quê: Thị xã Hòa Bình. Dân tộc Mường. Hạ sỹ. Y tá đại đội. Hy sinh 15-4-1972. Tại cao điểm 384.
Liệt sỹ: Nguyễn Văn Du. Quê: Quế Võ - Bắc Ninh. Nhập ngũ: 1970. Trung sỹ. Tiểu đội trưởng. Hy sinh: 15-4-1972. Tại cao điểm 384.
Liệt sỹ: Kiều Minh Toán. Năm sinh: 1951. Quê : Ba Vì. Hà Tây. Nhập ngũ:1970. Hạ sỹ. Tiểu đội phó. Đảng viên. Hy sinh 18-4-1972. Tại cao điểm 384. Đơn vị : Đại đội 51. Tiểu đoàn 5. Trung đoàn 12. Sư đoàn 3 Sao Vàng.
Liệt sỹ: Trần Văn Chính. Năm sinh: 1953. Quê: xóm Sến. Hồng Thái. Việt Yên. Bắc Giang. Nhập ngũ : 15-5-1971. Chiến sỹ liên lạc. Hy sinh : 13-4-1972. Tại cao điểm 384. Đơn vị: Đại đội 1 Công binh, tiểu đoàn 6, trung đoàn 12, sư đoàn 3 Sao Vàng.
_____________
Bối cảnh lịch sử
Tại cuộc họp ngày 15 tháng 8 năm 1971, các thành viên chủ chốt trong Bộ chính trị đã quyết định mở một cuộc tấn công lớn vào năm 1972 trên 3 hướng chiến lược: Trị Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ. Trong đó, hướng Trị Thiên - Huế được chọn làm hướng tấn công chính. Hướng Đông Nam bộ là hướng tấn công quan trọng và Tây Nguyên là hướng tấn công thứ yếu. Đồng bằng Trung Trung Bộ và Đồng Bằng Nam Bộ là những hướng phối hợp.
Điện ngày 8 tháng 3 năm 1972 của Quân ủy Trung ương Quân đội nhân dân Việt Nam gửi Trung ương cục miền Nam có đoạn viết: "Năm 1972 là năm hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh... trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Nhiệm vụ cần kíp là đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị, binh vận.. và ngoại giao... tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện trên chiến trường miền Nam và cả trên bán đảo Đông Dương. Buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh... bằng một giải pháp chính trị ... mà Mỹ có thể chấp nhận được".
Trên mặt trận phối hợp đồng bằng Nam Trung Bộ, Sư đoàn 3 Sao Vàng ( thiếu trung đoàn 12 ) tổ chức tấn công giải phóng 3 huyện ở Bắc Bình Định. Trung đoàn 12 của các chiến sĩ trong cuốn nhật ký sau có nhiệm vụ chốt giữ đường 19 huyết mạch nối từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên. Không cho địch tổ chức ứng cứu lẫn nhau giữa duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tạo thế chia cắt, giảm thiểu sức mạnh hỏa lực chi viện, tiếp tế của địch.
Trên đường 19, đoạn từ Thượng Giang – Bình Định tới đèo An Khê – Gia Lai là vùng rừng núi hiểm trở, đường dốc quanh co, tầm nhìn hạn chế tới mức tối đa. Dễ phục kích, đánh chặn các đoàn cơ giới – tiếp tế chuyển quân nên ta và địch tranh giành kiểm soát khu vực hết sức ác liệt. Trung đoàn 12 tổ chức chốt giữ ở hai điểm cao 638, 384 và khu vực cống Hang Dơi nằm trên mặt đường 19. Ba điểm nói trên tạo thành một bức tường thép chắn ngang đường 19. Đại đội 62, tiểu đoàn 6 trong cuốn Nhật ký này được giao chốt giữ cao điểm 384.
Các chiến binh Sư đoàn 3 Sao Vàng ngày ấy có câu : "ăn xóm 4, ngủ xóm 5, máu xóm 6". Tiểu đoàn 6 là tiểu đoàn chủ lực của Trung đoàn 12, nổi tiếng vì đánh rất nhiều trận cực kì ác liệt với kẻ thù. Nổi tiếng nhất có lẽ là trận đánh vào Đập Đá, cửa ngõ khu vực thị xã Quy Nhơn tháng 1 năm 1968. Hơn năm trăm cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn đã chiến đấu tới hơi thở cuối cùng trong vòng vây đông đảo của kẻ thù cho tới khi súng hỏng, đạn hết. Cuối cùng chỉ còn hơn mươi người trở về. Và truyền thống đó còn được tiếp tục phát huy bởi các thế hệ sau của tiểu đoàn ngay cả trong chiến tranh biên giới chống Trung Quốc bành trướng sau này.
Đối thủ của các chiến sĩ sư 3 ngày ấy chủ yếu là Sư đoàn Mãnh Hổ - lính Nam Triều Tiên, nổi tiếng với việc huấn luyện kĩ càng, thiện chiến. Tinh thông võ thuật, thủ đoạn chiến trường tinh vi, lại được Hải Lục Không quân Hoa Kỳ hỗ trợ bằng pháo, máy bay suốt ngày đêm. Và trong cuốn nhật ký này cũng vậy. Chỉ 12 chiến sĩ Đại đội 62 tiểu đoàn 6 đã anh dũng chống trả một tiểu đoàn Mãnh Hổ cùng mưa bom, pháo, rốc két của kẻ thù cho tới giọt máu cuối cùng trên cao điểm 384 anh hùng ấy...
 
Last edited by a moderator:
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
CHIẾN DỊCH XUÂN HÈ 1972
Bộ đội trung đoàn 12 mở chiến dịch triệt cắt giao thông đường 19 (Quy Nhơn - Plây Cu) nhằm mục đích:

1. Tạo điều kiện cho Tây Nguyên giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh.
2. Kìm chân sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên, không cho chúng ứng cứu chiến trường Bắc Bình Định. Tạo điều kiện cho các đơn vị khác của sư đoàn giải phóng Bắc Bình Định

Trong nhiệm vụ chung đó, Đại đội 62 trong đội hình Tiểu đoàn 6 nhận nhiệm vụ chốt giữ cao điểm quan trọng của mặt trận - Cao điểm 384.

Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ gồm 1 trung đội, dưới dự chỉ huy trực tiếp của Đại đội trưởng Đồng Văn Soạn và Trung đội trưởng Nguyễn Tiến Liễu

Mười một anh em chúng tôi Đại đội 62 và Kiều Minh Toán, chiến binh bổ sung của Tiểu đoàn 5, tuổi từ 19 đến 24. Riêng anh Nguyễn Tiến Liễu, Trung đội trưởng, tổ trưởng Đảng, cao tuổi nhất: 38 tuổi, chúng tôi tôn anh là anh cả. Trung đội chốt đã kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ, thề chiến đấu giữ chốt đến giọt máu cuối cùng. Qua 10 ngày đêm chiến đấu, 8 người anh dũng hy sinh, 3 người bị thương rời trận địa. Tôi là người còn lại cuối cùng, chứng kiến mọi sự việc xảy ra qua 10 ngày đêm sống và chiến đấu trên cao điểm. Tôi xin ghi lại toàn bộ sự việc qua những trang nhật ký này, để ca ngợi hành động chiến đấu dũng cảm hy sinh oanh liệt của đồng đội tôi và của tập thể chốt, của ngọn đồi 384 đã đi vào huyền thoại.
--------------------------------------------------------------
Ngày 9 tháng 4 năm 1972
Sau hai ngày trời lặn rừng lội suối, hôm nay tới đây - suối Đồng Tre. Lúc này lại quá nhàn rỗi, quay ra ngủ. Bởi cái thú bậc nhất của thằng lính trong chiến tranh là được ngủ yên tĩnh, không bị quấy rầy. Ngày hôm nay tôi đã được "tận hưởng" cái thú ấy. Bao nhiêu cái suy nghĩ, tính toán đã có "đội ngũ" cựu binh họ đảm đương. Mình là lính mới, biết gì mà "tham mưu". Vậy nên cứ ngủ phứa đi. Ngủ "trả thù" cho mấy đêm, mấy ngày vừa rồi ngủ ít vì phải tranh thủ hành quân.


Lý do nữa là đội anh Liễu, anh Thu đi xác định vị trí của 384. Đến là rầy rà. Những mỏm núi phía Bắc suối Đồng Tre. Đâu là 384? Khó tìm ghê! Anh Soạn đại đội trưởng biết nhưng lại đi sau, nên chúng tôi mới phải nhọc công thế này.
Quá trưa sang chiều các anh trở lại. Thu lầm bầm oán trách "thằng Soạn" đồng hương quan liêu làm khổ anh em. Anh Liễu bảo: "Cố gắng ngủ nốt buổi chiều còn lại. Kẻo mà lên chốt muốn ngủ cũng không được nữa".

Chạng vạng tối - Hành quân chiếm lĩnh

Tôi khoác balô nặng nơi vai. Súng treo nơi ngực. Tay phải cầm gậy, tay trái gạt cây rậm, bám sát người đằng trước. Biết rằng từ đây, đời sẽ diễn ra những điều ghê gớm. Khó khăn khốc liệt của cảnh lính trận sẽ là vô cùng. Song mình là thằng lính biết tôn trọng danh dự. Phải hạ quyết tâm mà xốc tới thôi. Không thể sống khác được đâu. Đường lên cao điểm cheo leo hiểm trở vô cùng. Dốc đó dựng đứng. Lối mòn luồn giữa những dây rợ chằng chịt. Bám sát nhau mà leo ngược con dốc dựng đứng, trong hoàn cảnh phải tuyệt đối giữ bí mật. Không dám thở to. Đoàn người gồm 8 anh em cứ lầm lũi bám sát nhau, bám rễ cây mà leo lên. Ai cũng mang trên lưng một trọng lượng khá nặng. Cánh lính mới chúng tôi cùng mang tới 45 kg. Riêng Nông Văn Thu mang tới 60 kg trên lưng mà vẫn dẫn đầu đội hình. Bản thân tôi thì... ôi chao mệt quá chừng.


Chưa bao giờ tôi phải cố gắng đến tột mức như thế này. Đành phải cố mà theo anh em thôi. Tới đỉnh núi. Nghỉ. Chắc là trận địa đây rồi. Ngoái nhìn lại chặng đường: Mừng vì cuộc hành quân mang nặng leo ngược dốc đã kết thúc. Sợ vì cuộc đời lính trận là muôn ngàn những thử thách, muốn hay không muốn cũng khó lòng mà chối từ. 384 "đón tiếp" ta thế này đây. Phải chăng là sự báo trước những khốc liệt của cảnh lính "chốt"? Điểm lại đủ 8 anh em: Liễu - Thu - Khương - Bình - Du - Hiển - Thực - Ninh. (Để biết rằng không có ai hèn nhát phải đào ngũ). "Họp"! Anh Liễu hạ thấp giọng, đầy quan trọng:

- Tuyệt đối giữ bí mật. Anh chỉ tay về phía mỏm núi phía Đông Nam trận địa. Các cậu đã nhìn thấy thằng Sô-Đô rồi chứ?

Kẻ thù chính sẽ không đội chung trời với chúng ta đấy. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ là không còn kịp để rút kinh nghiệm nữa đâu. Cấm nói to, va động mạnh, phát ánh sáng. Phải đảm bảo tuyệt đối bí mật đến giờ D ngày N. Đã gần địch thì chẳng cần nói nhiều, ai cũng tự biết phải làm gì vì không thể đùa với thần chết được.

Lệnh: Đào công sự!

Tranh thủ màn đêm. Tranh thủ thời gian. Khẩn trương bí mật triển khai công sự sớm chừng nào tốt chừng đó. Biết rõ lợi thế của loại áo giáp này trong chiến tranh, chúng tôi đã dồn mọi khả năng sức khỏe, thức suốt đêm để đào dũi. Mỗi tổ 3 người. Phân công nhau: 1 cảnh giới, 2 đào. Không có "chế độ" ngủ trong đêm. Tổ của tôi gồm: Thu - Du - tôi. Chúng tôi đã thức trắng đêm đầu tiên trên chốt. May "áo giáp" như thế đấy.

Một đêm không ngủ đã qua. Buổi đầu tôi đã biết được đời lính chiến trong khói lửa là thế nào. Liệu rồi mình sẽ ra sao đây? Có đủ sức mà đạp bằng, mà chịu đựng, mà vượt qua xốc tới như đã thề trước khi ra trận không?
 
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Ngày 10 tháng 4 năm 1972

Buổi sáng, ngụy trang thật khéo để che mắt thằng Sô-Đô trước mặt chỉ cách ngàn mét. Để che con mắt của thằng OV10 cứ vè vè săn tìm suốt ngày. Rồi mới có thể làm được. Tôi ngồi cảnh giới cho Thu và Du làm. Vậy mà càng đỡ vướng cho hai người. Bởi một thằng thằng gầy loẻo ngoẻo như tôi theo sao kịp 2 ông "hộ pháp". Dù tôi có cố gắng bao nhiêu thì "tiến độ" vẫn bị chậm. Tôi cuốc thì không đủ đất cho anh xúc. Tôi xúc thì không theo kịp anh cuốc. Đất cứ đùn thành đống tướng. Vậy nên tôi càng phải cố trong mọi "lĩnh vực", sợ nhất là họ chê mình là hèn kém. Thế mới biết sức khỏe cần cho thằng lính là thế nào. Xin được giới thiệu "tiểu sử" của 2 vị cựu binh.


Nông Văn Thu. Quê: Bản Noọng, xã X huyện Phú Lương - Bắc Thái. Dân tộc Tày. 24 tuổi. Nhập ngũ: 1967. Cao: cỡ 1m70, nặng: 75 kg. Trắng, đẹp trai, hiền lành, thật thà, bản tính lầm lỳ, ít nói, làm luôn chân tay. Gặp ai khó khăn sẵn sàng giúp đỡ. Sức khỏe của anh vào loại hiếm có. Tôi chưa từng thấy ai khỏe như anh. Đúng quả là một con gấu của núi rừng Việt Bắc. Có một chuyện về anh thế này:

Một lần Thu và Du đi công tác, trên đường rẽ vào làng Mật (một buôn nhỏ của người Ba-na) gặp một phụ nữ trở dạ đẻ giữa đường. Không chần chừ, Thu ra lệnh cho Du: Hạ balô xuống giúp người ta. Thế là lập tức, Thu làm "bác sỹ" khoa sản. Còn Du, dù muốn hay không muốn, cũng phải làm "hộ lý" bất đắc dĩ, ngoan ngoãn phục tùng sự sai bảo của Thu, không dám nhìn việc Thu làm. Để rồi sau đó, câu chuyện trên được Du "chuyển thể" thành câu truyện tiếu lâm; nhắm mắt, ôm bụng, vỗ đùi, vừa cười sằng sặc vừa kể. Cánh lính trẻ chúng tôi hưởng ứng câu truyện rất nhiệt tình, và những trận cười như pháo lại nổ ra, cho dù Du kể đi kể lại tới lần thứ bao nhiêu, vẫn làm cho chúng tôi phải bò ra mà cười. Trước việc làm phúc đức của Thu rất đáng được ca ngợi và nêu gương, để cho câu truyện thêm rôm rả, chúng tôi xoáy vào chọc Du. Du chẳng hề tự ái chút nào, còn thêm thắt những chi tiết hài hước để chọc Thu (vì chúng tôi không ai dám chọc "con gấu" ấy). Mỗi lần như vậy, Thu chỉ lầm lì chăm chú vào việc đang làm, dường như không có trận cười, và không chú ý đến trận cười đang "hại mình". Quá lắm, một lần Thu hỏi Du: "Mày cười thế có sướng cái miệng không Du?". Vậy là chúng tôi lại bò ra cười.

Là tiểu đội trưởng, dày dạn kinh nghiệm qua nhiều trận đánh, anh trực tiếp "huấn luyện" tôi mọi động tác trong chiến đấu và vận động cá nhân. Thấy gì, nghĩ gì anh bảo tôi vậy, rút kinh nghiệm từ chính bản thân mình làm "khoa mục" hướng dẫn tôi. Tôi là "học trò" vốn đã có sự khâm phục anh sẵn nên cứ im như thóc mà nghe. Thu "kết luận" bài giảng bằng ngôn ngữ người Tày của anh như thế này: "Đánh nhau, phải biết chết, đừng biết sống vớ". Nghĩa là anh bảo tôi: Đã là lính chiến thì không được sợ chết. Có chấp nhận cái chết thì mới đủ bình tĩnh, dũng cảm để chiến đấu và chiến thắng. Nông Văn Thu là thế đấy. Một người lính có tài, có đức. Nên học tập nhiều ở anh lắm chứ.

Nguyễn Văn Du. Quê: Quế Võ, Hà Bắc. Nhập ngũ: 1970. Cao: 1m65. Nặng: cỡ 60 kg. Da ngăm đen, đẹp trai. Trung sỹ - Tiểu đội trưởng. Đã qua chiến đấu nhiều trận nên dày dạn kinh nghiệm. Dũng cảm - gan dạ. Có tài ném lựu đạn "chụp", nghĩa là quả lựu đạn của anh tung ra, cách mặt đất 1 mét đã nổ tung trên không như quả pháo chụp vậy, cách này của anh gây sát thương rất cao cho địch. Chúng tôi không dễ gì mà học tập được ở anh kinh nghiệm ấy. Tai nghễnh ngãng vì bị sức ép bom. Anh Liễu đặt cho cái tên: nhà thơ điếc, mặc dù chưa hề thấy anh đả động gì đến thơ phú bao giờ. Ôi Nguyễn Du: chả là anh ta trùng tên với Đại thi hào nổi tiếng mà - "Nhà thơ điếc": Thật thà, chất phác nhưng nóng tính như hổ. Xạ thủ trung liên. Vào chiến trường trước chúng tôi một khóa huấn luyện nên được lính Hà Bắc tôn làm anh. Sức khỏe của anh ở đại đội này chỉ đứng sau Thu mà thôi. Được ở gần 2 "ông hộ pháp" cũng là dịp may cho tôi, trước hết là việc đào hầm.

Thu và Du là đôi tri kỷ. Thân nhau tới mức, dù ở đâu, có Thu phải có Du, hoặc ngược lại. Thu người dân tộc, đặc điểm lầm lì ít nói, làm suốt ngày, hết việc cá nhân đến việc chung, hoặc giúp đỡ người khác, ít khi thấy anh ngồi không tán gẫu. Còn Du thì ngược lại, theo Thu đẽo đẽo và kiếm chuyện chọc tức bạn, để rồi cười ngặt nghẽo. Nghĩa là ở đâu có Thu là ở đấy có tiếng cười của Du. Song, trước sự chọc tức ấy của bạn, "con gấu" lại tỏ ra hiền lành, nhường nhịn không hề tỏ ra phản ứng nổi giận gì. Nên trông cặp "uyên ương" ấy mới dễ mến làm sao. Anh Liễu bảo: "Thằng Thu nó chỉ chịu mỗi thằng Du ở đại đội này thôi". Tôi ngồi cảnh giới. Sau một đêm thức trắng làm việc, giờ đây được ngồi yên; trước công sự được ngụy trang kín, trên đỉnh núi gió mát, khí hậu trong lành, ngủ thiếp đi lúc nào không hay, cho tới khi Du "báo thức" bằng cái véo tai rõ đau. Tôi xin lỗi anh và xin tiếp tục được làm, kẻo ngồi đây thì phải "mắc màn" thôi.

Buổi chiều. Địch bắn phá vào khu vực chiến trường, dọc hai bên đường 19. Vài quả pháo rơi vào đồi 384. Lộ rồi hay sao? Mỗi người đưa ra câu hỏi, rồi tự nhận định:

- Lại mấy thằng tân binh đi lại lộn xộn làm lộ!

Ôi! Lính mới. Họ gán cho lính mới tội gì chẳng phải chịu. Vậy mới phải cố trong mọi "lĩnh vực" để họ hết xem thường lính mới. Chắc là Chính - Hiển - Thực cũng nghĩ như tôi thôi.

Xẩm tối, anh Soạn đại đội trưởng và Chính - chiến sỹ liên lạc - lên chốt. Quân số tăng lên 10. Tôi được lệnh sẵn sàng chiến đấu, cảnh giới cho toàn chốt. Bây giờ mới có dịp quan sát mặt trận: Con đường 19 chạy từ Đông sang Tây. Dọc hai bên trục đường, các chốt điểm của địch nằm cách nhau đều đặn: Trái Tim, Mâm Xôi, Hòn Ngang, Hòn Kiềng, v.v. như trên sa bàn tác chiến đã hướng dẫn. Và nơi đây, đối diện 384 về phía Đông Nam, thằng Sô-Đô với 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, đối thủ chính của chúng tôi. Liệu chúng đã biết gì về sự có mặt của đội quân này chưa, mà mấy khẩu đại liên không mấy lúc ngừng bắn, pháo của địch vẫn khoan nhặt nổ? Những quả đạn vu vơ không địa chỉ vẫn nổ lung tung vào trong rừng, và bọn trực thăng chiến đấu thả pháo sáng, bắn đạn 20 ly vu vơ. Anh Liễu bảo: "Nó hoạt động bình thường về đêm đấy mà. Đã có gì dám chắc là nó phát hiện ra quân ta. Cứ làm việc bình thường, giữ bí mật cho tốt, chưa lộ đâu mà lo".

Đêm họp. Anh Soạn phổ biến tình hình. Xác định quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Cuối buổi họp, anh Liễu "bật mí": Đêm nay chính thức là đêm N - 10/4; giờ D là không giờ ngày 11/4/72. Tin tuyệt mật, chỉ có lính chốt mới được biết thôi.
 
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Ngày 11 tháng 4 năm 1972
Lại qua một đêm thức trắng làm cật lực nữa. Sáng nay chúng tôi đã "thiết kế" tạm xong hệ thống phòng ngự: hầm tránh pháo, công sự chiến đấu của các tổ, các hướng tất cả liên kết với nhau bởi đường giao thông hào hình vành khăn khép kín trên đỉnh núi. Diện mạo của 384 đây. Thế trận của Đại đội 62 đây. Chúng tôi đã tạo cho 384 thế đứng của chàng hiệp sỹ đứng thế thủ, sẵn sàng tiếp nhận cuộc chiến đầy tự tin, quyết đánh và quyết thắng.

Địch phản ứng mạnh (Chắc đêm qua ăn đòn ở Cây Rui). Chẳng hiểu "bọn" Đặc công đêm qua làm ăn thế nào, "nhai" Cây Rui có "gọn" không? Các trận địa pháo của địch như điên như dại, bắn đi tứ tung vào trong rừng. Những quả pháo không có địa chỉ, gầm hú bay loạn trên trời rồi rơi nổ bừa bãi. Nào đã biết "Vi-xi" ( VC – Việt Cộng – Cách quân Mỹ gọi quân giải phóng ) ở đâu mà bắn.

Tiếng súng mở màn chiến dịch đã nổ từ giờ D đêm qua ít nhất thì lũ Nam Triều Tiên đã được ăn đòn từ đó. Đường 19 chính thức đã bị cắt. Huyết mạch giao thông quan trọng của địch, nối Tây Nguyên với đồng bằng và ngược lại, đã bị quân ta bóp chẹt. Con thú khổng lồ đã bị chàng hiệp sỹ bóp hầu. Ta càng bóp mạnh, xiết mạnh, nó giãy càng khỏe. Nó càng giãy khỏe ta càng phải xiết mạnh hơn nữa. Cả 2 phía đã đưa lẽ sống "Không đội trời chung" đến độ cao nhất. Chúng tôi đã quán triệt quyết tâm chiến đấu lâu dài gian khổ, nên càng sẵn sàng đón nhận khốc liệt,hy sinh sẽ đến với mình. Trong cuộc chiến đấu dài ngày đầy gian khổ ác liệt này.

Máy bay địch xuất hiện ngày càng nhiều, náo động không gian suốt ngày suốt đêm. Đủ loại,đủ tên: Phản lực ném bom, phản lực siêu âm,trực thăng chiến đấu ..vv.. Tưởng như quân chủng Không quân và Hải quân Mỹ đang giới thiệu các chủng loại máy bay trước mấy anh em lính chốt chúng tôi. Nghiêng ngó săn tìm, nhào lộn đe dọa suốt 24h/ngày. Bầu trời không lúc nào vắng "tụi" này. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ của chúng tôi là chúng bu lại "đón tiếp" bằng nhiều cỡ đạn và nhiều kiểu bom. Phối hợp với lực lượng Pháo binh Mỹ với nhiều trận địa pháo,các cỡ pháo. Cộng với sư đoàn Bộ binh Nam Triều Tiên. Cả Hải-Lục-Không quân Mỹ càng phối hợp tham chiến. Lực lượng tham chiến của địch thì hùng mạnh như vậy còn về phía chúng tôi, ra quân trong khi lực lượng thế này : 10 anh em đầu trần chân đất, súng bộ binh, không hề có sự viện trợ của bất kỳ lực lượng nào. Cũng bày sẵn thế trận, chấp nhận "một" khốc liệt của cuộc chiến. Thà hy sinh tất cả phải thực hiện được nhiệm vụ: Chặn bước quân giặc, giữ cao điểm. Quyết chiến đấu giữ chốt đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi đã và đang làm điều cha anh đi trước vẫn làm trong chiến tranh nhân dân: Dùng ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh đã làm nên chiến thắng đi vào lịch sử. Chúng tôi đã bày thế trận 384, và thế trận này đang thách quân thù nhảy vào, để xem lá gan ai lớn trong cuộc đọ sức này.

Gần trưa. Pháo bắn vào 384.

Ngồi trong hầm tránh pháo. Ngón tay trỏ bịt chặt nòng súng kẻo cát rơi làm súng hóc, mắt vẫn phải mở to theo dõi ra ngoài. Nếu thấy giấy bay loạn xạ tức là chúng bắn pháo giấy cho Bộ binh tấn công. Phải lập tức đứng dậy mà đánh trả. Hoặc pháo chuyển làn phải trở lại vị trí chiến đấu. Hoàn toàn không được chúi đầu tránh pháo. Ta và địch phải lừa nhau từng đòn để tiêu diệt nhau. Không đội trời chung, một mất một còn mà.

Trực tiếp giơ đầu hứng chịu ác liệt của trận oanh tạc. Trong tiếng pháo gầm rú xé màng nhĩ. Mảnh đạn bay kêu vo vo như muỗi đêm hè. Những tiếng nổ long óc. Tia chớp nhằng nhịt như những tia sét trong đêm dông. Lửa. Khói. Trời đang nắng to. Giữa ban trưa mà sập tối như hũ nút, bởi khói của nhiều quả đạn pháo nổ, với mật độ dày đặc đã tạo ra màn đêm, che phủ kín ngọn đồi, che lấp cả ánh mặt trời. Sự sống và cái chết đã xích lại gần nhau như ngàn cân treo sợi tóc. Mong cho điều rủi ro đừng đến với mình. Mong cho trận oanh tạc qua nhanh. Trước sức phá và đe dọa của thần chết, cảm tính sợ sệt lên tiếng mạnh mẽ, tôi lo sợ thực sự. Dù cố gắng trấn tĩnh đến bao nhiêu cũng không đè bẹp được cảm giác sợ chết lúc này.

Là lính bộ binh trực tiếp đối mặt với quân thù. Tôi đã tự biết rằng phải có lòng gan dạ dũng cảm trong ác liệt chiến trận thì mới làm nên chuyện. Vẫn biết gan dạ dũng cảm là thứ vũ khí lợi hại trước tiên, là đức tính tốt, là điều cần thiết phải có của một chiến binh ở chiến trường. Song, trước ranh giới của sống, chết, để làm nên điều đó thật là khó. Tạo ra được tâm trạng bình tĩnh, không run sợ trước sự hăm dọa của vũ khí giết người tối tân hiện đại, của quân đội Mỹ. Lúc này khó vô cùng, ít nhất thì cũng đã trải qua đôi lần. Với tôi, lại là lần đầu tiên gặp phải, nên trấn tĩnh được tâm trạng lúc này quả là không thể làm nổi!

Mãi rồi trận oanh tạc đi qua, pháo chuyển làn sang nơi khác, khói loãng dần rồi tan. Trời sáng dần, rồi trở lại ánh sáng của một buổi trưa hè. Nhưng mùi thuốc đạn khét lèn lẹt thì đọng ở tất cả mọi nơi, đầy sặc trận địa chốt, đầy cả trên thân thể, đầu tóc, quần áo của từng người. Hai lỗ mũi và cổ họng cũng đầy thuốc pháo, nên ngửi vào đâu, ở chỗ nào cũng thấy mùi khét và vị đắng thuốc đạn. Dứt loạt pháo, Bình y tá ghé vào hầm, kiểm tra một lượt xem có ai ảnh hưởng gì không.

Du cười khà khà:

- Chưa cần thuốc của ông. Có điều ông xin thì tôi cho ông thuốc đây.

Ba bốn cái đầu chụm vào vấn thuốc lá hút. Bình nhìn tôi, nháy mắt riễu cợt:

- Thế nào, "Phát biểu" cho "qua" nghe thử.

Tôi thành thật:

- Tương đối đấy anh ạ !

Anh cười lớn, phô hàm răng vàng khè vì ám khói thuốc lá. Nói với giọng từng trải:

- Các cậu là lính mới, nên còn "lạ miệng" với cái "món" này lắm. Yên trí đi. Từ xưa tới giờ. Khi cậu còn chưa là lính giải phóng nó đã bắn rồi. Vậy nên cứ mặc mẹ nó là hơn cả. Việc nó, nó bắn. Việc mình, mình làm. Lo gì!

Thu hỏi:

- Tại sao nó bắn mày không làm mà rúc vào hầm làm gì ?

- Thì "giải lao" một lúc đã sao. Rồi anh ta lại phá lên cười như không hề có chiến tranh xảy ra ở đây.

Du hỏi Bình:

- Này, Mày có nhớ lính ta vẫn "Khấn" thế nào không ?

- Khấn gì ?

- "Thần chú" chứ còn gì nữa. Mỗi lúc vấp ác liệt, cứ "Khấn" lên, có vẻ an tâm phần nào đấy. Mày nhớ không??

Bình "à" một tiếng, rồi vỗ đùi, e hèm lấy giọng, sửa lại tư thế ngồi, rồi "Khấn":

- Thế này, "Khấn" rằng: Việc nó, nó bắn. Bắn nhiều chưa chắc đã trúng, trúng nhiều chưa chắc đã bị, bị nhiều chưa chắc đã bị nặng. Bị nặng chưa chắc đã chết. Yên trí, đâu khắc có đó mà !

Bỗng anh Liễu xuất hiện nơi cửa hầm. Nghiêm giọng quát:

- Khẩn trương sơ tán ngay. Đây là đâu mà các cậu "họp chợ" hả. Ai về hầm nấy ngay.

Tôi tiếc, vì cuộc vui tới đây đã phải tàn. Song, mệnh lệnh của anh Liễu phải chấp hành thôi. Chiến tranh mà.
Sau trận pháo Mỹ oanh tạc. Tôi tưởng sẽ được nhảy ra ngoài hầm trú ẩn mà hít thở không khí trong lành từ làn gió biển thổi vào, nơi đỉnh núi cao này. Nhưng rồi bọn trực thăng lại dẫn xác tới bắn phá. Hai chiếc HUEY thay nhau bắn rốc-két, đạn 20 ly, thả lựu đạn xuống trận địa. Sức công phá không bằng bom, pháo nhưng dai hơn và chính xác hơn. Hầm hào, công sự hư hại nhiều là do thằng khốn kiếp này. Ngồi trong hầm tránh đạn. Phó mặc tính mạng cho sự may rủi. Mới có dịp mà nghiền ngẫm câu "Thần chú" của Bình "Khấn" ban nãy : " Bắn nhiều chưa chắc đã bị, bị nhiều chưa chắc đã chết. Yên trí, đâu khắc có đó ". Nghĩ rằng, cái sự "đâu" khắc có "đó" là sự bày đặt sẵn của số Trời. Sống khắc sống, chết sẽ chết, cái sự sắp đặt ấy khuyên bảo: Hãy yên tâm, lo sợ mà làm gì. Khi Trời đã có "đáp số" sẵn rồi. Ngoài điều đó ra, đương nhiên mình là thằng lính đang hiện diện ở chiến hào. Vậy thì hãy phát huy hết cái trách nhiệm và sứ mạng của lịch sử giao phó. Vậy thôi !

Buổi chiều. Thằng 0V10 nghiêng cánh bắn pháo hiệu. Cụm khói nó bắn cứ nở to mãi ra. Nghe tiếng phản lực gầm rít và mặt đất rung chuyển. Một tia chớp. Và một quầng lửa trùm lên. Trời sập xuống hoàn toàn. Từ đó tôi không hay biết gì nữa.
Tôi bị bom vùi - May mà anh em kịp thời cứu chữa. Nếu không - vĩnh viễn không ai được biết câu chuyện về cao điểm 384 nữa. Anh em cho biết: 2 chiếc F4-H thay nhau trút bom xuống trận địa khá lâu. Hầm hố, giao thông hào hư hại nhiều. Vậy ra ngày hôm nay, quân địch đã dùng các ngón đòn mạnh để hù dọa, nắn gân chúng tôi. Bom pháo, hạng nặng, hạng nhẹ thay nhau đánh ròng rã suốt ngày. Chúng tưởng rằng, với vũ khí giết người hiện đại ấy, sẽ đẩy lùi được chúng tôi chăng ? Bình y tá kiểm tra tình trạng bị bom vùi của tôi, và cho biết : Không sao cả,sẽ chóng phục hồi thôi. Tôi được "ưu tiên" nằm nghỉ.
Đêm - lại thức trắng, với núi công việc. Bởi sự tồn đọng sau 1 ngày oanh tạc bằng Không quân và Pháo binh của địch : Sửa lại công sự bị sập, xuống chân núi cõng đạn , nước . Một bộ phân khác , do anh Liễu – Thu , Bình đảm nhiệm đi tập hậu vào bọn Nam Hàn đang nhe nanh giơ vuốt , gây bao tội ác với đồng đội, và chính bản thân chúng tôi. Lúc này đang là thời cơ thanh toán sổ nợ với chúng. Chúng tôi phải dồn mọi sức lực, cố gắng để sữa lại hầm hố bị hư hại. Để chờ đón quân thù tới, tiêu diệt – sẵn sàng tiếp nhận những khốc liệt mới. Tiếp nhận những Trận đánh chênh lệch về lực lượng. Sức chiến đấu – vũ khí v.v . Cho dù kẻ địch luôn ở thế hơn hẳn. Anh Liễu bảo :
- Đây là dịp để xem. Ai là vàng? Ai là thau?
Sẽ thể hiện cụ thể qua những ngày này .
Liệu tôi sẽ là cái gì đây?
 
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Ngày 12 tháng 4 năm 1972
Hồi “ gà gáy ”. Triệu tập họp chốt.
Anh Soạn Phổ biến tình hình nhiệm vụ. Thông báo tin chiến thắng của các “xê”( C – Đại đội ) bạn. Nêu gương chiến đấu dũng cảm của các tập thể cá nhân lập công Xuất Sắc trên chiến trường . Anh thông Báo : Lệnh Tiểu đoàn .
- Từ ngày Nay trở đi : 12-4 . Nếu bom máy bay Mỹ còn bắn phá Trận địa . Chiến sỹ 384 được phép dùng súng bộ binh bắn trả . Không thể để cho Nó tự do bắn lên đầu mình mãi được .
Lệnh ấy làm cho chúng tôi Phấn chấn hẳn lên .
Không phải đợi lâu, bọn Trực thăng dẫn xác tới cho rằng đây là thời cơ lập công. Tôi gác súng lên bờ hào. Nhắm chiếc đi đầu xiết cò. Nổ liền 3-4 điểm xạ. Bỗng anh Liễu đạp tôi vào trong hầm thì liền đó là tia chớp. Đất đá tung lên rào rào. Anh quát vào tai tôi: ai cho phép cậu tuỳ tiện thế hả. Chưa có lệnh đã nổ súng bừa bãi. Tầm bậy quá đấy!
Tôi biết sai nhận lỗi. Hứa rút kinh nghiệm nhưng rồi những loạt AK trừng trị bọn Trực Thăng đã kéo tôi trở lại với trận đánh . Không còn dịp để nghiền ngẫm sai sót của mình nữa. Sau 1 hồi quần nhau. Bọn trực thăng không cháy cái nào. Bên ta không ai việc gì. Hoà : 0-0. Bon trực thăng cút. Trận đánh kết thúc. Nhưng dù sao cũng cảnh cáo cho chúng biết: chớ có coi thường lính chốt mà bắn bậy bắn càn mãi đâu.
Hồi lâu, anh Liễu nói với tôi:
- Cậu là lính mới, chưa hiểu gì thì thải học phải hỏi. Nổ súng bắn chiếc đằng trước, chiếc đằng sau dễ dàng phát hiện đường đạn từ dưới đất bắn lên, chỉ tích tắc nữa cậu “lĩnh” cả quả Rốc Két rồi.
Vậy là anh đã cứu tôi thoát chết. Cám ơn anh vô cùng!
Tôi đang cảnh giới. Trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bỗng “huỵch”, theo bản năng, tôi né người tránh cú vồ của đối phương. Nhưng một người đã đối diện tôi, trần truồng như nhộng, nói qua hơi thở:
- Thông cảm, tớ : Lợi liên lạc tiểu đoàn. MO-Ranh nó rà ác quá, phải lột hết quần áo mới lên đây được ông Soạn đâu?
Tôi chỉ cho lợi chỗ anh Soạn. Tự trách mình không tinh. Nếu không phải là Lợi. Là địch thì sẽ ra sao đậy?
Lát sau, họp tổ Đảng, tôi và Du cảnh giới cho phiên họp.
Du, vì quá cẩn thận, đã chất bao cát thành bức thành dây kiểu Lô-Cốt. Trên nóc có dầm khoẻ, cứng. Chất bao cát làm mái che chỉ để 1 lỗ “ Châu mai” vừa tầm bắn cho Khẩu trung liên.
Tưởng vậy là kiên cố - Không ngờ !
Chiếc Trực Thăng HV.IA chờ đầy bọn lính Nam Triều Tiên bí mật luồn qua các Vách Núi, bất ngờ xuât hiện trước mắt 2 chúng tôi, hạ dần độ cao, một vài tên lính xuất hiện nơi cửa, chuẩn bị nhảy xuống. Nó thấp dần, rồi thấp hơn cả công sự. Tôi hoảng lên, lỡ thời cơ rồi. Tôi xách AK nhảy ra ngoài công sự, chân trái duỗi theo sườn dốc, chân phải quỳ, người hơi ngả về sau giữ thăng bằng, nhả đạn xối xả vào khoang cửa máy bay. Một- Hai – Ba- bốn thằng lính ăn đạn trong tư thế thập thò nơi cửa liền ngã nhào xuống đất. Tôi tiếp tục nhả đạn mãnh liệt vào khoang cửa, vào đầu máy của nó. Nhưng nó vội vàng nâng độ cao. Thu vác BAO tới thì nó đã bay cao rồi. Sự việc chỉ xảy ra tầm 1-2 phút đồng hồ.
Thu vò đầu bứt tai kêu tiếc. Du đấm bình bịch vào ngực mình:
- “ Không ai ngu hơn tôi, khóa chết khẩu trung liên trong hầm , biết nó hạ mà không kịp. Ai ngờ đâu nó lại đổ quân bằng trực thăng! Không bắn được phát nào mới tức chứ, tức chết đi được!“
Anh Liễu vẫn ôn tồn:
- Không hạ được nó ngay nhưng thằng Minh đã gỡ một pha “ hú hồn “ ! Hỏi rằng từng ấy thằng lính nhảy ra , dàn hàng ngang trong cùng lúc chiếm được công sự thì liệu chúng ta sẽ ra sao đây? Có trở tay kịp không?
Nhưng nào ai biết tôi buồn như thế nào. Người buồn nhất , tiếc nhất hôm nay là tôi. Chỉ cần tôi bình tĩnh chút nữa có phải đã thiêu rụi cả chiếc máy bay lẫn bọn lính rồi không. ( Sau này được biết chiếc máy bay đã bị trọng thương trên đường về sân bay Gò Quánh ).
Lát sau, anh Soạn tới đưa cho tôi mảnh giấy:
- Cậu và Hiển mang toàn bộ súng đạn, ba lô tư trang sang chi viện cho khẩu đội 12 ly 7. Cầm giấy này tới gặp khẩu đội trưởng sẽ rõ!
Không còn gì để hỏi thêm, không còn lí do gì để ở lại. Tôi chỉ còn mỗi việc chia tay hai người đồng đội cùng tổ chiến đấu ba người : Thu và Du. Các anh đã cùng tôi đồng cam cộng khổ mấy ngày qua. Tôi khẩn trương xốc ba lô, xách AK xuống núi. Vượt nhanh qua đồi gianh, dưới tầm quan sát của địch từ trên máy bay, từ đồn Sô – đô nhìn sang. Điều khó nhất là không rõ khẩu đội 12 ly 7 ở mỏm núi nào trong những dãy núi san sát như bát úp này. Hai thằng sục tìm suốt buổi chiều, lội suối trèo non đi giữa rừng đại ngàn, giữa những mìn vướng nổ lẫn trong lá rậm, gai góc, trong tầm pháo bắn của địch. Lo ngay ngáy khi bất thình lình một loạt pháo bắn gần hoặc rất có thể trực thăng “ rọ heo “ đến bắn hay thả lựu đạn. Hoặc chạm trán với bọn thám báo Nam Triều Tiên và bao nhiêu bất trắc rất dễ xảy ra trong vùng địch – ta “ cài răng lược “ này khiến cho tôi cảm thấy căng thẳng tột độ. Vậy nên tôi luôn luôn đề phòng tình huống xấu, không cho phép mình lơ là, xả hơi bất cứ lúc nào.
Hết buổi chiều vẫn không tìm thấy trận địa 12 ly 7. Trời đã tối, không thể làm gì tiếp được nữa, tôi và Hiển lôi đường sữa, ca cao ra ăn và rúc vào hốc đá ngủ. Tránh được nhiều mối đe dọa của chiến tranh và điều sung sướng nhất là được “ hưởng “ một giấc ngủ tuyệt vời sau ba đêm thức trắng trên chốt
 
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Ngày 13 tháng 4 năm 1972
Tìm tiếp buổi sáng, sục sạo trong rừng dưới sự đe dọa của chiến tranh nơi chiến trường. Tới trưa gặp bếp anh nuôi của khẩu đội 12 ly 7. Ông anh nuôi đưa cho tôi mảnh giấy nội dung :
- “ Gửi đồng chí Bính nuôi quân, trường hợp có người đơn vị khác bổ sung, hãy trả lời họ là trận địa đã di chuyển ( điều này không cần giải thích ) không cần người đơn vị khác nữa, vì khi cần họ không sử dụng được pháo. Kí tên : Cảnh ./.”
Vậy là chúng tôi đương nhiên “ thất nghiệp “. Oán trách mấy ông cấp trên, không thống nhất kĩ đã vội vàng quyết định làm khổ lính. Bao cố gắng để tới đây thành công toi hết.
Trở lại bếp anh nuôi, chỗ anh Bóng để ngủ, chờ tối lên chốt. Nghe tiếng súng trên chốt biết rằng chiến sự đang ác liệt. Đồng đội tôi đang cần tôi về tiếp sức cho họ, vị trí chiến đấu của tôi phải ở đó. Tôi là lính 384 kia mà?
---------------------------------------------------------------------------------
Ngày 14 tháng 4 năm 1972
Nửa đêm về sáng, tôi trở lại 384. Cùng lên trận địa với tôi có hai người lính thông tin lên lập đài K63 tại chân chốt để liên lạc thẳng với mạng thông tin Trung đoàn và một người nữa cùng trong quân chủng : “ Kiều Minh Toán – chiến binh của đại đội 5 ! “. Xóm 5 lên bổ sung lực lượng cho 384, cùng đi với anh còn một người nữa, song người này đã hèn nhát đào ngũ dọc đường rồi. Kiều Minh Toán – hạ sĩ, tiểu đội phó , Đảng viên - 21 tuổi. Quê : Ba Vì – Hà Tây. Dáng gầy nhỏ, da ngăm đen nhưng đôi mắt sang, thông minh nhanh nhẹn. Sự có mặt của anh vào lúc này, ở nơi này đã đánh giá được chất lính trong con người của anh : “ dùng “ được. Nhìn con người và dáng dấp của Toán, tôi đã có sự cảm phục anh và tôi đã sớm nghĩ rằng: “ anh có thể làm nên chuyện ở cao điểm này “.
Trở lại trận địa, tôi mang trên lưng 60 kg đạn, níu rễ cây, leo ngược vách đá mà lên. Nặng và mệt tưởng không thể lên nổi cũng phải cố. Thêm được từng nào đạn cho trận địa là tốt chừng đó, thằng giặc sẽ phải đền mạng nhiều thêm trong từng trận đánh. Dọc đường lên, gặp cáng thương binh đi xuống. Trần Văn Chính – chiến sĩ liên lạc, đồng hương của tôi bị thương rất nặng, mê man bất tỉnh đang trên đường về bệnh viện. Vậy là trong lúc tôi đi vắng, súng đã nổ trên trận địa 384 và máu đồng đội đã đổ rồi. Chính ơi, cố gắng điều trị mau lành nghe mày, tao sẽ trở lại 384 chiến đấu trả thù cho mày đây! ( Sau này được biết Chính đã mất tại bệnh viện ).
Tôi gặp anh Soạn, báo cáo lại toàn bộ sự việc. Anh Soạn nói :
- Biết trở lại trận địa chiến đấu chứng tỏ đồng chí rất dũng cảm, không hề thoái thác lẩn trốn trước nhiệm vụ, trước khó khăn ác liệt. Rất xứng đáng là lính 62 ! Hãy cố gắng diệt thật nhiều quân Nam Triều Tiên tại 384 này!
Song có làm nên trò gì hay không còn do tôi. Những ngày tới, tôi phải cố gắng thật nhiều để theo kịp các “ vị “ cựu binh rồi mới nói hay được. Tôi ngụy trang công sự, ngồi cảnh giới đưa mắt nhìn trận địa mà giật mình sửng sốt. Tưởng như đây là nơi nào khác, còn đâu là ngọn đồi 384 nữa : rừng lúp xúp, lau lách rậm rạp đã biến mất, trước mắt tôi là nhan nhản hố bom, hố pháo ngoác cái miệng rộng hoác lôi những tảng đất thó lớn bằng cái bồ lên miệng hố. Cả một khoảng đồi, mảnh rừng biến thành bãi chiến trường đầy chết chóc. Tầm nhìn không còn màu xanh của rừng che khuất. Bom, pháo đã tạo nên khoảng sáng rộng lớn. Mọi người bảo: “ Càng tốt , nó tới từ xa mình đã biết rồi “.
Có tiếng đề-pa đầu nóng và tiếng rít rợn người. Pháo! Sau một ngày rưỡi đi vắng, nay trở về vẫn “ món ăn “ ấy. Kẻ thù đang từng ngày từng giờ lồng lộn điên cuồng trút bão lửa lên đầu chúng tôi. Sự khốc liệt của chiến tranh đang gầm hú, đe dọa lính chiến trường mọi lúc mọi nơi. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo này, sống chết chỉ là gang tấc. Chúng tôi đành phó mặc tính mạng cho sự may rủi. Chết thì phải chịu! Còn sống còn là lính chiến! Và những trận đòn này phải nhớ lấy để tính sổ nợ với chúng. Pháo chuyển làn, chưa kịp kiểm tra hậu quả của trận pháo oanh tạc thì bọn trực thăng lại dẫn xác tới. Hai chiếc HU-1A phóng pháo dài nhẵng, lính ta quen gọi “ cá nẹp “ thay nhau lồng lộn oanh tạc trận địa: bắn rốc két, đạn 20 ly. Cứ liệng vòng tròn trên trời nhằm trận địa mà bắn. Dai dẳng, dữ dội, ngồi trong hầm tránh đạn để nó tự do bắn lên đầu mình mà không làm gì được bởi lực lượng, sức chiến đấu , vũ khí giữa ta và địch quá chênh lệch. Mà kẻ địch thì ở thế hơn hẳn, do vậy dễ phát cáu, phát bực trong cái cảnh ẩn nấp mãi. Thật “ phi anh hùng“! Du bảo tôi:
- Kệ mẹ nó, bắn chán nó khắc phải cút. Dù sao nó cũng chẳng làm gì được mình đâu ! Hãy dành sức, dành đạn mà “ tiếp “ thằng Nam Triều Tiên kia kìa!
Rồi bọn trực thăng cũng cút. Bỗng im ắng lạ thường, sự im lặng tới sửng sốt. Tưởng như không hề có chiến tranh xảy ra bao giờ ở nơi đây. Tôi có linh cảm như có điều gì sắp xảy ra. Đúng như vậy! Khẩu đại liên của địch, giá ở mỏm “ yên ngựa “ ( ngọn đồi giữa 384 và đồn Sô – đô ) nổ dữ dội từng tràng kéo dài, nhằm trận địa chúng tôi mà bắn. Như đe dọa, như khiêu khích, như uy hiếp. Tên lính xạ thủ có lẽ cứ nhắm mắt mà bắn, đúng sai cóc cần quan tâm . Nó định giở trò gì đây? Anh Liễu tới bên tôi:
- Thằng đại liên nó bắn là hỗ trợ cho bọn lính bộ binh chuẩn bị tấn công. Thằng này không đáng ngại, chuẩn bị kiểm tra súng, tháo nắp an toàn lựu đạn. Đợi lệnh tôi mới được nổ súng! Hết sức bình tĩnh, đã bắn là diệt mục tiêu! Rõ chưa?
Sự đe dọa của tiếng nổ đại liên, ý thức địch tình. Thời gian chờ đợi nổ súng đã làm cho đầu óc tôi căng như sợi dây đàn. Chập chờn trong đầu tôi câu hỏi:
- Rồi sẽ ra sao đây ?
 
Hạng F
14/9/04
9.916
30.277
113
Q3
Hai chiếc HU-1A phóng pháo dài nhẵng, lính ta quen gọi “ cá nẹp “ thay nhau lồng lộn oanh tạc trận địa: bắn rốc két, đạn 20 ly..

Lính miền bắc gọi trực thăng cá lẹp là cá nẹp – Cobra – Khg phải UH1A Huey
Bài viết này của cha phóng tinh nào rùi
 
Hạng C
25/11/11
655
826
93
vinhomecitys.com
Chúng nó xuất hiện.

Lần đầu tiên trong đời lính trận, tôi nhìn rõ kẻ thù của mình: những tên lính đánh thuê Nam Triều Tiên, chó săn trung thành của quan thầy Mỹ. Lấc láo, kiêu căng, đằng đằng sát khí. Dáng vẻ của những “võ sỹ người hùng” trừ thân xác trên răng, dưới “cát tút” là của Nam Triều Tiên, Hàn Quốc. Còn lại 100% là của Mỹ. Đồng đô-la Mỹ đã đồng hóa đội quân viễn chinh này từ ý thức bên trong cho tới bộ quân phục Na-Tô chúng khoác trên người. Chúng nó đấy. Kẻ thù không đội trời chung của chúng tôi đấy!

Lố nhố xuất hiện trên bãi bom, và vô số những tên khác, nấp trong rậm rạp của lá rừng phía xa, với đủ tư thế: đứng, ngồi, khom thấp, khom cao trước họng súng của chúng tôi.
Tôi được nghe phổ biến:

Với trận địa phục kích. Khi còn giữ được bí mật trận địa. nó vào kiểu này: thằng cần diệt trước là thằng lính thông tin đeo máy. Kẻ liên lạc giữa cấp trên ở xa và bọn đang giáp mặt chiến đấu với mình. Thứ nữa là những tên chỉ huy đầu sỏ của bọn giặc. Nếu giết được những tên đó thì bọn lính sẽ lâm vào thế : “Quân vô tướng, hổ vô đầu” lập tức sẽ mất sức chiến đấu ngay thứ nữa. Tên lính nào gần ta, phát hiện ra ta, cũng “ưu tiên” diệt trước.

Chúng vẫn phát triển thận trọng. Khẩu đại liên nâng tầm. Nổ toang toác trên đầu. Tất cả mọi cặp mắt của chúng đều hướng về phía đỉnh đồi, nơi trận địa chúng tôi. Tôi rê nòng súng theo 1 tên lính đang đi về phía mình, sốt ruột chờ lệnh.
- Bắn!

Tiếng anh Soạn hô, đồng thời với loạt đầu tiên của anh. Tôi chưa kịp định thần thì khẩu súng đã siết 1 loạt dài. vì quá hồi hộp. Tên giặc trước khe ngắm đổ nhào. Tôi còn bổi thêm 1 loạt nữa vào cái xác cho “chắc ăn”. Toàn trận địa rền vang tiếng súng, lửa, khói, những tiếng nổ loạn xạ của các loại, các cỡ súng. Tiếng người gào thét. Ầm ầm, náo động. Những âm thanh đặc biệt của chiến trận, mà chỉ có những thằng lính trận mới được “hưởng” và hiểu mà thôi. Bọn giặc chưa kịp định thần thì 1 loạt mưa đạn đã nã rất chính xác vào đội hình bọn chúng. Đứa trúng đạn: ngã – đứa không trúng đạn càng ngã lăn để tránh đạn. Lợi dụng gốc cây, mô đất, bắn trả. Trận địa loạn xạ tiếng nổ của cả 2 phía. Tình hình đã trở nên căng thẳng, cả ta và địch đều bắn nhau quyết liệt. Rồi khẩu đại liên cùng nhả đạn. Bắn điên cuồng vào công sự tiền tiêu. Khiến chúng tôi phải chúi đầu tránh đạn, không thể đứng mà quan sát bắn tiếp được. Anh Liễu bảo tôi:

- Nó bắn rất mạnh. Ở đây không phát dương được. Cậu vòng ra sau, bò lên hòn đá đỉnh đồi, dễ quan sát hơn.
Lợi dụng hòn đá, tôi quan sát: chỉ thấy những hố bom, pháo chồng chéo lên nhau, rải rác những cái xác nằm lại. Đạn đại liên bắn càng mạnh. Tiếng anh Liễu:

- Chú ý bên sườn phải. Kẻo nó tạt sườn.
Tiếng đại liên thưa dần rồi tắt hẳn. Trước lúc tấn công: Bắn. Rát: cũng bắn. Hỏa lực lớn, hỏa lực nhỏ chi viện tối đa cho bộ binh. Nói rằng quân đội Mỹ được trang bị tận răng, tận tóc quả đồn không ngoa. Anh Liễu đến từng tổ nhắc nhở:
- Sẵn sàng chiến đấu cao độ. Nó lại sục lên ngay bây giờ đấy.

Tôi thành thật nói với anh:
- Trận đầu em đánh tồi hả anh.
- Sao lại trận đầu. Trận đầu của cậu hôm nọ, cậu đã trị tội thằng trực thăng đấy thôi. Chính cậu đã nổ phát súng đầu tiên cho toàn chốt kia mà.
- Trận này em diệt được có vài thằng.
- Thì lát nữa nó khác lên cho cậu diệt, lo gì.
Du nói đùa:
- Một sư đoàn Mãnh Hổ. Đã đủ cho mày bắn chưa, nếu chưa đủ “xin” thêm.
Thu lôi cái xác lính đặt nằm vắt ngang vị trí bắn. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Anh Thu, làm gì vậy ?
Thu kê súng bắn thử: “Tốt rồi, tốt rồi”.

Tôi hiểu. Dù sao thằng giặc nó cũng có tình đồng đội của nó. Trời anh Thu, sao anh lại “sáng tác” cách đánh kỳ cục vậy? Cánh lính cũ họ làm như vậy là bình thường. Riêng tôi thì không dám làm.
Khẩu đại liên lại nhả đạn điên cuồng. Dọn đường cho bọn lính bộ tấn công. Trận đánh nữa bắt đầu.

Anh Liễu bảo tôi:
- Cậu vòng cánh trái theo giao thông hào. Thay thằng Phước bị thương. (Phước: Trung đội phó và 2 chiến sỹ, mới bổ sung tăng cường cho chốt hồi sáng, cả 2 bị thương ngay, rút về phía sau).

Lợi dụng tiếng nổ của khẩu đại liên, bọn lính bộ định đánh úp bằng mật tập. Dứt tiếng đại liên, bọn đằng sau, kiềm chế bọn đằng trước, tấn công theo kiểu “cuốn chiếu”. Lũ người đằng đằng sát khí. Tay bắn miệng gào, ầm ầm lao lên. Hô bằng tiếng Triều tiên:
- Ka-Tra.

Anh Soạn bảo:
- Toán tìm cách diệt khẩu đại liên trợ chiến, đi theo sau bọn lính kia kìa!
Rồi anh bảo chúng tôi:
- Bình tĩnh chờ chúng vào gần nữa.

Tiếng trung liên của Du gầm lên đĩnh đạc, Tiếng B41 của Toán. Một tốp địch bị quét ngã nhào. Bọn còn lại khựng lại. Khẩu đại liên theo sát bộ binh đã bị Toán diệt. Khẩu xa, phía mỏm yên ngựa bắn dữ dội. Chúng tôi phải chúi đâù tránh đạn.

Bỗng đại liên tắt đột ngột. Bọn lính tạo thế bất ngờ, ầm ầm xông lên. Hô “Ka-Tra” náo động. Chúng tôi nhất loạt nổ súng, chúng nó lại bị ăn đạn, liền nhảy bừa những hố bom để tránh đạn.

- Lựu đạn!
Đống lựu đạn đã tháo nắp sẵn, tôi giang tay, thả sức mà “táng” xuống những lồng hố bom hình phễu. Những chiếc mũ mềm, mảnh vải bay tung lên, cuồn cuộn theo khói lựu đạn, nhìn mà hả ghê. Trận mưa lựu đạn đã làm cho bọn Nam Triều Tiên chết rất nhiều. Hiệu suất chiến đấu rất cao.

Kết thúc một trận đánh.
Trận địa vừa tan khói súng thì đạn pháo của địch lại nã vào. Vẫn “giai điệu” cũ mèm ấy, vũ khí hiện đại lại dốc sức tiêu diệt chúng tôi, sau những pha “trừng phạt” của lính bộ.

Lửa, khói, những tia chớp nhằng nhịt như sấm sét trong cơn giông. Tất cả mọi khốc liệt thằng giặc trút lên đầu chúng tôi như là trút cơn giận dữ vì đã nếm thất bại trong trận đánh vừa rồi.

Còn nữa. Bọn trực thăng lại dẫn xác tới bắn phá - Dường như chúng vẫn nghi ngờ độ phá hoại, độ chính xác trong đợt oanh tặng vừa rồi của trận địa pháo, nên đã điều thêm bọn trực thăng này chăng.

Đã hiểu ra cách làm của chúng: ỷ thế vào vũ khí hiện đại, dùng lối đánh oanh tặc bằng hoả lực là cơ bản. Đưa bọn Nam Triều Tiên ồ ạt tấn công chỉ là ngón đòn cuối cùng. Sau khi tưởng rừng chúng tôi đã mất hết sức chiến đấu, sau các trận oanh tạc bằng không quân và pháo binh của chúng.

Cây cỏ bị huỷ diệt hoàn toàn. Không gian trên mảnh đồi cũng bị băm nát, 1 con côn trùng không còn. Kẻ thù đã lồng lên điên cuồng tàn phá không thương tiếc bầu trời, mặt đất, mảnh rừng, cây cỏ trên đồi. Tất cả chỉ còn trở lại cái khung cảnh hết sự sống: Cảnh của mặt trăng!

Khung cảnh 384 đầy sặc mùi tủ khí. Đầy những chết chóc, hoang tàn, khốc liệt của chiến trận.
Nhưng anh em chúng tôi, những người lính chốt vẫn tồn tại. Sự khốc liệt của chiến trận càng làm cho chúng tôi thêm dày dặn, cứng cáp, củng cố thêm sức giáng trả, vẫn vững vàng, bình tĩnh trong biển lửa của kẻ địch đang trút lên đầu mình, đâu khác có đó, việc nó: nó bắn – việc mình: mình làm câu “thần chú” đã “dạy” như vậy rồi.

Buổi chiều, sau khi cho rằng chúng tôi đã kiệt sức sau các đợt oanh tạc, trong biển lửa của chúng. Bọn bộ binh Nam Triều Tiên lại ầm ầm xông lên, trong “khúc nhạc” của đạn đại liên bắn kiềm chế nhưng rồi với chiến thuật, lừa cho bọn giặc vào tầm bắn, bắn quét thật mạnh buộc chúng phải xuống lòng hố bom tránh đạn. Lúc đó mới nhất loạt ném lựu đạn, những lòng hố bom hình phiễu đã trở thành mồ chôn bọn Nam Triều Tiên. Chiến thuật “mưa” lựu đạn đã tạo nên hiệu suất chiến đấu rất cao.

Chỉ cần bấy nhiêu con người đã tạo cho 384 trở thành bức tường thép rồi.
Anh Liễu bàn với anh Soạn:
Những xác chết đã vần lên bệ bắn, nói anh em hất “trả” chúng nó. Làm vậy tôi thấy tổn đức quá. Dù sau nó cũng chỉ là xác chết. Vả lại thối chịu sao nổi. Du cầm quả lựu đạn VS, dứ dứ về phía sô đô:

Ai mà còn có đức nào, mà tha cho bọn chó kia. Được với lũ chúng nó, chỉ có một mất một còn mà thôi. Bóng tối đã sập xuống. Trận địa tạm im tiếng súng, chỉ còn lại mùi thuốc đạn khét lèn lẹt, mùi xác chết thối, nồng nặc khó chịu. Toàn mặt trận, bọn địch hoạt động càng ráo riết hơn. Trên trời lũ máy bay trinh sát vẫn săn tìm, máy bay C130 gầm gừ bắn đạn 20 ly, thả đèn dù. Trên các mỏm núi có địch: Đại liên của chúng vẫn “sủa” liên hồn không dứt. Và đạn pháo cứ thay nhau gầm hú trên trời và nổ cầm canh đây đó. Tích cực hơn cả là bọn bắn đèn dù, bầu trời sáng rực suốt đêm, không lúc nào chúng ngớt bắn. Rõ ràng là chúng đã rất sợ bóng đêm. Bóng đêm là biểu tượng thần chết của chúng. Trong bóng đêm chiến trường, sẽ dễ xảy ra chuyện. Đồn này bị diệt, sân bay kia bốc cháy, cứ điểm nọ bị san bằng…

Song với chúng tôi, bóng đêm lại là “đồng minh”, trở thành bạn tốt cho tính chốt về đêm, địch không dám mò lên, địch ít bắn pháo. Nên chúng tôi có điều kiện để làm các công việc tồn tại, sau 1 ngày quần nhau với giặc.

Phải thức trắng để làm việc vì núi công việc. Cộng sự sập nát nhiều phải sửa, kịp thời chỉ trích pháo. Trước mặt và chiến đấu ngày mai, xuống chân núi cõng đạn, nước. Tất cả là cho ngày mai, ngày mai có đảm bảo chiến đấu tốt hay không là do nỗ lực của đêm này. Mệt và thèm ngủ vô cùng, đời chưa bao giờ lại mệt và thèm ngủ như lúc này. Song phải cố gắng thôi không thể lơ là được vì thằng giặc nó đang mong mình lơ là, mất sức chiến đấu để nó diệt mình kia mà.