Hạng D
5/4/07
1.809
5.165
113
@Quỳnh Rùa: vua quang Trung đóng đô ở nghệ an chẳng phải do lưỡng quảng, vốn dĩ lưỡng quảng rộng lớn, nếu Hoàng lịch cho chắc gì nhà vua đã nhận
Vốn đất thuận quảng do vua anh giữ, đất miền nam thì: "cái cây ngọn cỏ ơn chúa", danh sĩ đất bắc thì còn thương nhớ nhà chúa Trịnh
Thử hỏi còn mỗi vùng thanh nghệ vua ko chọn thì chọn dc chỗ khác chăng?
Nhà vua vốn giỏi việc xuất chinh đánh dẹp hơn là trị dân, còn nếu trị nước thì có vẻ ko bằng vua Gia Long
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
LIÊN HỆ GIỬA DÂN TỘC VIÊM VIỆT VÀ DÂN TỘC TRUNG HOA
Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế của Viêm Tộc
Thiên Hoàng
Người Homo Sapiens Bàn Cổ Thời kỳ khai sơnn phá thạch. 100.000 năm trước.
Địa Hoàng
Người Modern Toại Nhân Sử Dụng Lửa, làm chín thức ăn.
Nhân Hoàng
Hữu Sào
Làm nhà trên cây, 50.000 - 30.000 năm trước
Ngũ Đế
Phục Hy và Nữ Oa (1)
Viêm Đế Thần Nông (2) -Xuất Hiện Hoa Tộc Du cư Phương Bắc tràn xuống
Bắc Hoàng Hà.
Đế Khôi (3)
Đế Thừa (4)
Đế Minh (5)
Tam Hoàng của Hoa Tộc :
· Toại Nhân, Thần Nông, Phục Hy
· Ngũ Đế gồm :
Kinh Dương Vương Vua Nghi
Lạc Long Quân Vua Lai
Âu Cơ Vua Ly (Xuất hiện Hửu Hùng Thị thủ lỉnh Hoa tộc
diệt Triều đại Thần Nông Bắc rồi xưng là
<span style=""color: #ff0000;"">Hùng Quốc Vương Vua Dũ Võng Hiên Viên Hoàng Đế. 2696 tr TL) </span>
Hoàng Đế 2696-2597 Tr LT.
Thiếu Hạo 2597-2513 tr TL.
Xuyên Húc 25513- 2359 tr TL.
Chi cấn Hùng Quốc Vương 2543- 2254 tr TL (3) Đế Nghiêu 2359-2 256 tr TL
Đế Thuấn 2256- 2208 tr TL
Chi Chấn Hùng Hoa Vương 2254- 1918 tr TL (4) Thời kỳ Tam Đại Hoa Tộc.
Vua Quýnh nhà Hạ.
Vua Kiệt nhà Hạ 2205-1766 tr TL
Chi Tốn Hùng Hy Vương 1918- 1713 Tr TL (5) Nhà Thương. 1766-1122 trTL
Chi Ly Hùng Hồng Vương 1750-1712 tr TL (6) Oc Đinh nhà Thương.
Chi Khôn Hùng Chiêu Vưống 1631-1431 tr TL (7) Tổ Cảnh nhà Thương.
Chi Đoài Hùng Vĩ Vương 1431-1332 tr TL (8) Nam Canh nhà Thương.
Chi Giáp Hùng Định Vương 1332- 1252 tr TL (9) Tiểu At nhà Thương.
Chi Ất Hùng Uy Vương 1251- 1162 tr TL (10) Tổ Giáp nhà Thương.
Chi Bính Hùng Trinh Vương 1162-1055 tr TL (11) Nhà Chu 1122-256 tr TL
Thành Vương nhà Tây Chu
Chi Đinh Hùng Vũ Vương 1055- 969 tr TL (12) Mục Vương nhà Tây Chu.
Chi Mậu Hùng Việt Vương 968-854 tr TL (13) Lệ Vương nhà Tây Chu.
Chi Kỷ Hùng Anh Vương 854- 755 tr TL (14) Bình Vương nhà Đông Chu.
Chi Canh Hùng Triệu Vương 755- 661 tr TL (15) Huệ Vương nhà Đông Chu.
Chi Tân Hùng Tạo Vương 661- 568 tr TL (16) Linh Vương nhà Đông Chu.
Chi Nhâm Hùng Nghi Vương 568 - 409 tr TL (17) Uy Việt nhà Đông Chu.
Chi Quý Hùng Duệ Vương 408- 258 tr TL (18) Noản Vương nhà Đông Chu.
Thục Phán An Dương Vương 258 - 208 tr TL Doanh Chính diệt 6 nước lập ra nhà Tần.
Triệu Đà 208- 111 tr TL Lưu Bang lập nhà Tây Hán.
Thời kỳ Bắc thuộc thứ lần I 111- 39 sau TL Vương Mãn soán ngôi nhà Tây Hán.
Trưng Nữ Vương 40 sau TL Quan Vũ nhà Đông Hán.
Thời kỳ Bắc Thuộc lần II 43 - 544 sau TL Tam Quốc.phân tranh
Tư Mã Chiêu lập nhà Tấn
Nhà Tiền Lý 544 - 602 Nam Bắc triều : Nguỵ , Tề, Chu.
Tống, Tề, Lương, Trần.
Thời Kỳ Bắc Thuộc lần III . 602 - 939 Tuỳ Dương Đế. . . Đến đời Đường Ngũ Đại
Vua Ngô Quyền đánh quân Nam Hán 939-944 Đời Nhà hậu Lương,
Vua Đinh Bộ Lỉnh 968- 980. HậuĐường, Tấn, Hán, Chu.
Vua Lê Hoàn đánh Tống 981-1009 Triệu Khuông Dẩn lập nhà Tống.
Vua nhà Lý 1010-1225 Tống Thần Tông
Lý Thường Kiệt đánh Tống
Vua nhà Trần 1225 - 1400 Nhà Nguyên .
Vua Nhà Hồ 1400 - 1407 Nhà Minh.
Vua nhà Hậu Lê 1427-1527 Minh Thành Tổ.
Vua Nhà Mạc 1527 - 1592 -nt-
Chúa Trịnh 1545 - 1770. Lý Sấm vương soán ngôi nhà Minh
Chúa Nguyễn Hoàng 1558-1770 Nhà Thanh diệt nhà Minh.
Vua Quan Trung 1771- 1789 Vua Càn Long nhà Thanh.
Vua nhà Nguyễn ( Gia Long ) 1802 - 1945 Vua Càn Long, Gia Khánh nhà Thanh.
Và các Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức Đạo Quang, Hàm Phong, Quang Tự, Phổ Nghi.
Hàm Nghi. . . . đến vua Bảo Đại Cách mạng năm Tân Hợi 1911. Tôn Văn.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh Cách mạng Vô sản Chủ Tịch Mao T Đông.

=> Đây là bảng liên hệ so sánh giữa lịch sử Việt Nam và bên Trung Hoa để cách bác dễ hình dung. Vua hùng dựng nước từ năm 2696 tr Cn, há chẳng phải hơn 4000 năm lịch sử sao? Chúng ta luôn sánh vai cùng Trung Hoa(dân tộc hán) để phát triển, cho dù bị độ hộ nhưng chưa bao giờ dân ta quên đi nguồn cội của mình.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
couto nói:
@Quỳnh Rùa: vua quang Trung đóng đô ở nghệ an chẳng phải do lưỡng quảng, vốn dĩ lưỡng quảng rộng lớn, nếu Hoàng lịch cho chắc gì nhà vua đã nhận
Vốn đất thuận quảng do vua anh giữ, đất miền nam thì: "cái cây ngọn cỏ ơn chúa", danh sĩ đất bắc thì còn thương nhớ nhà chúa Trịnh
Thử hỏi còn mỗi vùng thanh nghệ vua ko chọn thì chọn dc chỗ khác chăng?
Nhà vua vốn giỏi việc xuất chinh đánh dẹp hơn là trị dân, còn nếu trị nước thì có vẻ ko bằng vua Gia Long

Bác vui lòng tham khảo thêm. Quang Trung là người trí trá, không tin được. Sử sách ghi chép, ông xin cưới con gái Càn Long và xin lại 2 tỉnh lưỡng Quảng vì đây là nơi thủy tộc của dân tộc Viêm Việt(kinh). Càng Long vốn gốc Mãn Thanh, chiếm được Trung Nguyên rộng lớn của nhà Minh, bình định chưa yên, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nếu giao được cho Quang Trung quản lý 2 tỉnh lưỡng Quảng, lại là con rể, mượn tay trị loạn luôn phản tặc đang trú ngụ tại nước Nam, há chẳng phải thuận tiện lắm sao? Nghe đâu càng Long đã đồng ý rồi bác ạh,( Cảm ơn sự giúp sức của Hòa Thân)
Còn về "Phượng Hoàng Trung Đô" là do Nguyễn Thiếp cố vấn, Nghệ An vốn là đất chuyên dùng quân và lấy của Chúa Trịnh(nên có lúc lính Nghệ-Thanh rất hung hăng và vênh váo tại kinh thành gây họa, có thời gian em sẽ post sau ạ), Quang Trung đóng ở đây vừa để quản lý bắc-trung-nam, kể cả lưỡng Quảng sau này, vừa để tránh anh mình như bác nói là đúng ạ.
 
Last edited by a moderator:
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
Từ khi khai quốc các vị vua Tổ của Họ Hồng Bàng truyền được tổng cộng 2622 năm trải qua 18 dòng chi Vua Hùng tổng Cộng là 43 vị Vua. 27 thế kỷ trị vì các Vua tổ không ngừng phát triển nền văn hoá của Tộc Viêm Việt và Chống lại những cuộc ngoại xâm giử vững truyền thống dân tộc, đồng thời di cư về phương Nam để an cư lạc nghiệp. Cho nên khi đọc sử chúng ta lại thấy một địa bàn Quốc Gia rộng lớn từ bờ sông Hoàng Hà cho đến cực Nam Thanh Hoá ngày nay.
Cổ sử của Trung Hoa cho rằng : “ Đất của Dân Tộc Việt là ở lưu vực sông Bộc Tỉnh Sơn Đông, người Đời Châu gọi là Rợ Đông Di, có tục Nhuộm răng đen ăn trầu. “ gồm các tộc : Hoàng Việt, Việt Câu Tiển, Ngô Việt, U Việt, Việt Thường, Lạc Việt, cho nên ta gọi chung là Bách Việt.
Tóm lại theo cổ sử của Mường Việt cổ, cùng cổ sử Trung Hoa thì “Vua Viêm Đế Thần Nông làm Vua đến 8 đời ở đất Hoàng Hà rồi mới bị Hiên Viên Hoàng Đế Trung Hoa diệt. Vậy Thần Nông là vị tổ Của Dân Tộc Viêm Việt.”
THẦN NÔNG LÀ AI ?
Dù rằng chuyện ông Thần Nông có thật hay không vẫn là ông tổ của chúng ta vì sử sách đã ghi như thế, vậy Thần Nông là ai ?
· Thần Nông theo từ Hán Ngữ là một vị Thần Nông Nghiệp hay là người đã phát minh ra cách trồng trọt và thuần dưởng thú vật, dạy dân biết sử dụng cây cỏ để trị bệnh.
· Nông theo Ngôn Ngữ Việt cổ có nghĩa là cái Bọc, cái Túi hay là vật tròn như quả Trứng. Nông Phải là “Nông Nghiệp” mà có nghĩa là “Bầu Hư Không”.
· Nông có nghĩa là Cạn không sâu, (liên hệ với nước).
· Nông cũng đồng biến âm tiếng Nang ( cái Bọc ).
· Nông cũng biến âm ra tiếng Không, tiếng Nòng. ( Âm )
· Viêm Đế Thần Nông là “Ong vua hư không” làm ra lửa là “Mặt Trời Nóng”, là nguồn sinh tạo ra thế giới vạn vật.
Do đó hiểu theo Ngữ nghĩa âm tiếng Việt cổ thì có nghĩa là : Thần Nòng, Thần Bọc, Thần Trứng, Thần Nang, tức là giống Cái thuộc tính Âm.là Thần Hư Không, Thần Trứng vũ trụ, là Nữ Thần Hư không Vũ Trụ ( Vô Cực ) = Nòng = O .
· Còn hiểu theo thuộc tính Dương giống Đực có nghĩa là Ong Thần Nóng( Viêm Đế ) : Thần còn gọi là Kỳ,Kẻ, Kèo, là Nọc hay là Thần Nống, Thần Nóng, Thần Nọc = l .
· Còn hiểu theo lưởng tính là đây là khối ÂM, DƯƠNG sinh tạo ra Thế Giới Vạn Vật, trong ÂM có DƯƠNG, trong DƯƠNG có ÂM. Thời Mẩu Hệ thì gọi là “Nữ Thần Trứng Âm Dương Vũ Trụ”. Thời Phụ Hệ thì gọi đó là “ Ong Thần Nóng Vũ Trụ hay Thần Nông “. Vì vậy người Việt có tín ngưỡng thờ “ Chim Bồ Nông ( mang tính ÂM ) hay Chim Bồ Cắt Hồng Hoàng ( mang tính DƯƠNG )” ta gọi là “Điểu Tục” (Người thời Viêm Việt ăn mặc trang trí kết lông chim làm váy, làm mũ đội đầu như người Da Đỏ ở Mỹ,) những đề tài theo Điểu Tục còn ghi lại trên Trống Đồng Đông Sơn, Miếu Môn, Ngọc Lủ. Hoàng Hạ .v.v. .
Tóm lại những âm nghĩa “Thần Nông” trên đây ( Vì thời cổ chúng ta không chưa có chử quốc ngử, mà chỉ có Hình ngữ nghĩa là Ngôn Ngữ sơ khai. ) thì Thần Nông là danh tính chỉ 2 người, có hai cực là Nam, Nư. Âm và Dương như vậy Người Việt Cổ của chúng ta có tục thờ Thần Trứng Vô Cực Vũ Trụ. Hiện nay còn tộc người AO Naga ở Assam sống ở cực Tây của Tỉnh Vân Nam Trung Hoa. Tộc Ao Naga chính là Tộc Au mà ngày xưa đã từng kết hợp với Tộc Lạc để lập thành nước “Au Lạc”, họ cũng thờ vị Thần Bầu Trời Hư Không gọi là ANung, âm ngữ A có liên hệ với cổ ngữ Việt Mường là Ả = phái Nữ: Cô Nàng, Cô Nường, Cô Nương, phái Nam : A = Tá , Đá, có nghĩa là Ong, Ngài như cổ ngữ của Dân Tộc Mường, Mán hai tộc này cũng là thành phần của đại Tộc Viêm Việt. Có hai họ BÔC và VIỆT.
Thời Mẩu hệ :
ANung là = Ả Nàng = Ả Nang = Ả Nòng = Ả Nung.
Thời Phụ Quyền thì :
Anung là = Tá Nung = Đá Nung = Đá Nang = Đá Nông.
Như vậy ANung là Thần Trứng Vũ Trụ có tròng đỏ mặt trời trông giống “ Con Mắt” nên ký hiệu ¤ là một vòng tròn có chấm giửa, nên sự tôn thờ tín ngưỡng tự nhiên này từ thời cổ đại đến ngày hôm nay. Cũng như trong nền tín ngưỡng Đạo Cao Đài thờ “ Con Mắt “ là thờ Thầy, một vị Thần Chủ Tể của Hư Không, đây không phải là sự ngẩu nhiên duy lý từ ngàn xưa của dân tộc Việt mà một minh triết được vị chủ tể Vũ Trụ dẩn truyền cho dân tộc Việt trong thời đại Tam Kỳ quy nguyên phản bổn. . . Thần Nóng, Thần Mặt Trời, sinh tạo thế giới. Người Việt chúng ta theo tín ngưỡng thờ bái Vũ Trụ trong đó có các vị Thần Nam là Thần Mặt Trời vũ trụ, Thần Nữ là Mẹ Hư Không Trứng Vũ Trụ, còn những linh vật Biểu Tượng như : Chim Bồ Nông, Chim Bồ Cắt Hồng Hoàng, hoặc thờ Trứng biểu tượng cho cuộc tạo sinh. Cũng như Mẹ Âu Cơ sanh các Vua Hùng Vương từ trong trăm trứng, thì ở Miền Bắc nước ta vẫn còn có nơi thờ Bọc Trăm Trứng hay Thần Trứng đó là sự sinh tạo vũ trụ. Việc Thờ Thần trứng có khắc trên trống đồng Đông Sơn. Cũng như người Việt cổ chúng ta các tộc khác cũng thờ “ Linh Vật “ tạo Sinh Vũ Trụ như các nước Đại Hàn, Nhật Bản, Ai Cập, Maya, Trung Hoa, An Độ. Gọi đó là trứng hổn mang (. Do đó ông Tổ Thần Nông Của Chúng Ta là Một Vị Thần Tạo Sinh ra Thế Giới có lưỡng tính Âm Dương là Thần Nòng thuộc nữ tinh, Thần Nọc thuộc nam tính
NGÔN NGỮ ĐỜI VIÊM VIỆT CỔ
Riêng chữ viết thời ấy là chử Khoa Đẩu, là một loại chử Nòng Nọc ký hiệu là” o—“ ( O, I ) nay còn thấy ở trong các chử cổ và chử hiện Kim từ Á cho tới Au, mà chử Nòng Nọc là liên hệ ruột thịt với chúng ta thuộc về hai họ Nòng Nọc Và Bọc Việt Mặt Trời, cổ ngữ trên mà cha ông chúng ta dùng trên bốn ngàn năm trước đây, còn được xác nhận qua thư tịch cổ như sách Thông Chí của Trịnh Tiều : “ Về đời Đạo Đường, Phương Nam có Họ Việt Thường, dùng thông ngôn hai lần đến chầu dâng Rùa Thần chừng Nghìn Tuổi, vuông hơn ba thước, lưng có nét chử Khoa Đẩu, Chử Nòng Nọc từ khi mở ra Đất Trời trở về sau. Vua Nghiêu sai cận thần sao chép lấy làm Lịch Rùa.” Trong Đạo Đức Kinh Lão Tử có nói đến một Nước nhỏ nằm trong vùng phía Nam sông Dương Tử như sau : “. . . Nước ấy dạy dân học chử Khoa Đẩu, chế biến các thức ăn ngon, mặc những quần áo đẹp, yên nơi mình ở, vui cùng với phong tục . . .” Trích lại “ Tìm lại bản kinh Quy Lich năm Mậu Thân 2353 trước CN.” (Của Hoàng Minh Thông.)
Những chữ viết Nòng Nọc của Dân Tộc Việt Gồm : Hoàng Việt ( người Việt ở dọc hai bờ sông Hoàng Hà ) Việt Câu Tiển, Việt Ngô, Mân Việt, Việt Thường, U Việt, Bộc Việt, Lạc Việt.
Do đó ta thấy có 2 mẩu tự cơ bản của chử Nòng Nọc: do nút thắt dây thừng mà ra : “O” là nút thắt, “ l “ là đọan thẳng cách khoảng của nút thắt.
Nòng Âm tính là: “ O “.
Nọc Dương tính là : “ I .”
Hệ Thống Bát Quái Nho Việt Nòng Nọc:
Việt dịch Nòng Nọc gồm 2 nguyên Âm Dương của tứ hành : Nóng, Lạnh, Đất đá, Nguyên khí (Chúng ta không có Mộc) . Trong cỏi tạo hóa sinh thì nó là Lửa, Nước, Đất và Gió, Văn Hóa Nông Nghiệp theo người Việt Cổ thì chỉ nằm gọn trong Đất Ruộng và Nước, hình ngữ học là Hình Vuông (trên con lưng Rùa Thần) và Hình Tròn (trên lưng Long Mã). Các quẻ dùng trong Bát Quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài đều là xa lạ với ngôn ngữ thông dụng của Trung Hoa. Cho nên theo Richard Wilhelm thì “ Dân Tộc Trung Hoa không phải là xuất xứ của Kinh Dịch nguyên khởi, các tên của các quẻ trong Bát Quái không có trong ngôn ngữ thường dùng của họ. Mà chính xác là của tộc Dân Viêm Việt cổ đại “ :
CÀN = NỌC = CỘC : -Là Trời, là Vua, là Cha, là con Trai.
CÀN=CẦN, CHÀN, CHANG, có nghĩa : Lửa Mặt Trời, Nóng, Nắng, Nọc, phái Nam. Thí dụ :
“-Trời nắng chàn-chang “( trời nắng nóng ) hay “ Tính nết Cộc cằn “ ( Nóng nảy mẩn cảm )
KHÔN= NÒNG = NÔNG : Là Đá + Khí Vũ Trụ, Hoàng Hậu, là Mẹ là con gái. ( Khôn = Đất, Đá rộng bao la, chứa đựng mọi vật trong cỏi tạo sinh, thời mẩu hệ xem người Mẹ là kho tri thức hiểu biết trong cách thức ăn, ở sự hoà nhập sinh hoạt vào thế giới xã hội con người. Khôn là Túi chứa đựng vật chất, hay kho tri thức cuộc sống, thế nên đến nay chúng ta vẩn còn sử dụng từ ngữ thí dụ : “ Túi Khôn Con Người “ hay từ “ Nòng cốt “ ( là cái cơ bản chủ yếu )
KHÔN= HƯ KHÔNG (mang Âm tính), NÒNG, NANG, NƯỜNG, NÙNG, Có nghĩa : Khôn là Không, Khôn là Nòng, là Lạnh, là Nàng, là cô Ả, phái Nữ . là : “Bầu,Túi “chứa đựng sự sinh hoá
LI : Là lửa mặt đất.
LI=LÓ, RÍ, RI , cũng có nghĩa là lửa ( lửa ngầm không phát to lớn nhưng nó mãi có sức nóng ngầm không thay đổi ) “ Nóng râm ri “ ( lửa nóng)
KHẢM : Là Nước mặt đất. ( nước hảm ao,tù ) không phải là nước sông, biển.
KHẢM=KHAU, KHAP, HẢM, KĂN, RẮN, có liên hệ với nước.
CẤN : Là Núi, Nỏng, Gò, Đống, Trụ Cột,
CẤN=NÂNG, CẦN (Nọc), NẤNG,
ĐOÀI : Là Chằm, Đầm chứa Nước .
ĐOÀI=ĐÌA, ĐẦM, ĐOÁI, có nghĩa vùng đất thấp trủng có chứa nước,là cảnh buổi chiều trên Ao, Hồ, Đồng ruộng, không trung còn mặt trời hoàng hôn”
CHẤN : Là Lôi, là Sấm.( theo Hán ngữ )
CHẤN=TRẤNG, CHẤNG, TRỐNG, CHỐN, làm nên tiếng âm thanh chấn động. ( Trống trường thành lung lay bóng nguyệt ).
TỐN = TỐ : - Là Gió, là : “ Dông Tố, Bảo Tố.”
TỐN=TỐ, TÔN, DÔNG, DÓ, Có nghĩa là Gió Lớn, “ Dông Tố “ theo Việt Ngữ cổ.
Như vậy tên của tám Quẻ Bát Quái là những tên của Viêm Việt Cổ, nó rất xa lạ với ngôn ngữ của Trung Hoa Tiếng Phổ Thông dùng hằng ngày.
NÒNG NANG VÔ CỰC.
Lưỡng Nghi : ( Nọc = Nóng. ( ll ) Nòng = lạnh ( 00 )
Nang = Càn. ( lll ) Nàng = Khôn ( 000 )
Tứ Tượng : Tứ Hành của cỏi tạo sinh
Nóng= Lửa. Thái Dương( ll ).
Nòng = Nước. Thái Âm ( 00 )
Nống= Nọc Đá Thiếu Dương ( 0l ).
Nông= khí Thiếu Âm ( l0 )
Bát Quái :
NỌC = CÀN ( lll ) .
NÔNG = KHÔN ( 000 )
LÓ, RI = LI ( l 0 l )
KHAP, KHAU = KHẢM ( 0l0 )
TRẤNG. = CẤN ( 00l )
TỐ = TỐN ( l l 0 )
ĐÌA = ĐOÀI ( 0 l l )
TRẤNG = CHẤN ( l 00 )
BÁT QUÁI NÒNG NỌC CỦA VIỆT NHO
NỌC I I I ( CÀN )
(ĐOÀI )NỔNG 0 I I TỐ I I 0 (TỐN )
LY NỐNG I 0 I 0 I 0 NÔNG( KHẢM )
( CHẤN ) NỘNG I 0 0 0 0 I NẤNG ( CẤN )
NÒNG 0 0 0 ( KHÔN )
Tất cả các quẻ trong Bát Quái lại là cốt tuỷ của Ngôn Ngữ Việt Cổ, các âm ngữ biến Dịch mà thành, sự sinh tạo ngữ âm này cũng bắt nguồn cách phát âm của người Việt cổ trong ngôn ngữ Nòng Nọc mà sinh ra, thí dụ từ ngữ Thần Nông của Hán Ngữ là sao chép âm ngữ của ta là Nòng ( Trứng ) Nang ( Trứng , Bọc ) . Tóm lại nền Văn Hóa Kinh Dịch Nguyên Thủy là của Dân Tộc Viêm Việt ở Sông Hoàng Hà. Thời Phục Hy Nam Xuất Hà Đồ, ( có nghĩa trên sông Hoàng Hà Phía bờ Nam có con Long Mã dâng cho Phục Hy Hình Ngữ Nòng Nọc để vẻ ra Bát Quái hình Tròn ( xuất xứ từ Nước ). Lạc Thư là Văn Hóa ghi chép từ trên lưng con Rùa Thần, bằng chử Khoa Đẩu những chấm tròn đếm từ 1 đến 9 của Dân Tộc Viêm Việt ở sông Lạc ( một chi nhánh phụ lưu của Hoàng Hà ), vì thế Lạc Thư vẻ theo hình thái Đồng ruộng thời Hùng Vương là hình vuông ( Ma Phương phát xuất từ Đất, chia ra 9 ô cộng ngang, dọc, chéo đều có số tổng là 15, liên hệ tới Hùng Vương và 15 Châu, Vào thời này số đếm của dân tộc Việt cũng đã có từ : Một cho đến Chín tức là phép toán “Cửu Tiến”. An Độ và Trung Quốc chỉ có sử dụng phép toán “Thất Tiến” . Như vậy Phục Hy đúng là người của Dân Tộc Viêm Việt, cũng như Chu Dịch, Liên Sơn Dịch, Quy Tàng Dịch đều có Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, còn trong dịch Việt Nòng Nọc chúng ta thì không có Kim, Mộc mà chí có phần Tứ Hành là Lửa, Nước, Gió, Đá Đất.

Trong sách An Nam Chí Lược của Cao Hùng Trưng có chép “ Nguyên đất Nam Man khi chưa có Quân Huyện ( Lúc ấy chưa Bắc thuộc Trung Hoa ) có ruộng Lạc theo nước dâng lên xuống mà khẩn ruộng ấy là Lạc Dân, cai trị Dân ấy là Lạc Vương. Đều có ấn đồng thau xanh. Gọi là nước Văn Lang lấy thuần phác làm tục, thắt nút thừng làm trị,( lúc này chưa có chữ viết ) Truyền được 18 Đời. “ ( Ngô Sĩ Liên Đại Việt Sử Ký Toàn Thư .)
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
<span style=""color: #008000;"">Qua những bài trên, em đã trả lời câu hỏi LS nước Nam có từ khi nào của bác 2say, đồng thời cũng chứng minh rõ chúng ta là một dân tộc riêng, có văn hóa từ ngàn đời (ít nhất là 4000 năm), một nền văn minh riêng biệt với phong tục tập quán khác Trung Hoa. Hôm nay là ngày giỗ tổ, xin nén nhanh thành kính gửi đến các bậc tiền nhân đã có công xây dựng Đại Việt nên hình hài được như bây giờ. Mong rằng, con cháu vua Hùng, luôn đoàn kết một lòng bảo vệ đất nước, quên đi mọi hiềm kích cùng nhau chống lại các âm mưu thủ đoạn của thế lực ngoại bang tránh cảnh, nước mất nhà tan, bị các tộc lớn hơn o ép, đô hộ đàn áp.......</span>
 
Hạng D
5/4/07
1.809
5.165
113
Quỳnh Rùa nói:
couto nói:
@Quỳnh Rùa: vua quang Trung đóng đô ở nghệ an chẳng phải do lưỡng quảng, vốn dĩ lưỡng quảng rộng lớn, nếu Hoàng lịch cho chắc gì nhà vua đã nhận
Vốn đất thuận quảng do vua anh giữ, đất miền nam thì: "cái cây ngọn cỏ ơn chúa", danh sĩ đất bắc thì còn thương nhớ nhà chúa Trịnh
Thử hỏi còn mỗi vùng thanh nghệ vua ko chọn thì chọn dc chỗ khác chăng?
Nhà vua vốn giỏi việc xuất chinh đánh dẹp hơn là trị dân, còn nếu trị nước thì có vẻ ko bằng vua Gia Long

Bác vui lòng tham khảo thêm. Quang Trung là người trí trá, không tin được. Sử sách ghi chép, ông xin cưới con gái Càn Long và xin lại 2 tỉnh lưỡng Quảng vì đây là nơi thủy tộc của dân tộc Viêm Việt(kinh). Càng Long vốn gốc Mãn Thanh, chiếm được Trung Nguyên rộng lớn của nhà Minh, bình định chưa xong, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nếu gia được cho Quang Trung quản lý 2 tỉnh lưỡng Quảng, lại là con rể, mượn tay trị loạn luôn phản tặc đang trú ngụ tại nước Nam, há chẳng phải thuận tiện lắm sao? Nghe đâu càng Long đã đồng ý rồi bác ạh,( Cảm ơn sự giúp sức của Hòa Thân)
Còn về "Phượng Hoàng Trung Đô" là do Nguyễn Thiếp cố vấn, Nghệ An vốn là đất chuyên dùng quân và lấy của Chúa Trịnh(nên có lúc lính Nghệ-Thanh rất hung hăng và vênh váo tại kinh thành gây họa, có thời gian em sẽ post sau ạ), Quang Trung đóng ở đây vừa để quản lý bắc-trung-nam, kể cả lưỡng Quảng sau này, vừa để tránh anh mình như bác nói là đúng ạ.
He he, cho em phản biện tí
Binh sỹ Mãn châu thiện chiến, lấy dc Cửu Châu là nhờ vào sự thông minh xuất sắc của Hoàng Thái Cực và tài năng của nhiếp chính vương Đa nhĩ Cổn
Vốn ban đầu chỉ có Bát kỳ Mãn châu, sau đó thêm bát kỳ Mông cổ và Bát kỳ dân Hán
Các hoàng đế Mãn thanh luôn mở rộng đất đai, đánh cả Đài Loan, thời Ung Chính , Càn Long còn sai cả Niên Canh Nghiêu, Triệu Huệ đánh sang Thanh Hải, Tây Tạng, lấn đất chiếm thành, đàn áp Hồi giáo
Nói vậy có ngĩa là đất sa mạc họ còn muốn lấn chiếm, sẵn sang hy sinh binh mã của mình
Huống hồ đất lưỡng quảng vốn phì nhiêu, sản vật phong phú, giàu có thì làm sqo mà cái thằng Hoàng lịch đó dâng cho Nguyễn Huệ dc ạ
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
couto nói:
Quỳnh Rùa nói:
couto nói:
@Quỳnh Rùa: vua quang Trung đóng đô ở nghệ an chẳng phải do lưỡng quảng, vốn dĩ lưỡng quảng rộng lớn, nếu Hoàng lịch cho chắc gì nhà vua đã nhận
Vốn đất thuận quảng do vua anh giữ, đất miền nam thì: "cái cây ngọn cỏ ơn chúa", danh sĩ đất bắc thì còn thương nhớ nhà chúa Trịnh
Thử hỏi còn mỗi vùng thanh nghệ vua ko chọn thì chọn dc chỗ khác chăng?
Nhà vua vốn giỏi việc xuất chinh đánh dẹp hơn là trị dân, còn nếu trị nước thì có vẻ ko bằng vua Gia Long

Bác vui lòng tham khảo thêm. Quang Trung là người trí trá, không tin được. Sử sách ghi chép, ông xin cưới con gái Càn Long và xin lại 2 tỉnh lưỡng Quảng vì đây là nơi thủy tộc của dân tộc Viêm Việt(kinh). Càng Long vốn gốc Mãn Thanh, chiếm được Trung Nguyên rộng lớn của nhà Minh, bình định chưa xong, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nếu gia được cho Quang Trung quản lý 2 tỉnh lưỡng Quảng, lại là con rể, mượn tay trị loạn luôn phản tặc đang trú ngụ tại nước Nam, há chẳng phải thuận tiện lắm sao? Nghe đâu càng Long đã đồng ý rồi bác ạh,( Cảm ơn sự giúp sức của Hòa Thân)
Còn về "Phượng Hoàng Trung Đô" là do Nguyễn Thiếp cố vấn, Nghệ An vốn là đất chuyên dùng quân và lấy của Chúa Trịnh(nên có lúc lính Nghệ-Thanh rất hung hăng và vênh váo tại kinh thành gây họa, có thời gian em sẽ post sau ạ), Quang Trung đóng ở đây vừa để quản lý bắc-trung-nam, kể cả lưỡng Quảng sau này, vừa để tránh anh mình như bác nói là đúng ạ.
He he, cho em phản biện tí
Binh sỹ Mãn châu thiện chiến, lấy dc Cửu Châu là nhờ vào sự thông minh xuất sắc của Hoàng Thái Cực và tài năng của nhiếp chính vương Đa nhĩ Cổn
Vốn ban đầu chỉ có Bát kỳ Mãn châu, sau đó thêm bát kỳ Mông cổ và Bát kỳ dân Hán
Các hoàng đế Mãn thanh luôn mở rộng đất đai, đánh cả Đài Loan, thời Ung Chính , Càn Long còn sai cả Niên Canh Nghiêu, Triệu Huệ đánh sang Thanh Hải, Tây Tạng, lấn đất chiếm thành, đàn áp Hồi giáo
Nói vậy có ngĩa là đất sa mạc họ còn muốn lấn chiếm, sẵn sang hy sinh binh mã của mình
Huống hồ đất lưỡng quảng vốn phì nhiêu, sản vật phong phú, giàu có thì làm sqo mà cái thằng Hoàng lịch đó dâng cho Nguyễn Huệ dc ạ

bác lập thớt riêng thêm, em xin hầu bác về việc này ạ.
Bác muốn diệt phản loạn ở Hà Tiên, Long Châu Sa, Trấn Biên - Gia Định ở nước Nam- cái đám chuyên gửi tiền về cho cố hương phục quốc nhà Minh ấy thì bác làm cách nào ạ? nhờ ai thì tiện nhất?
Mãn Châu-Nhà Thanh là dân tộc cướp đất của nhà Hán, trong tư tưởng chưa bao giờ dám nghĩ "hoành tráng" là sở hữu một vùng đất đai rộng lớn như vậy nên việc cắt cho Quang Trung lưỡng Quảng chỉ là bình thường. Vùng này trước đây do Ngô Tam Quế canh giữ thời Khang Hy nên vốn dĩ không phải là nơi Mãn Thanh quan tâm. bác phải hiểu việc chiến tranh có 2 trường phái, 1 là chiếm đất cai trị, 2 là cướp tài sản bắt dân quy phục làm phiên bang triều cống, nhà Thanh làm gì có người mà cai trị, chiến tranh chỉ để cướp tài sản và quy phục thôi. Ngoài ra, dân Hán luôn nhớ về nhà Minh, loạn tặc khắp nơi, bình định được cũng là một vấn đề lớn.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.508
113
NHỮNG TỘC NGƯỜI CÓ LIÊN HỆ GẦN VỚI NƯỚC VĂN LANG:
Theo Thuỷ Kinh Chú là một cuốn sách viết khảo sát các con sông trong Đại lục TQ vào thời Bắc Nguỵ của Lịch Đạo Nguyên thì : - Nước Văn Lang là Sài Lang vì dân tộc nơi đây lấy biểu tượng con vật là SÓI, LANG. Nhưng không phải như vậy tên Văn Lang của chúng ta là : “ Người RẠNG SÁNG “ vì âm ngữ của người Việt cổ vần “ N “ và “ L “ như nhau chử “ S “ và “ TH “ . Cũng có thể là một sự kết hợp giửa hai tộc là Tộc Việt Lang và Tộc Bộc Lang ( ở vùng Lưỡng Quảng ) nên gọi chung là Văn Lang tức là “người rạng sáng” cũng như trước kia thời Kinh Dương Vương Lộc Tục đặt tên nước là XÍCH QUỶ có nghĩa là : “ Người Lửa Mặt Trời “. Cho nên Tứ Di mà người từ thời Nhà Chu gọi dân tộc Việt là : Người Lửa Mặt Trời ; Người Nước Mặt Trời ; Người Gió mặt Trời ; Ngưới Đá Mặt Trời . thể hiện trên là bốn chi nòng cốt của Người Việt Cổ, cho đến khi thành lập Quốc Gia Văn Lang thì ý nghĩa cũng không khác đó là : “Người Rạng Sáng” con cháu của Thần Mặt Trời.

Mãi đến đời Thục Phán An Dương Vương thì được ông kết hợp lại Tộc Au và Tộc Lạc định danh tính của 2 tộc này làm tên của Quốc Gia Au Lạc. Vì Au là theo họ Ngoại, còn Lạc là theo họ Cha, ( Thục Phán ở nước Ba Thục ( nước Tê Giác ) nằm trên phía Bắc của Văn Lang, củng là một Chi của ngành Au ) còn Văn Lang là chi ngành Lạc ).

Hiện nay tại vùng Lưởng Quảng của Trung Quốc vẫn còn dân tộc Choang hay người Thổ Lang, cách đây 4,5 thế kỷ vẩn còn được gọi là người Lang cũng là thành phần dân tộc Bách Việt là Bộc Lang và Việt Lang. Địa Danh Lưỡng Quảng chính là Lưỡng Lang ( Việt) ở vào thế kỷ thứ 6 TrCN, trở về trước, nay đã Hán hóa đọc trại âm là Lang = Wouảng , vì trong ngon ngử Hán không có Phụ âm “ R”. Xem thế thì chúng ta biết rằng thời ấy vùng Lưỡng Quảng là địa bàn sinh tụ thời kỳ cổ của dân tộc Việt, nên các thành tố ngôn ngữ “ Lang “ khá trùng hợp vào địa giới quốc gia Văn Lang vào thời cổ đại, ta có thể thấy qua các Địa Danh cổ ngữ có nhiều ở các tỉnh hiện nay ở Trung Quốc Như : Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Hồ Nam, nhất là ở Lưỡng Quảng. Qua việc nghiên cứu thời đại các vua Hùng giúp chúng ta hiểu rỏ thêm nhiều dân tộc ở Đông Nam Á.

Ở Miến Điện có tộc người Môn có Văn Hóa và ngôn ngữ cũng giống như dân tộc thiểu số người Mường , Thái nước ta.

Thời nhà Hạ năm 2020 TrCN, người TQ chia đất nước ra 9 châu lớn trong đó có Châu Kinh tức là Kinh Việt ( Châu Kỳ ) hay còn gọi là Dương Việt ( Thành Châu Dương). Khu Tứ giác bờ Tây Sông Hán chủ vùng đất cũng là một chủng gọi là Việt cạnh đó có một ngọn núi tên là núi Kinh, Tỉnh Hồ Bắc nằm trong khu tứ giác đó cũng là đất của chũng Bách Việt . Đến Thế kỷ thứ 21 Trước CN sự phân hóa hình thành các dân tộc rỏ nét trong giòng Bách Việt còn lại trong các tộc người thờ Điểu Tục gồm Việt Lang, Bộc Lang, Bạch Lang, Dạ Lang, Tchang Lang, Văn Lang tất cả những tộc người này ở từ Lưỡng Quảng Trung Quốc đến Thanh Hoa Bắc Trung bộ Việt Nam.

Khi Quốc Gia Văn Lang Thành Lập lần 2 xem Châu Phong ( Đất Tổ Hùng Vương) là Trung Tâm Văn Hóa của Nhà Nước Văn Lang

Người Trung Quốc xem các dân tộc khác là Man Di họ xếp dân tộc Bách Việt Chúng ta gồm : Tứ Di gồm Đông Di, (Tây)Âu Di, Lạc Di, Giao Di. Tất cả tứ di ở trên đều là có chung nguồn gốc tổ tiên là Đế Minh và Bà Vụ Tiên, ngoài ra còn có dân tộc người AoNaGa ở Tây Nam Trung Quốc, Vương Quốc LaNa( ở ChiangMai Thái Lan) có nghĩa là người Lang Mới là thành phần Dân tộc Bách Việt của chúng ta .( di tích khảo cổ cho thấy có những rìu bằng đồng gọi là Phủ Việt, các tầng văn hóa có vết tích lên hệ văn hoá dân tộc Việt Cổ )

Nhật Bản và Đại hàn có chung dòng máu Đông Di. Nay Tây Phương gọi là Tungus ( Đông Quốc ).

Cờ Nam Hàn có tượng Lưởng Nghi ( hình ảnh trứng Vũ Trụ ) trong cổ sử Đại Hàn Trong Thập Nhị Tứ Sử của TQ ghi : “ Rợ Đông Di Tam Hàn thành lập 3 tiểu quốc 1- Câu Cú Lệ. 2- Bách Tế. 3- Tân La ( Sila 936 S.CN). Đời Tây Chu gọi dân tộc ta là Lạc Di vốn là dân tộc Lạc Việt.

Cờ Nhật Bản có hình ảnh của hình trứng Vũ Trụ Thái Cực và Nhật Bản thì tự nhận họ là con cháu Thái Dương Thần Nữ ( đó là hình ảnh của Thái Dương Thần Nữ Âu Cơ, theo cổ thư của Nhật vị Thần Nữ này là tổ đời thứ 6, cũng giống như chúng ta vì Mẹ Âu Cơ cũng là đời thứ 6 nếu tính từ đời Viêm Đế Thần Nông :

1 ) Viêm Đế Thần Nông + Nữ Thần Nòng Trứng Vô Cực.

2 ) Đế Khôi + ???

3 ) Đế Thừa + ???

4 ) Đế Minh + Vụ Tiên.

5 ) Kinh Dương Vương + Long Nữ.

6 ) Lạc Long Quân + Âu Cơ .

7 ) Hùng Quốc Vương + Hoàng Hậu vợ Hùng Quốc Vương. . .

Như vậy Nhật Bản chính là con cháu âu Cơ Thái Dương Thần Nữ thuộc chi Au Tày.

Người Mả Lai cũng là thuộc chi Giao sống trên Sông Nước thuộc dòng Lạc.

Người Au OA ở ASSAM tộc Naga là thuộc họ Nọc Việt Mặt Trời. Ơ cực Tây tỉnh Vân Nam.Trung Quốc.

TÍN NGƯỠNG NGƯỜI VIỆT CỔ:
Thời cổ đa số dân tộc Viêm Việt có Tín Ngưỡng thờ Thần Trứng vũ trụ, thờ Mặt Trời tức là Vũ Trụ Giáo, vì tất cả những vật có biểu tượng Lửa từ Bầu Trời ( Nọc ), Nước từ Bầu Trời ( Nòng ) hay từ Trứng Vũ Trụ, do đó mới có Điểu Tục xem Chim Hồng Hoàng Bồ Cắt là Linh Vật của Trời, thờ Bọc Trứng là vật Tạo Sinh

Các thị tộc bộ lạc của người Việt cổ biết trao đổi mua bán, dần dần tạo cái thế cho một quyền lực thống nhất tối cao để thống trị các bộ lạc anh em, nên vị đứng đầu quyền lực này được gọi là Hùng Vương là những người có tài trí. Chính quyền Trung Ương tức là nói đến Vua Hùng, là người đứng đầu trong thế Chính Trị và Quân sự của đất nước Văn Lang biết sử dụng Huyền thuật, Y thuật, Học thuật Dịch lý. ngòai ra Vua Hùng còn là một vị Giáo Vương thờ TRỜI một tín ngưỡng thời cổ đại lưu truyền, Vị Vua thay quyền năng TRỜI mà dẫn dắt tinh thần của dân tộc

· -Nền Tôn giáo cổ đại của người Việt là thờ TRỜI, Lưởng nghi : NÒNG ( âm ) và NỌC ( dương ) trong thế giới tạo sinh . Vị sơ nguyên tổ của Người Việt cổ biết vẻ ra Bát Quát Nòng Nọc ( Dịch Việt ) vào Thiên Niên Kỷ thứ tư Tr.CN .

· -Y thuật thời này Người Việt cổ biết nuôi trồng những cây cỏ, sản, vật để làm thuốc chửa bệnh.

· -Các Huyền thuật của các vị Tư tế trong những nơi thờ tự , là nghi thức giao cảm, thông công thế giới vô hình, họ biết cách sử dụng năng lực siêu nhiên để làm nên những sự việc ngòai năng lực con người.

Luật pháp thời này có tính chất tín ngưỡng, những tập tục, những điều cấm kỵ mang hình thức Tôn Giáo, về tinh thần Người Việt cổ ý thức kỷ luật, tính bất khuất chống ngọai xâm được rèn dủa nhạy bén qua những thời kỳ chiến tranh với các tộc người phương Bắc, nó trở thành một đặc tính của dân tộc.

Xã hội thời kỳ đầu xây dựng nước Văn Lang của người Việt cổ, là một tập hợp các dân tộc bộ lạc trong Bách Việt di cư từ lưu vực sông Hoàng Hà, sau đó hình thành một nhà nước phong kiến đơn giản là những thủ lỉnh trong tập đòan chống lại kẻ xâm lược, ngay trong thời kỳ này các Vua Hùng cũng phải lao động cấy cày như dân, nhưng quyền lực Vua Hùng chi phối cả tòan dân, trên thì có Vua dưới có các lảnh chúa cai trị các vùng đất được vua phong ban, việc hình thành các đẳng cấp theo nhu cầu thời bấy giờ, Xã hội người Việt cổ đã trở thành một Nhà Nước sơ khai theo thể chế Dân Chủ quân sự liên minh các dân tộc, nó thích hợp cho quá trình đấu tranh, lao động sản xuất, bảo tồn nòi giống, người Việt đã kinh nghiệm những thất bại từng trải qua trong những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước Việt cổ với các chủng tộc khác, đó cũng là lý do tại sao dân tộc Việt di dân từ Hòang Hà đến phía Nam núi Ngũ Lỉnh rồi sau cùng đến đất Phong Châu nay thuộc Tình Vĩnh Phú.

Khi chiến tranh xảy ra, Người Việt cổ thông báo cho nhau bằng cách đánh trống đồng, người nào có trống đồng tức là người có đầy đủ quyền năng để dân chúng phục tùng mệnh lệnh, các Bộ lạc tổ chức lực lượng vũ trang cùng liên kết với nhau chống giặc ngọai xâm, theo mệnh lệnh của Vua Hùng, Trống Đồng là một phản ảnh văn hóa kỷ thuật cao của dân tộc Việt trong thời bấy giờ, những chi tiết minh họa trên tang trống nói lên sự sinh họat và tín ngưỡng Tôn giáo thờ TRỜI và nền văn hóa Nông Nghiệp .

Những tập tục lể hội tín ngưỡng như : cầu Thủy Thần mang tính chất về Nông Nghiệp, thờ cúng Vật Tổ ( Totem ) các lòai Chim Thiêng Liêng, Phụng Hòang Đất hay con Ròng nước ( Trăn Nước ), tóm lại người Việt cổ có tín ngưỡng tổng hợp thờ cúng các hiện tượng tự nhiên và các Thần Động vật khác có khả năng sát hại con người. Tuy những hình thức thờ TRỜI và cúng bái đa thần, ngòai ra người Việt cổ còn thờ Nhân Thần, một ý thức về nòi giống và tập thể cộng đồng , đã dẫn đến người Việt cổ sùng bái trước hết là Tổ Tiên, những người đứng đầu cộng đồng dân tộc của mình, vị Nhân Thần lớn nhất, tối cao nhất làm chủ các miền đất đai của dân tộc hiển nhiên là : Các Vua Hùng qua các triều đại. Việc sùng kính các Nhân Thần cụ thể này là một tiền bản sắc dân tộc đi đến chổ đồng nhất, họ hệ thống các vị Thần Trừu Tượng tồn tại trong quan niệm tín ngưỡng từ trước như : Thủy Thần, Thần Núi, Thần Lửa, Thần Đất .v.v. . .

Hiện tượng đặc sắc tín ngưỡng thờ những vị Nhân Thần là những người dựng nước đầu tiên là Tổ Tiên của dân tộc, tức là Đức Kinh Dương Vương, Long Mẩu, Lạc Long Quân, Âu Cơ và các Anh hùng dân tộc như : Thánh Tản Viên, Thánh Gióng .v.v. . . Trên một cơ sở cho chúng ta thấy rằng vào thời Hùng Vương việc thờ Ong Bà Tổ Tiên là một nền Đạo mặc nhiên của Dân Tộc. Song song với việc thờ Tổ Tiên thời Hùng Vương còn tôn thờ những Anh Hung Văn hóa, hay có công trong cuộc chiến đấu chống ngọai xâm, dù tín ngưỡng thời Hùng Vương đa dạng pha trộn chằng chéo với nhau chưa có một hệ thống chủ đạo chung, nhưng phong cách của tín ngưỡng thời này nổi bậc nhất là nền tôn giáo thờ cúng TRỜI và Tổ Tiên rất đậm nét bản sắc văn hóa của dân tộc. Điều này đã chứng tỏ suốt một tiến trình lịch sử văn hóa tinh thần của dân tộc Việt cho mãi đến nay.. Trống Đồng cũng là vật biểu của vũ trụ giáo, bằng chứng cho chúng ta thấy là” Quốc Gia Xích Quỷ “ là nói đến Dân Tộc Lửa Mặt Trời hay là Ngưởi Lửa đỏ Mặt Trời, đó là hiện tượng sự sùng bái tự nhiên, ngay chính các Vua Hùng đều là những vị “Giáo Vương đạo Trời”dụng tín ngưỡng để cai trị dân :

_Thờ cúng Trời, Đất.

_Thờ cúng Tổ Tiên và các Đấng Thần Thánh.

_Thờ cúng các hiện tượng tự nhiên.

_Thờ Vật Tổ như : Ròng, Rắn, Chim Hồng, Chim Bổ Cắt, Chim Lạc (?) Thú Như : Hươu Sủa ( Ky Yang).

_Thờ sinh thực khí của giống Nam, Nữ.( Nguồn Âm Dương tạo sinh )

_Biểu tượng cũng như tín ngưỡng của Quốc Gia : Mặt Trời với 14 nọc tia sáng ( trên trống Đồng ) các con chim Hồng Hoàng bay lượn quanh mặt trống. . .

Các tượng thờ này tìm trong các di chỉ khảo cổ. Đào Thịnh, Sông Mã, Văn Điển, Phong Châu làng Đông kỵ Phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Điển hình có những buổi lể hội, “ngày mồng 6 tháng Giêng là lể rước Sinh Thực Khí, họ vừa đi vừa hát. . .”

Việc Vua Hùng là một vị lảnh đạo tín ngưỡng tinh thần, chúng ta thấy qua thư tịch cổ : Đại Việt Sử Lược là loại thư tịch cổ nhất còn truyền lại ngày nay, cũng nói Vua Hùng Đóng đô ở Phong Châu lập nước Văn Lang như sau : “. . . Đến đời Trang Vương Nhà Chu năm 698-682 trước CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ thường, dùng ảo thuật áp phục các Bộ Lạc, tự xưng là Hùng Vương . . . “ Thời thái cổ những người biết được pháp thuật hô phong hoán vũ, đi mây về gió, xuống các cỏi Âm rước các hồn, chỉ có các Thầy Mo, Bà Đồng, Thầy Pháp. Như vậy Vua Hùng Vương phải là người am hiểu pháp thuật, là một vị giáo sĩ của Vũ Trụ Giáo tự xem mình là Thiên tử tức là Con Trời, lại còn là vị thầy thuốc chửa bệnh còn được gọi là Lang, và toàn dân tộc xem như con của Vua Hùng. Hùng Lân Lang là người biết làm pháp thuật và chửa bệnh bằng tín ngưỡng, cho nên Hùng Vương áp đảo được các bộ lạc khác tuân theo tôn xưng làm Vương của họ, thì quả là vị Giáo Vương của Đạo Trời.

Dân tộc Việt chúng ta là một dân tộc hiếu hòa nên thời kỳ Văn Lang phát triển giao lưu văn hóa với các nước ngòai, người Việt cổ tiếp thu nhanh những yếu tố giúp cho việc kỷ thuật sản xuất và kinh tế , về văn hóa thời này thông dụng là truyền khẩu trong Dân gian. Chữ viết người Việt cổ sử dụng chữ viết Nòng Nọc âm dương hay lối thắt gút, gồm những đọan dây to nhỏ có thắc gút màu sắc khác nhau, nó là một văn bản truyền đạt thông tin, văn hóa cho thời ấy, nếu khi dùng vào việc thống kê tính tóan, thì mổi nút thể hiện là một con số hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn .v.v. . . ( cũng giống như “Kipu “ của Đế Quốc INCA ở PêRu thời cổ đại Nam Mỹ).

Một mặt khác chúng ta biết rằng vào thời Hùng Vương những người có tài, trí đều là những người sau này được đứng vào hàng lảnh đạo nhân dân, cho nên những Quang Lang ( sáng lạng ) con Vua Hùng Vương được truyền các học thuật như : VIỆT DỊCH NÒNG NỌC, Y THUẬT, HUYỀN THUẬT của Tôn Giáo MẶT TRỜI. Vì thế Hùng Vương là một người am hiểu VIỆT DỊCH NÒNG NỌC , biết sử dụng Việt Dịch để cải biến hoàn cảnh xuyên qua nhiều chiều không gian nơi cỏi tạo hoá, nên được các Bộ Lạc khác quy phục tôn xưng là người co tài trí pháp thuật. Nên tất cả con của Vua Hùng Vương phải am tường Việt Dịch bằng chứng là Hoàng Tử Tiết Liêu ( Lang Liêu ) làm Bánh Dầy và bánh Chưng dâng lên vua Hùng , sau đó được vua cha truyền ngôi.

Bánh Dầy = Bánh Thầy ( cha ) biểu tượng là NỌC = DƯƠNG.

Bánh Chưng = Bánh U ( Mẹ ) biểu tượng là NÒNG = ÂM.

Ngoài ra Bánh Dầy và Bánh Chưng còn nói lên HÀ ĐỒ Và LẠC THƯ ( ý nghĩa Trời Tròn Đất Vuông ) là một biểu tượng của VIỆT DỊCH NÒNG NỌC.

Tín ngưỡng của người Việt cổ Thờ TRỨNG VŨ TRỤ, THẦN MẶT TRỜI ( là con mắt của Vũ Trụ ), Phần Tứ Hành của cỏi tạo hoá sinh là : LỬA, NƯỚC, GIÓ, ĐẤT ĐÁ. Nên khi các dòng tộc Việt chia ra làm bốn Chi theo Âm Dương tứ hành : Chi Lửa, Chi Nước, Chi Gió, Chi Đất Đá.

Người Việt cổ có quan niệm Vũ Trụ Quan gồm ÂM DƯƠNG = LẠNH NÓNG. Chứ không như Chu Dịch của Trung Hoa là : Trời và Đất . Và như thế trải qua các thời đại Chu Dịch mới hoàn chỉnh như ta thấy hôm nay.

THỨC ĂN VÀ TẾ THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ .
Theo Lỉnh Nam Trích Quái thì người Việt cổ vào thời Nhà Nước Văn Lang “ Lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang ( bột báng ) và cây Tung Lư làm cơm, lấy cầm thú, Ba Ba làm mắm, lấy rể củ gừng làm muối, sản xuất được nhiều gạo nếp lấy ống tre mà nấu nướng trên lửa để dùng( tục này các dân tộc Tây Nguyên hiện nay vẫn còn nấu cơm bằng ống tre Lồ ồ non ). “ ở đây chúng ta chú ý cây Quang Lang ( bột báng ), con Vua Hùng cũng được gọi là Quang Lang, chử quang đây là “ Sáng , lạng “ chứ không phải là quan tước, như vậy bột báng là một loại thức ăn quý, nhu cầu cần thiết, mặc dù chúng ta cũng biết làm ra lúa gạo, là một thức ăn quốc hồn quốc tuý, còn cây tung lư là cây kè bột hiện nay thổ dân tại Nam Dương vẫn còn dùng như một thức ăn chính yếu của họ?

Mãi đến sau này Người Việt cổ biết canh tác các loại khoai củ, đậu , đổ bổ sung cho thức ăn hằng ngày của họ, khi đánh bắt được thú vật hoăc hải sản, lúc đầu họ xẻ thịt muối phơi khô, hoặc làm mắm để ăn dần, sau này mới ăn thức ăn tươi nấu nướng chín.

Tế thực là vật tế như giết thú vật Trâu, Dê, Bò, Lợn, Xôi, oản .v.v. . . Họ lấy máu và thịt đem đốt cháy dâng tế các vị thần linh của Vũ Trụ Giáo .

TRANG PHỤC VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ:
Người Việt cổ búi đầu, đội mủ lông chim, Nam thì vấn Khố, Nữ thì mặc Váy xẽ vạt kết lông chim, Nam Nữ thường ở trần . Người Việt cổ mặc khố dây, khối giải. Còn mặc áo thì phải chui qua đầu như mặc áo Poncho, Nữ mặc váy xoè kết lông chim xẽ vạt trước sau, đầu đội mủ lông chim dài, ở trần cũng là cách trang phục ăn mặc của người Văn Lang. Chính Triệu Đà thế kỷ Thứ 2 trước CN đã mệt thị Dân Tộc ta như sau : “- Cởi trần mà cũng xưng Vương “.

Người Việt Cổ làm nhà sàn hoặc nhà ở trên cây, hoặc xây nhà tròn bằng đất sét bện cỏ khô, có đường ngầm đi vào bên trong ngôi nhà. Trong sách Lâm Ap Ký có ghi “ Phía Nam Chu Ngô có giống người được gọi là Văn Lang, họ không biết xây nhà mà ở trên cây, ăn Cá, ăn thịt sống thú vật, họ buôn bán các chất thơm, các loại ngọc quý, và sơn hào, họ biết “Đao canh thuỷ chủng” loại lúa mọc dưới nước, thường ở gần con sông nhỏ tên là Bộc Văn Lang ( 2 vùng trước kia của hai họ dân tộc ta gọi là Bộc Văn Lang và Việt Văn Lang tức là Lưởng Lang ngày nay trở thành tên gọi là Lưởng Quảng : Quảng Đông và Quảng Tây TQ. Phía trên là địa phận của nước Kinh Sở cũng là một thành phần của bộ tộc Bách Việt của chúng ta địa danh ấy bây giờ cũng có tên là Quảng . . .)

Những cái vốn Văn Hóa Thái Nho mà cha ông chúng làm nên với bãn chất chân thuần chất phác của con người Việt tộc vốn gắng bó với nền nông nghiệp đã hơn năm ngàn năm qua, cái Tinh Thần bất khuất kiên cường của dân tộc không lùi bước trước áp lực của ngoại bang, chúng ta dù bị đô hộ hơn một ngàn năm nhưng không bị đồng hóa, không vong bản, mất gốc, bằng chứng tất cả các nền văn hóa khác du nhập vào đây đã bị Việt Nho Hóa, chúng ta dung hòa mọi hình thái, tư tưởng để xữ dụng làm lợi ích cho dân tộc cho đất nước.

Bàn tay thiêng liêng vô hình của cha ông chúng ta luôn gắng bó cùng vận mệnh đất nước xoay chuyễn cho dân tộc Việt luôn tiến lên theo bước tiến của nhân loại, là một dân tộc có chiều sâu về tâm linh, minh triết luôn ý thức về Dân yộc tính, là đại gia tộc có chung giòng máu Rồng Tiên, luôn giử vững chử Việt như : Viêm Việt, Việt Thường, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Nam Việt, Đại Cồ Việt rồi đến Việt Nam, sự gắng bó này rất đặt sắc chúng ta không quên nguồn cội của Dân tộc, có các tộc chi khác còn nằm sâu lại vùng đất bên Trung Hoa, không màn đến tên Việt, một mặt khác các triều đại Phong kiến Trung Hoa cố xoá bỏ cái tên Việt mà 70% dân tộc Bách Việt còn ở lại vùng đất Việt củ, ngay cả tên Lưỡng Lang : Lang Việt và Lang Bộc cũng được đổi danh tính là Lưỡng Quảng.

Ngày nay chúng ta trở về nguồn cội không có nghĩa là phải hành hương về vùng đất Việt củ, mà là quay về cái cội nguồn Tổ Tiên trong lòng Dân Tộc, xả bỏ những kỳ thị, ngăn che, thù nghịch, cùng nhau phấn đấu vực dậy cái tinh thần đoàn kết đã bị cảnh đời với bao biến cố làm thay đổi trong những thập kỷ qua, xa hơn Nữa để biết chúng ta còn có những anh em thuộc dòng Tộc Viêm Việt ở những địa phương trong Năm Châu Bốn Bể, mặc dù bây giờ đã khác tiếng nói, khác phong tục tập quán, nhưng họ vẫn còn một chút gì ảnh hưởng trong nền Văn Hóa của tổ tiên Viêm Việt, thì chúng ta đã làm trọn sứ mạng Bốn Biển là anh em, tất cả nhìn nhau trong tinh thần Đại Đoàn Kết thế giới xây dựng một thế giới hoà bình an lạc./.
 
Last edited by a moderator:
Bò Hóng
13/12/06
8.361
75.943
113
Hehe!
Làm gì có chuyện Càn Long muốn nhượng phần đất Lưỡng Quảng cho Quang Trung!
Lịch sử ghi nhận là QT theo kế của Ngô Thì Nhậm sai ông cháu là Phạm Công Trị thay mình qua 'thơm chân' Càn Long. Chủ ý dò hỏi ý tứ của bên nớ về việc tiếp quản nhà Lê, xử lý đám lâu la nhà Trịnh, thái độ đối với Gia Long. Nhân cái cớ hỏi chuyện về phần đất Lưỡng Quảng từ thời Vua Hùng ( chắc đọc sáh xưa thấy bảo thế, một phần thăm dò phản ứng ra sao của 1 'hội' phương Bắc tiến về Trung Nguyên song song với Phương Nam cùng chui về 1 chổ. Thừa biết sức mấy Càn Long nó "nhả" hỏi chơi rào trước thôi. :D

Có cái này mà nếu làm được chắc Bây giờ nước mình giàu như Nhật luôn. Quang Trung có ý định cải cách đất nước, mở rộng buôn bán, thông thương theo mô hình của nước Nhật lúc đó, tiếc vì chết trẻ quá. Sau khi chết nội bộ lục đục phe cánh bên ngoài nó trỗi dậy quá nhanh. Quang Toản thì bèo quá. Uổng ghê, chứ không bây giờ không biết là sao,.....
 
1/4/07
21.905
16.707
113
0913168658
bravia nói:
Hehe!
Làm gì có chuyện Càn Long muốn nhượng phần đất Lưỡng Quảng cho Quang Trung!
Lịch sử ghi nhận là QT theo kế của Ngô Thì Nhậm sai ông cháu là Phạm Công Trị thay mình qua 'thơm chân' Càn Long. Chủ ý dò hỏi ý tứ của bên nớ về việc tiếp quản nhà Lê, xử lý đám lâu la nhà Trịnh, thái độ đối với Gia Long. Nhân cái cớ hỏi chuyện về phần đất Lưỡng Quảng từ thời Vua Hùng ( chắc đọc sáh xưa thấy bảo thế, một phần thăm dò phản ứng ra sao của 1 'hội' phương Bắc tiến về Trung Nguyên song song với Phương Nam cùng chui về 1 chổ. Thừa biết sức mấy Càn Long nó "nhả" hỏi chơi rào trước thôi. :D

Có cái này mà nếu làm được chắc Bây giờ nước mình giàu như Nhật luôn. Quang Trung có ý định cải cách đất nước, mở rộng buôn bán, thông thương theo mô hình của nước Nhật lúc đó, tiếc vì chết trẻ quá. Sau khi chết nội bộ lục đục phe cánh bên ngoài nó trỗi dậy quá nhanh. Quang Toản thì bèo quá. Uổng ghê, chứ không bây giờ không biết là sao,.....
Đặc điểm của nhà Tây sơn, chính sử không kể lại là sắt máu.
Thí dụ đi bắt quân làng nào không nạp đủ quân là giết cả làng. Tài giỏi có thừa, nhưng tàn nhẩn quá. Khi thất thế, Nguyễn Ánh tới đâu là dân vỡ theo tới đó.