Đọc post này mà cười sặc sụa với lập luận của ông cử nhơn.Đang có một sự suy diễn sai lầm ở đây.
"Thứ nhất, phải có nguy cơ đang thực tế đe dọa cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nguồn gốc gây nên sự nguy hiểm đối với lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ có thể là do: hành vi nguy hiểm của con người, tác động của thiên nhiên (lũ, lụt, cháy, sét đánh v.v…). Ở đây cần lưu ý là nguy cơ đe dọa gây thiệt hại nhưng thiệt hại chưa xảy ra. Chính vì vậy, bản thân người gây thiệt hại phải căn cứ, cân nhắc, tính toán về nguy cơ này. Đây là sự nguy hiểm đang đe dọa gây ra thiệt hại phải là sự nguy hiểm đe dọa ngay tức khắc thì mới được coi là trong trường hợp tình thế cấp thiết. Nếu sự đe dọa đó còn chưa xảy ra mà đã hành động để gây thiệt hại thì không thể coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Nếu sự đe dọa này chỉ theo suy đoán chủ quan của người gây thiệt hại, thực tế có thể xảy ra hoặc không mà người đó đã có hành vi gây thiệt hại thì cũng không thể coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết."
Phân tích trên không sai, TTCT (tình thế cấp thiết) có 1 thành phần hết sức quan trọng, đó là có "lợi ích hợp pháp (của 1 cá nhân / của nhà nước...) đang bị đe dọa".
Ví dụ 1:
Ông A đang cầm dao rượt ông B, nếu không ngăn ngừa thì rất có thể ông A sẽ chém ông B nếu đuổi kịp.
"nếu không ngăn ông A thì ông A sẽ xâm hại tính mạng sức khỏe ông B"
+ Lợi ích bị đe dọa ở đây là "tính mạng, sức khỏe của ông B";
+ "Nguy cơ" ở đây là ông A có thể dùng dao chém ông B nếu ông A đuổi kịp. Ông A ĐANG rượt đuổi ông B tức nguy cơ đang hiện hữu, đang xảy ra trên thực tế..
Ví dụ 2:
Một đám cháy lan theo chiều gió, đám cháy cách khu nhà 1 ruộng bắp (dễ cháy lan) và nếu không dập kịp thời thì lửa sẽ lan qua ruộng bắp, gây cháy một căn nhà.
"nếu không ngăn đám cháy thì đám cháy sẽ làm cháy căn nhà"
+ Lợi ích bị đe dọa ở đây là "tài sản của ai đó" (là căn nhà)
+ "Nguy cơ" ở đây là đám cháy sẽ cháy lan qua ruộng bắp và làm cháy căn nhà nếu không bị ngăn chặn. Lửa đang cháy, tức nguy cơ đang hiện hữu, đang xảy ra trên thực tế.
Ví dụ 3:
Một xe cứu thương đang hú còi/ đèn chạy trên đường để chở 1 bệnh nhân đi bệnh viện. Nếu không chạy nhanh, không tới BV kịp thời thì người bệnh sẽ chết hoặc bị ảnh hưởng sức khỏe.
" nếu không để xe cấp cứu chạy nhanh đến BV thì sức khỏe, tính mạng bệnh nhân sẽ bị xâm hại"
+ Lợi ích bị đe dọa ở đây là "tính mạng, sức khỏe của bệnh nhân trên xe cứu thương"
+ "Nguy cơ" ở đây là bất cứ trở ngại nào làm cho chiếc xe cứu thương không chạy tới được BV kịp thời".
*** ở đây nói dài dòng thêm 1 chút:
Nếu xe cấp cứu chạy liên tục, không bị một trở ngại nào thì không có nguy cơ. Nhưng nếu có bất cứ tình huống nào khiến cho chiếc xe cấp cứu này dừng lại (hoặc chạy chậm lại) thì tình huống đó trở thành nguy cơ, ví dụ:
* một cái cây đổ (gãy) ngang đường khiến xe CC không chạy tiếp: nguy cơ đang hiện hữu
* đèn đỏ, người tham gia giao thông dừng lại trước đèn, chắn hết đường khiến xe CC không chạy tiếp được: nguy cơ đang hiện hữu.
ở cả 3 ví dụ đều có:
- "lợi ích hợp pháp (của ai đó) đang bị đe dọa"
- "nguy cơ thực tế" đang hiện hữu và đang đe dọa lợi ích nói trên. Đe dọa nhưng hậu quả thực tế chưa xảy ra (ông B chưa bị chém, nhà chưa cháy & bệnh nhân cũng chưa chết, chưa ảnh hưởng sức khỏe)
Ở VD 1:
- ông X kêu gọi ông A ngưng đuổi chém, ông A đồng ý -> tình huống trên không là hành động trong tình thế cấp thiết.
- ông X vớ lấy cái ghế ném thẳng vào tay của ông A, ghế gãy, ông B thoát. Hành vi ông X dùng cái ghế ném và làm hỏng cái ghế của người khác để ngăn ông A tạo nên tình huống hành động trong TTCT.
Ở VD 2,
- ông Y dùng nước/ bình chữa cháy cuả mình dập tắt đám cháy: không có hành động trong TTCT gây hậu quả phải bồi thường, ko có hành vi vi phạm.
- ông Y lấy dao ra chặt hết ruộng bắp tạo hành lang PCCC an toàn: việc ông Y chặt hết ruộng bắp (của ai đó) nhằm cứu căn nhà là hành vi trong TTCT.
Ở VD 3,
- Ông vios kêu mấy cái xe máy phía phải xe ông dạt ra tí xíu và vios né qua đủ chỗ cho xe cấp cứu vượt lên: không tồn tại hành động trong TTCT.
- (là tình huống đang tranh cãi) ông vios chạy vượt qua khỏi vạch chờ đèn đỏ và nhường đường cho xe cấp cứu: hành vi của ông vios là hành vi trong TTCT.
Hy vọng là tui hiểu lầm, mấy cái còm này ý là nên nhường hay phải nhường đây ta?Dốt, tìm coi có chỗ nào tui nói "phải làm" ko? đừng chơi chiêu né chủ điểm!
Cái dốt là không hiểu (nên không xác định được) thế nào là "hành động trong TTCT", nói chệch qua cái khác để che yếu kém ha!
Mà thôi, càng nói càng thấy "ný nuận yếu", bỏ đi!
Mấy cái "phải nhường" đó viết là trong tình thế cấp thiết hay trong tình huống bình thường, đang lưu thông thì gặp xe ưu tiên???Hy vọng là tui hiểu lầm, mấy cái còm này ý là nên nhường hay phải nhường đây ta?
View attachment 2710798
View attachment 2710799
View attachment 2710800
View attachment 2710802
NGU chứ không phải hiểu lầm đâu á!
Điều 22 Luật GTĐB 2008:
3. Khi có tín hiệu của xe được quyền ưu tiên, người tham gia giao thông phải nhanh chóng giảm tốc độ, tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường đường. Không được gây cản trở xe được quyền ưu tiên.
À vậy là cử nhơn chưa biết có phải đây là tình thế cấp thiết hay không mà đã phán phải nhường?Mấy cái "phải nhường" đó viết là trong tình thế cấp thiết hay trong tình huống bình thường, đang lưu thông thì gặp xe ưu tiên???
NGU chứ không phải hiểu lầm đâu á!
Điều 22.8 Luật GTĐB 2008:
3. Khi có tín hiệu của xe được quyền ưu tiên, người tham gia giao thông phải nhanh chóng giảm tốc độ, tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường đường. Không được gây cản trở xe được quyền ưu tiên.
Ha ha, ai ngu, đọc lại còm #468 đi cu, cấp thiết mà như vậy hả?Đừng có kéo sự chú ý qua chuyện khác để né cái ngu của mình là KHÔNG hiểu khái niệm "TÌNH THẾ CẤP THIẾT".
Luật có quy định "tình thế cần thiết" à? Liên quan gì không, một khi chủ thể xác định đúng đó là TTCT thì chủ thể hành động, liên quan gì chuyện ông (bên thứ 3) xác định đó là CẨN hay là CẤP?Lập luận như ông thì đâu phải là CẤP thiết, mà chỉ có thể là CẦN thiết.
Nếu chưa xác định được sự việc chắc chắn có thể xảy ra ngay lúc đó thì có là nguy cấp (cấp thiết) hay không?
Ví dụ 1: Do chủ thể NGHĨ (chỉ suy đoán) ông B sẽ bị ông A chém nhưng có chắc chắn là ông A sẽ chém hay chỉ cầm dao rượt để hù dọa ông B? hoặc A và B là bạn và chỉ vì đùa giởn nên cầm dao rượt nhau và ông x hiểu lầm?
Phần sau là đúng đấy chỉ khi thấy ông A đang vung dao chém ông B thì mới là tình huống cấp thiết cần phải can thiệp.
Ví dụ 2: Nguy cơ cháy lan đến căn nhà là có thể nhưng không CHẮC CHẮN sẽ như vậy, vì còn quá nhiều thời gian để tình huống có thể thay đổi, ví dụ gió đổi chiều, mưa, người dân gọi xe cứu hỏa đến và đã dập tắt được.
Vì vậy việc gây thiệt hại (phá ruông bắp) để tránh một thiệt hại khác (nguy cơ cháy nhà) KHÔNG PHẢI là sự lựa chọn duy nhất.
Việc xác định TTCT là việc của chủ thể, là nhận định, là tính toán chủ quan của chủ thể ở NGAY TẠI thời điểm đang hiện hữu một mối đe dọa và chủ thể cho rằng cần hành động (hy sinh một lợi ích khác) để ngăn ngừa. Sau khi mọi việc kết thúc, nếu ĐÁNH GIÁ LẠI, thì nhận định của chủ thể ở thời điểm nói trên CÓ THỂ không đúng với thực tế (đã xảy ra, hoặc có thể xảy ra theo suy đoán của người khác).
Ở ví dụ 1, theo ông thì ông A sẽ ko chém ông B, ông A giỡn ông B bla bla bla, nhưng chủ quan chủ thể thì cho rằng ông A sẽ chém ông B nếu mình không can thiệp, và việc mình can thiệp là phương cách duy nhất có thể dùng để ngăn ngừa.
Ở ví dụ 2: sau khi xong mọi chuyện, ĐÁNH GIÁ LẠI, thì lựa chọn của chủ thể phá bỏ ruộng bắp là sai, vì chủ thể không đoán được là sẽ có trời mưa, gió đổi chiều... miễn sao, trong tầm nhận thức của chủ thể tại thời điểm ra quyết định thì chủ thể đã lường hết mọi phương án (nhắc lại: chủ thể tính toán chứ không phải bên thứ 3 nào khác, cũng ko phải thánh thần để có thể chắc chắn trời sẽ mưa...)
Vậy mới nói ra quyết định hành động trong TTCT luôn tiềm ẩn rủi ro, "Đây vừa là lựa chọn và sự đánh giá của bản thân dựa trên bối cảnh xảy ra, cùng với sự am hiểu quy định của pháp luật để áp dụng một cách chinhs xác, hợp pháp, hợp hiến. Hành vi thực hiện dưới một mức độ vừa đủ không kéo theo trách nhiệm của bản thân khi thực hiện hành vi này. Yêu cầu đặt ra là người thực hiện phải có phán đoán chính xác, nhanh nhạy, ...."
Thôi nhé, tự nghiền ngẫm đi, thấy khá hơn rồi đó.
Nếu, giả sử....là chủ quan của chủ thể X không phải là cấp thiết nhé, chỉ do ông X đang tự tưởng tượng ra như vậy, hoàn toàn chưa cần đến việc gây thiệt hại để ngăn ngừa cái thiệt hại do ông ta tưởng tượng ra, và đây KHÔNG PHẢI là sự lựa chọn duy nhất.Luật có quy định "tình thế cần thiết" à? Liên quan gì không, một khi chủ thể xác định đúng đó là TTCT thì chủ thể hành động, liên quan gì chuyện ông (bên thứ 3) xác định đó là CẨN hay là CẤP?
Việc xác định TTCT là việc của chủ thể, là nhận định, là tính toán chủ quan của chủ thể ở NGAY TẠI thời điểm đang hiện hữu một mối đe dọa và chủ thể cho rằng cần hành động (hy sinh một lợi ích khác) để ngăn ngừa. Sau khi mọi việc kết thúc, nếu ĐÁNH GIÁ LẠI, thì nhận định của chủ thể ở thời điểm nói trên CÓ THỂ không đúng với thực tế (đã xảy ra, hoặc có thể xảy ra theo suy đoán của người khác).
Ở ví dụ 1, theo ông thì ông A sẽ ko chém ông B, ông A giỡn ông B bla bla bla, nhưng chủ quan chủ thể thì cho rằng ông A sẽ chém ông B nếu mình không can thiệp, và việc mình can thiệp là phương cách duy nhất có thể dùng để ngăn ngừa.
Ngay trong còm của ông đã đưa ra các tình huống khác có thể xảy ra
"- ông X kêu gọi ông A ngưng đuổi chém, ông A đồng ý -> tình huống trên không là hành động trong tình thế cấp thiết."
Vậy thì chính ông đã confirm tình huống này không phải THCT.
Tương tự VD 2 này cũng do ông Y tưởng tượng ra đây là cấp thiết trong khi có thể vẫn còn cách để tránh gây thiệt hại như còm của ôngỞ ví dụ 2: sau khi xong mọi chuyện, ĐÁNH GIÁ LẠI, thì lựa chọn của chủ thể phá bỏ ruộng bắp là sai, vì chủ thể không đoán được là sẽ có trời mưa, gió đổi chiều... miễn sao, trong tầm nhận thức của chủ thể tại thời điểm ra quyết định thì chủ thể đã lường hết mọi phương án (nhắc lại: chủ thể tính toán chứ không phải bên thứ 3 nào khác, cũng ko phải thánh thần để có thể chắc chắn trời sẽ mưa...)
- ông Y dùng nước/ bình chữa cháy cuả mình dập tắt đám cháy: không có hành động trong TTCT gây hậu quả phải bồi thường, ko có hành vi vi phạm.
Vậy việc gây thiệt hại này để tránh một thiệt hại khác KHÔNG PHẢI là sự lựa chọn duy nhất.
Có cấp thiết phải đốn bỏ ruông bắp như vậy không?
Do LẬP LUẬN SAI nên mới phán đoán sai, tự suy diễn cho là cấp thiết mà hoàn toàn không dựa vào các điều kiện phân tích đã trích dẫn của 2 LS.Vậy mới nói ra quyết định hành động trong TTCT luôn tiền ẩn rủi ro, "Đây vừa là lựa chọn và sự đánh giá của bản thân dựa trên bối cảnh xảy ra, cùng với sự am hiểu quy định của pháp luật để áp dụng một cách chinhs xác, hợp pháp, hợp hiến. Hành vi thực hiện dưới một mức độ vừa đủ không kéo theo trách nhiệm của bản thân khi thực hiện hành vi này. Yêu cầu đặt ra là người thực hiện phải có phán đoán chính xác, nhanh nhạy, ...."
Các ví dụ của ông đưa ra chỉ là do suy đoán, tưởng tượng, KHÔNG CÓ vụ nào là tình huống cấp thiết cả nhé.
Một bài viết hay về Tình thế cấp thiết trong luật HÌNH SỰ:
1. Khái niệm về tình thế cấp thiết“
Tình thế cấp thiết là tình thể của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thể cấp thiết không phải là tội phạm”. (Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)
Chế định tình thế cấp thiết được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lí, khuyến khích mọi người có hành động có ích, phù hợp với yêu cầu của xã hội khi đứng trước thực tế một thiệt hại đang xảy ra hoặc đang bị đe dọa xảy ra ngay. Cũng như phòng vệ chính đáng, hành động trong tình thế cấp thiết là quyền của mỗi cá nhân. Để hướng mọi người thực hiện đúng quyền này của mình, Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy đỉnh rõ cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết.
2. Đặc điểm của tình thế cấp thiết:
Khi tình thế cấp thiết xảy ra thì hành vi được thực hiện và bối cảnh thực hiện có những dấu hiệu sau:
- Hành vi được thực hiện gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa mà không còn cách nào khác. Lợi ích ở đây có thể là thiệt hại về tài sản, về sức khoẻ, tính mạng của con người, an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia...
- Hành vi được thực hiện trong khi tình thế cấp thiết xảy ra là quyền của công dân vừa nghĩa vụ pháp lý. Nhận thức được tình thế xảy ra, người thực hiện hành vi khi có tình thế cấp thiết vì họ muốn tránh những thiệt hại thực tế sẽ xảy ra với cá nhân, cơ quan, tổ chức, Nhà nước với trách nhiệm của một người công dân nên đã thực hiện hành vi này. Việc làm đó không chỉ có ý nghĩa với nhà nước, cơ quan, tổ chức, và người khác mà còn ý nghĩa đối với chính bản thân của một người công dân, một nhân tố cấu thành lên xã hội. Để đảm bảo xây dựng một xã hội tốt đẹp, thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm từ chính bản thân mỗi công dân là một yếu tố vô cùng quan trọng, vì vậy nhà nước, tổ chức chính quyền địa phương nên tổ chức các buổi phổ biến chính sách pháp luật, để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Người dân có thể nắm được chủ yếu tinh thần, định hướng quy định của pháp luật để có hiểu và áp dụng.
- Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp này là cách duy nhất để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác: ngoài lựa chọn là gây thiệt hại khi có tình thế cấp thiết xảy ra thì không còn cách nào khác để có thể ngăn chặn, hạn chế, bảo vệ được lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nhà nước khi sự việc xảy ra. Đây vừa là lựa chọn và sự đánh giá của bản thân dựa trên bối cảnh xảy ra, cùng với sự am hiểu quy định của pháp luật để áp dụng một cách chinhs xác, hợp pháp, hợp hiến. Hành vi thực hiện dưới một mức độ vừa đủ không kéo theo trách nhiệm của bản thân khi thực hiện hành vi này. Yêu cầu đặt ra là người thực hiện phải có phán đoán chính xác, nhanh nhạy...
- Bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của mình và người khác: hành vi thực hiện khi có tình thế cấp thiết đem lại những giá trị, lợi ích to lớn hơn không chỉ về mặt tình thần mà còn cả về mặt vật chất cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước. Đánh giá cao tinh thần và thái độ của người thực hiện hành vi, cách thực hiện quyết đoán, kịp thời, đúng và chuẩn về mức độ. Đó là kết quả mong muốn đạt được và mục đích quy định của điều luật.
- Người thực hiện hành vi trong khi tình thế cấp thiết xảy ra không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa và ngược lại: Đây là giới hạn, mức độ mà pháp luật đặt ra cho người thực hiện hành vi, nếu đảm bảo đúng giới hạn này, thì quy phạm mới đạt được mục đích của người làm luật muốn hướng đến.
3. Quy định chung về tình thế cấp thiết
Theo luật hình sự Việt Nam, tình thế cấp thiết là tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Do vậy, gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Tình thế cấp thiết đòi hỏi có các dấu hiệu sau:
1) Phải có sự nguy hiểm thực tế đang gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích được pháp luật bảo vệ. Sự nguy hiểm đó có thể bắt nguồn từ người, từ con vật, từ sức mạnh tự nhiên, từ những sự cố kĩ thuật vv.;
2) Việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm vì trong tình thế đó không còn cách nào khác;
3) Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Với việc xác định hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm luật hình sự cho phép và sự khuyến khích công dân cần biết lựa chọn và chấp nhận việc gây ra thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ các lợi ích chính đáng lớn hơn trong những trường hợp cần thiết.
Trong trường hợp người trong tình thế cấp thiết đã gây thiệt hại rõ ràng là quá đáng thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vị gây thiệt hại đó nhưng được giảm nhẹ trách nhiệm hình Sự. Đây là trường hợp vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết. Vì xét động cơ phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội cho thấy động cơ phạm tội của chủ thể là muốn ngăn chặn sự nguy hiểm, bảo vệ lợi ích hợp pháp đang bị xâm hại. Sự bất hợp pháp trong hành vi của chủ thể chỉ ở chỗ đã Vượt ra khỏi phạm vi được phép. Nhưng sự vượt quá này rõ ràng là do hoàn cảnh chi phối.
4. Điều kiện của tình thế cấp thiết
4.1 Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết
Mỗi người có quyền được hành động trong tình thế cấp thiết khi có thiệt hại đang bị đe doạ xảy ra ngay. Thiệt hại này không đòi hỏi phải do hành vi của con người gây ra, như ở trường hợp phòng vệ chính đáng, mà có thể do các nguồn khác nhau. Có thể do con vật, do thiên tai, do những trục trặc kĩ thuật v.v…
Với trách nhiệm của người dân, đòi hỏi mỗi người đứng trước thực tế như vậy cần phải có biện pháp ngăn ngừa, kể cà biện pháp phải gây ra thiệt hại khác. Tuy nhiên, biện pháp gây thiệt hại để ngăn ngừa thiệt hại chỉ phù hợp với lợi ích xã hội và do vậy được coi là hợp pháp, khi không còn biện pháp khác (biện pháp không gây thiệt hại). Đây là điểm khác so với phòng vệ chính đáng. Hành vi chống trả trong phòng vệ chính đáng thực chất là hành vi trực tiếp chống hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết ttong mọi trường hợp. Trong tình thế cấp thiết, lợi ích bị gây thiệt hại và lợi ích cần bảo vệ đều là lợi ích hợp pháp. Do vậy, khi còn biện pháp khác không gây thiệt hại mà vẫn có thể bảo vệ được lợi ích đang bị đe dọa thì việc gây thiệt hại là không cần thiết và hành động trong tình thế cấp thiết cũng không được đặt ra. Như vậy, quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chỉ phát sinh khi chỉ còn biện pháp phải gây thiệt hại để trách thiệt hại đang bị đe dọa xảy ra ngay. Nếu mệt người đã nhầm tưởng có cơ sở này mà trên thực tế không có và đã hành động trong tình thế cấp thiết thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết như trường hợp sai lầm.
4.2 Nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết
Khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, người hành động được phép gây thiệt hại mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về việc gây thiệt hại này khi thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại bị đe dọa gây ra. Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác chỉ có ý nghĩa khi thiệt hại cần ngăn ngừa lớn hơn. Sẽ là vô nghĩa khi ngăn ngừa một thiệt hại bằng cách gây ra thiệt hại khác bằng hoặc lớn hơn.
Sự so sánh hai thiệt hại này được xét cả về tính chất và mức độ của thiệt hại. Thông thường, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết là thiệt hại về tài sản.
Như vậy, khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, mỗi người đều có thể được phép gây thiệt hại nhỏ hơn để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn.
5. Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để được hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phép gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Điều đó có nghĩa khi thiệt hại gây ra không nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì không còn là trường hợp tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, do sự so sánh hai loại thiệt hại trong tình thế cấp thiết là vấn đề không đơn giản, dễ dàng và điều này càng khó khăn hơn đối với người đang đứng trước sự đe dọa gây thiệt hại mà phải lựa chọn biện pháp ngăn chặn sự đe dọa đó. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ coi việc gây thiệt hại là không hợp pháp khi thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu... và chủ thể có lỗi đổi với việc vượt quá đó. Trường hợp này tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện điều này, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Nguồn: Luật Minh Khuê
1. Khái niệm về tình thế cấp thiết“
Tình thế cấp thiết là tình thể của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thể cấp thiết không phải là tội phạm”. (Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)
Chế định tình thế cấp thiết được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lí, khuyến khích mọi người có hành động có ích, phù hợp với yêu cầu của xã hội khi đứng trước thực tế một thiệt hại đang xảy ra hoặc đang bị đe dọa xảy ra ngay. Cũng như phòng vệ chính đáng, hành động trong tình thế cấp thiết là quyền của mỗi cá nhân. Để hướng mọi người thực hiện đúng quyền này của mình, Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy đỉnh rõ cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết.
2. Đặc điểm của tình thế cấp thiết:
Khi tình thế cấp thiết xảy ra thì hành vi được thực hiện và bối cảnh thực hiện có những dấu hiệu sau:
- Hành vi được thực hiện gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa mà không còn cách nào khác. Lợi ích ở đây có thể là thiệt hại về tài sản, về sức khoẻ, tính mạng của con người, an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia...
- Hành vi được thực hiện trong khi tình thế cấp thiết xảy ra là quyền của công dân vừa nghĩa vụ pháp lý. Nhận thức được tình thế xảy ra, người thực hiện hành vi khi có tình thế cấp thiết vì họ muốn tránh những thiệt hại thực tế sẽ xảy ra với cá nhân, cơ quan, tổ chức, Nhà nước với trách nhiệm của một người công dân nên đã thực hiện hành vi này. Việc làm đó không chỉ có ý nghĩa với nhà nước, cơ quan, tổ chức, và người khác mà còn ý nghĩa đối với chính bản thân của một người công dân, một nhân tố cấu thành lên xã hội. Để đảm bảo xây dựng một xã hội tốt đẹp, thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm từ chính bản thân mỗi công dân là một yếu tố vô cùng quan trọng, vì vậy nhà nước, tổ chức chính quyền địa phương nên tổ chức các buổi phổ biến chính sách pháp luật, để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Người dân có thể nắm được chủ yếu tinh thần, định hướng quy định của pháp luật để có hiểu và áp dụng.
- Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp này là cách duy nhất để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác: ngoài lựa chọn là gây thiệt hại khi có tình thế cấp thiết xảy ra thì không còn cách nào khác để có thể ngăn chặn, hạn chế, bảo vệ được lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nhà nước khi sự việc xảy ra. Đây vừa là lựa chọn và sự đánh giá của bản thân dựa trên bối cảnh xảy ra, cùng với sự am hiểu quy định của pháp luật để áp dụng một cách chinhs xác, hợp pháp, hợp hiến. Hành vi thực hiện dưới một mức độ vừa đủ không kéo theo trách nhiệm của bản thân khi thực hiện hành vi này. Yêu cầu đặt ra là người thực hiện phải có phán đoán chính xác, nhanh nhạy...
- Bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của mình và người khác: hành vi thực hiện khi có tình thế cấp thiết đem lại những giá trị, lợi ích to lớn hơn không chỉ về mặt tình thần mà còn cả về mặt vật chất cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước. Đánh giá cao tinh thần và thái độ của người thực hiện hành vi, cách thực hiện quyết đoán, kịp thời, đúng và chuẩn về mức độ. Đó là kết quả mong muốn đạt được và mục đích quy định của điều luật.
- Người thực hiện hành vi trong khi tình thế cấp thiết xảy ra không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa và ngược lại: Đây là giới hạn, mức độ mà pháp luật đặt ra cho người thực hiện hành vi, nếu đảm bảo đúng giới hạn này, thì quy phạm mới đạt được mục đích của người làm luật muốn hướng đến.
3. Quy định chung về tình thế cấp thiết
Theo luật hình sự Việt Nam, tình thế cấp thiết là tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Do vậy, gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Tình thế cấp thiết đòi hỏi có các dấu hiệu sau:
1) Phải có sự nguy hiểm thực tế đang gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích được pháp luật bảo vệ. Sự nguy hiểm đó có thể bắt nguồn từ người, từ con vật, từ sức mạnh tự nhiên, từ những sự cố kĩ thuật vv.;
2) Việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm vì trong tình thế đó không còn cách nào khác;
3) Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Với việc xác định hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm luật hình sự cho phép và sự khuyến khích công dân cần biết lựa chọn và chấp nhận việc gây ra thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ các lợi ích chính đáng lớn hơn trong những trường hợp cần thiết.
Trong trường hợp người trong tình thế cấp thiết đã gây thiệt hại rõ ràng là quá đáng thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vị gây thiệt hại đó nhưng được giảm nhẹ trách nhiệm hình Sự. Đây là trường hợp vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết. Vì xét động cơ phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội cho thấy động cơ phạm tội của chủ thể là muốn ngăn chặn sự nguy hiểm, bảo vệ lợi ích hợp pháp đang bị xâm hại. Sự bất hợp pháp trong hành vi của chủ thể chỉ ở chỗ đã Vượt ra khỏi phạm vi được phép. Nhưng sự vượt quá này rõ ràng là do hoàn cảnh chi phối.
4. Điều kiện của tình thế cấp thiết
4.1 Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết
Mỗi người có quyền được hành động trong tình thế cấp thiết khi có thiệt hại đang bị đe doạ xảy ra ngay. Thiệt hại này không đòi hỏi phải do hành vi của con người gây ra, như ở trường hợp phòng vệ chính đáng, mà có thể do các nguồn khác nhau. Có thể do con vật, do thiên tai, do những trục trặc kĩ thuật v.v…
Với trách nhiệm của người dân, đòi hỏi mỗi người đứng trước thực tế như vậy cần phải có biện pháp ngăn ngừa, kể cà biện pháp phải gây ra thiệt hại khác. Tuy nhiên, biện pháp gây thiệt hại để ngăn ngừa thiệt hại chỉ phù hợp với lợi ích xã hội và do vậy được coi là hợp pháp, khi không còn biện pháp khác (biện pháp không gây thiệt hại). Đây là điểm khác so với phòng vệ chính đáng. Hành vi chống trả trong phòng vệ chính đáng thực chất là hành vi trực tiếp chống hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết ttong mọi trường hợp. Trong tình thế cấp thiết, lợi ích bị gây thiệt hại và lợi ích cần bảo vệ đều là lợi ích hợp pháp. Do vậy, khi còn biện pháp khác không gây thiệt hại mà vẫn có thể bảo vệ được lợi ích đang bị đe dọa thì việc gây thiệt hại là không cần thiết và hành động trong tình thế cấp thiết cũng không được đặt ra. Như vậy, quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chỉ phát sinh khi chỉ còn biện pháp phải gây thiệt hại để trách thiệt hại đang bị đe dọa xảy ra ngay. Nếu mệt người đã nhầm tưởng có cơ sở này mà trên thực tế không có và đã hành động trong tình thế cấp thiết thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết như trường hợp sai lầm.
4.2 Nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết
Khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, người hành động được phép gây thiệt hại mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về việc gây thiệt hại này khi thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại bị đe dọa gây ra. Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác chỉ có ý nghĩa khi thiệt hại cần ngăn ngừa lớn hơn. Sẽ là vô nghĩa khi ngăn ngừa một thiệt hại bằng cách gây ra thiệt hại khác bằng hoặc lớn hơn.
Sự so sánh hai thiệt hại này được xét cả về tính chất và mức độ của thiệt hại. Thông thường, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết là thiệt hại về tài sản.
Như vậy, khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, mỗi người đều có thể được phép gây thiệt hại nhỏ hơn để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn.
5. Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để được hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phép gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Điều đó có nghĩa khi thiệt hại gây ra không nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì không còn là trường hợp tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, do sự so sánh hai loại thiệt hại trong tình thế cấp thiết là vấn đề không đơn giản, dễ dàng và điều này càng khó khăn hơn đối với người đang đứng trước sự đe dọa gây thiệt hại mà phải lựa chọn biện pháp ngăn chặn sự đe dọa đó. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ coi việc gây thiệt hại là không hợp pháp khi thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu... và chủ thể có lỗi đổi với việc vượt quá đó. Trường hợp này tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện điều này, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Nguồn: Luật Minh Khuê
Dốt, đã nói ông X kêu gọi được ông A ngưng không đuổi giết, chuỗi hành động đã xong, mối đe dọa đã biến mất, tức TTCT không còn tồn tại.Nếu, giả sử....là chủ quan của chủ thể X không phải là cấp thiết nhé, chỉ do ông X đang tự tưởng tượng ra như vậy, hoàn toàn chưa cần đến việc gây thiệt hại để ngăn ngừa cái thiệt hại do ông ta tưởng tượng ra, và đây KHÔNG PHẢI là sự lựa chọn duy nhất.
Ngay trong còm của ông đã đưa ra các tình huống khác có thể xảy ra
"- ông X kêu gọi ông A ngưng đuổi chém, ông A đồng ý -> tình huống trên không là hành động trong tình thế cấp thiết."
Vậy thì chính ông đã confirm tình huống này không phải THCT.
Nhưng nếu kêu gọi mà ông A không ngưng thì làm sao? đứng nhìn? hay buộc phải coi đó là
TTCT để phang cái ghế vô ông A?
Dốt, tại thời điểm đó ông X thấy rằng phá bỏ ruộng bắp là phương án khả thi nhất chống cháy lan, sau khi tìm ko thấy nước, bình cứu hỏa, ko có người, ko gọi được cứu hỏa... thì sao?Tương tự VD 2 này cũng do ông Y tưởng tượng ra đây là cấp thiết trong khi có thể vẫn còn cách để tránh gây thiệt hại như còm của ông
- ông Y dùng nước/ bình chữa cháy cuả mình dập tắt đám cháy: không có hành động trong TTCT gây hậu quả phải bồi thường, ko có hành vi vi phạm.
Vậy việc gây thiệt hại này để tránh một thiệt hại khác KHÔNG PHẢI là sự lựa chọn duy nhất.
Có cấp thiết phải làm như vậy không?
Nói lại: tính toán, lập luận ... tại thời điểm đó của chủ thể là ý chí chủ quan của chủ thể, chủ thể cho là đúng và duy nhất và chủ thể quyết định hành động, về sau (khi mọi chuyện đã kết thúc) đánh giá lại mới biết suy đoán của chủ thể là đúng hay sai phỏng ạ!Do LẬP LUẬN SAI nên mới phán đoán sai, tự suy diễn cho là cấp thiết mà hoàn toàn không dựa vào các điều kiện phân tích đã trích dẫn của 2 LS.
Các ví dụ của ông đưa ra chỉ là do suy đoán, tưởng tượng, KHÔNG CÓ vụ nào là tình huống cấp thiết cả nhé.