Sorỳ các pác các mợ, mới tỉnh ngủ thì lo bơm vá cho bên FI & CNL nên quên bặt miềng còn đang nợ chuyện ma. Tiếp về câu chuyện tâm linh giang dở.
Ngày khai quật thì gặp một khối đá ong bự tổ chảng, cả hội đồng giám sát bực bội ra mặt, tính lấp hố đào, tính quay qua bùm ông thầy, thì một thành viên chợt nhớ ngôi mộ tổ nhà mình khi cải táng cũng có tảng đá ong bự chảng như vậy.
Ngày xưa các gia đình có gia thế ở vùng bán sơn địa khi an táng người đã khuất, ngoài chọn huyệt mộ theo phong thủy (thường rất xa chỗ thường định cư) còn phải phòng chống đào phá trộm mộ. Phải xây các quách bảo vệ quan tài (xây bằng các hợp chất kiên cố làm từ vôi, cát, mật...). Các quách này giống như những bức tường thành vững chãi bao kín các mặt quan tài bảo vệ quan tài và xác bên trong khỏi bị tác hại của không khí, rất kiên cố, tồn tại hàng trăm năm. Bên trên quách thường để thêm các tảng đá ong lớn, trên các tảng đá ong lớn là các tiểu sành (dùng để chứa xương cốt thứ dân đã khuất khi cải táng, thường sau 5 năm), có khi hàng trăm cái. Khi có kẻ đào mộ, các tiểu sành này sẽ gây hoang mang cũng như cản trở kẻ đào một. Nếu sau khi phá dỡ hết lớp tiểu sành, sẽ đụng lớp đá ong thì những kẻ đào một trộm sẽ gặp khó khăn hoặc nhầm lẫn là đã đụng đáy mộ, hoặc nhầm lẫn đào nhầm mộ giả. Sau khi khởi nghĩa Cần Vương bị tan rã, loạn binh tác yêu tác quái khắp nơi. Các ngôi mộ tổ của các dòng họ lớn bị đào phá tìm của chôn theo. Nhờ phương pháp phòng chống đào mộ trên, rất nhiều ngôi mộ không bị mất xác. Khi các ngôi mộ tổ bị đào giang dở, con cháu không dám xây cất lại, chỉ đắp lại bằng đất để đánh dấu và nhang khói hàng năm.
Hội đồng giám sát hội ý, đồng ý khai quật tiếp. Sau khi khai quật tiếp thì banh xác cái nhà công vụ. Sau một ngày đào bới, cả nhóm công nhân cũng như hội đồng giám sát "mặt cắt không còn giọt máu" khi phát hiện dưới độ sâu 6m của khu đất này, bên dưới lớp đá ong thì đúng là một ngôi mộ còn quách với các thông tin của một quận công nhà chúa (cho em bí mật tẹo, vì động chạm tùm lum). Khi đến đào đến lộ hết quách, những người khai quật thấy hoa mắt, chóng mặt rồi như có một luồng điện chạy dọc sống lưng. Mồ hôi trên nhiều người đột nhiên cứ vã ra như tắm. Buộc phải di dời, sau khi tháo dỡ quách và cậy nắp quan tài, xác còn tương đối nguyên, sau mấy tiếng mới rã ra nước. Một không khí âm u không thể tả được. Mọi người đang chờ ông thầy thắp nhang để xin người đã khuất bốc cốt cải táng, bỗng có hai con rắn hổ mang phọt lên phì phò, cả đoàn chạy trối chết. Một số người cuống chân chạy không kịp, bảo cả hai con rắn trên đầu đều có mào hình chữ thập, một con trên đầu có hình chữ “Thọ”, một con trên đầu có hình chữ “Phúc”.
Chuyện động trời đến tai bên trên cao nữa, ông thầy được mời về an trí dài hạn để bị phỏng vấn. Sau khi bị quay cho ra bã, ông thú thật là ông có khả năng nhìn thấu lòng đất phát hiện mộ phần hài cốt. Có một người phương xa về có nhờ ông đi tìm mộ tổ, do loạn lạc, con cháu tứ tán phải bỏ xứ đi lánh nạn, nay không còn nhớ đích xác ngôi mộ tổ. Ông đã đi tìm và biết vị trí ngôi mộ, nhưng chưa tìm ra cách để thuyết phục chính quyền cho khai quật.
Rồi cho đến ngày gia đình đưa bà bác tới chỗ ông thầy, sau khi hỏi han cụ thể, ông thầy đoán bà bác bị cuồng vào ngày kinh vì các đợt cuồng cách nhau chừng tháng. Sau khi kiểm tra lại, đúng sự việc là như vậy. Còn chuyện vị trí để bô là ông phỏng đoán. Còn tại sao bà bác bị điên thì ông không giải thích được, nhưng ông bảo ngoài biệt tài tìm mộ, ông còn có khả năng tìm mạch nước ngầm để giúp người đào giếng, khi gặp mạch nước ngầm thì đầu óc sảng khoái, khi gặp mộ hay hài cốt thì mặt mày xây xẩm. Nếu gặp những khu mô tập thể của người chết sau nạn đói 45 chẳng hạn, ông cảm giác đôi chân nặng trì. Vì đảm bảo an ninh trật tự, ông phải viết cam kết không phổ biến câu chuyện, sau đó được một số nhà khoa học từ TW về cân đong đo đếm nhưng không tài nào phân tích nổi khả năng tìm mộ tìm nước ngầm dưới đất của ông thầy.
Bà bác dâu sau vụ việc, trở lại bình thường. Tuy nhiên để tránh ám ảnh cho bà & không tốt cho chính quyền, bà bị tổ chức điều về ngồi chơi xơi nước ở Hội Phụ Nữ cho đến khi về vườn.
Ngày khai quật thì gặp một khối đá ong bự tổ chảng, cả hội đồng giám sát bực bội ra mặt, tính lấp hố đào, tính quay qua bùm ông thầy, thì một thành viên chợt nhớ ngôi mộ tổ nhà mình khi cải táng cũng có tảng đá ong bự chảng như vậy.
Ngày xưa các gia đình có gia thế ở vùng bán sơn địa khi an táng người đã khuất, ngoài chọn huyệt mộ theo phong thủy (thường rất xa chỗ thường định cư) còn phải phòng chống đào phá trộm mộ. Phải xây các quách bảo vệ quan tài (xây bằng các hợp chất kiên cố làm từ vôi, cát, mật...). Các quách này giống như những bức tường thành vững chãi bao kín các mặt quan tài bảo vệ quan tài và xác bên trong khỏi bị tác hại của không khí, rất kiên cố, tồn tại hàng trăm năm. Bên trên quách thường để thêm các tảng đá ong lớn, trên các tảng đá ong lớn là các tiểu sành (dùng để chứa xương cốt thứ dân đã khuất khi cải táng, thường sau 5 năm), có khi hàng trăm cái. Khi có kẻ đào mộ, các tiểu sành này sẽ gây hoang mang cũng như cản trở kẻ đào một. Nếu sau khi phá dỡ hết lớp tiểu sành, sẽ đụng lớp đá ong thì những kẻ đào một trộm sẽ gặp khó khăn hoặc nhầm lẫn là đã đụng đáy mộ, hoặc nhầm lẫn đào nhầm mộ giả. Sau khi khởi nghĩa Cần Vương bị tan rã, loạn binh tác yêu tác quái khắp nơi. Các ngôi mộ tổ của các dòng họ lớn bị đào phá tìm của chôn theo. Nhờ phương pháp phòng chống đào mộ trên, rất nhiều ngôi mộ không bị mất xác. Khi các ngôi mộ tổ bị đào giang dở, con cháu không dám xây cất lại, chỉ đắp lại bằng đất để đánh dấu và nhang khói hàng năm.
Hội đồng giám sát hội ý, đồng ý khai quật tiếp. Sau khi khai quật tiếp thì banh xác cái nhà công vụ. Sau một ngày đào bới, cả nhóm công nhân cũng như hội đồng giám sát "mặt cắt không còn giọt máu" khi phát hiện dưới độ sâu 6m của khu đất này, bên dưới lớp đá ong thì đúng là một ngôi mộ còn quách với các thông tin của một quận công nhà chúa (cho em bí mật tẹo, vì động chạm tùm lum). Khi đến đào đến lộ hết quách, những người khai quật thấy hoa mắt, chóng mặt rồi như có một luồng điện chạy dọc sống lưng. Mồ hôi trên nhiều người đột nhiên cứ vã ra như tắm. Buộc phải di dời, sau khi tháo dỡ quách và cậy nắp quan tài, xác còn tương đối nguyên, sau mấy tiếng mới rã ra nước. Một không khí âm u không thể tả được. Mọi người đang chờ ông thầy thắp nhang để xin người đã khuất bốc cốt cải táng, bỗng có hai con rắn hổ mang phọt lên phì phò, cả đoàn chạy trối chết. Một số người cuống chân chạy không kịp, bảo cả hai con rắn trên đầu đều có mào hình chữ thập, một con trên đầu có hình chữ “Thọ”, một con trên đầu có hình chữ “Phúc”.
Chuyện động trời đến tai bên trên cao nữa, ông thầy được mời về an trí dài hạn để bị phỏng vấn. Sau khi bị quay cho ra bã, ông thú thật là ông có khả năng nhìn thấu lòng đất phát hiện mộ phần hài cốt. Có một người phương xa về có nhờ ông đi tìm mộ tổ, do loạn lạc, con cháu tứ tán phải bỏ xứ đi lánh nạn, nay không còn nhớ đích xác ngôi mộ tổ. Ông đã đi tìm và biết vị trí ngôi mộ, nhưng chưa tìm ra cách để thuyết phục chính quyền cho khai quật.
Rồi cho đến ngày gia đình đưa bà bác tới chỗ ông thầy, sau khi hỏi han cụ thể, ông thầy đoán bà bác bị cuồng vào ngày kinh vì các đợt cuồng cách nhau chừng tháng. Sau khi kiểm tra lại, đúng sự việc là như vậy. Còn chuyện vị trí để bô là ông phỏng đoán. Còn tại sao bà bác bị điên thì ông không giải thích được, nhưng ông bảo ngoài biệt tài tìm mộ, ông còn có khả năng tìm mạch nước ngầm để giúp người đào giếng, khi gặp mạch nước ngầm thì đầu óc sảng khoái, khi gặp mộ hay hài cốt thì mặt mày xây xẩm. Nếu gặp những khu mô tập thể của người chết sau nạn đói 45 chẳng hạn, ông cảm giác đôi chân nặng trì. Vì đảm bảo an ninh trật tự, ông phải viết cam kết không phổ biến câu chuyện, sau đó được một số nhà khoa học từ TW về cân đong đo đếm nhưng không tài nào phân tích nổi khả năng tìm mộ tìm nước ngầm dưới đất của ông thầy.
Bà bác dâu sau vụ việc, trở lại bình thường. Tuy nhiên để tránh ám ảnh cho bà & không tốt cho chính quyền, bà bị tổ chức điều về ngồi chơi xơi nước ở Hội Phụ Nữ cho đến khi về vườn.
Last edited by a moderator: