Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Thoại Ngọc Hầu


Thoại Ngọc Hầu , tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829) là một danh tướng của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 1761 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, tại làng An Hải, Quảng Nam, nay thuộc địa phận thành phố Đà Nẵng, được phong tước Ngọc hầu và mất ngày 6 tháng 6 năm 1829. Ông là người đã chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà... để phát triển nông nghiệp và mở đường từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông có công lớn trong việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam Việt Nam.

Lĩnh ấn bảo hộ Cao Miên

Tháng 5 năm 1812 (Nhâm Thân), hai trong ba hoàng thân Campuchia (Cao Miên) là Nặc Ông Nguyên và Nặc Ông Yêm (Ang Im), là các em trai của vua Cao Miên Nặc Ông Chân (Ang Chan II) (còn một người em khác là Nặc Ông Giun (Ang Duong)), cầu viện Xiêm La về đánh lại Cao Miên. Ang Chan II chạy từ Oudong về Nam Vang. Nguyễn Văn Thoại, đang cùng Lê Văn Duyệt đóng quân ở Nam Vang Cao Miên, đã đưa Ang Chan II về Gia Định tạm trú cho đến tháng 8 khi quân Xiêm rút thì mới đưa trở về. Năm Quí Dậu (1813), nhà Nguyễn cho xây xong thành Nam Vang, Lê Văn Duyệt rút quân về nước, để Nguyễn Văn Thoại ở lại bảo hộ Cao Miên. Năm 1816, nhà Nguyễn cử Chưởng cơ Lưu Phước Tường thay Nguyễn Văn Thoại. Nhưng đến 1818, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thoại lại làm Thống chế sang bảo hộ Chân Lạp (Cao Miên) cho đến năm 1819 mới được điều hẳn về Gia Định. Đây là lần cuối ông sang Nam Vang giữ chức bảo hộ Cao Miên, vì tới sau năm 1919, nhà Nguyễn bãi bỏ chức Bảo hộ ở Nam Vang Cao Miên, tới năm 1834 mới cử quan Bảo hộ Trương Minh Giảng sang trấn giữ Nam Vang. Về nước, ông tiếp tục công việc đào kênh Vĩnh Tế, sau đó giữ chức vụ Khâm sai thống chế trấn giữ ở đồn Châu Đốc kiêm chức Bảo hộ Cao Miên cho đến lúc mất.
UpNhAnH2008052714722mjzmy2e5ot18017.jpeg

UpNhAnH2008052714722mjg5yjjjmd4585.jpeg



Khai phá đồng bằng sông Cửu Long

Từ nguyên quán ở Quảng Nam, do loạn lạc nên gia đình ông di trú vào Nam tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Do công phò tá Gia Long, ông dần được thăng chức đến Trấn thủ Vĩnh Thanh (nay là địa bàn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Kiên Giang). Ở chức vụ này, ông đã có công lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Các công trình lớn của ông để lại cho đời sau là:

Đắp lộ Núi Sam - Châu Đốc, dài 5 cây số trong năm 1826 - 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Đoạn nằm trong nội ô thị xã Châu Đốc hiện nay vẫn còn mang tên Ông.
Đào kênh Thoại Hà dài hơn 30 km ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm 1818, với khoảng 1.500 nhân công. Triều đình đã lấy tên ông để đặt cho tên núi, tên sông.
UpNhAnH2008052714722zjnlmjdhzt2911.jpeg
Đào kênh Vĩnh Tế dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc - Hà Tiên nối lưu thông sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan, dài hơn 90 km, huy động đến 80.000 nhân công thực hiện từ năm 1819 - 1824. Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Vĩnh Tế (?-1826) (hay Châu Vĩnh Tế, Châu Thị Tế), là người đóng góp nhiều công sức trong việc tổ chức khai khẩn và đào kênh. Bà cũng được vua Minh Mạng phong là Nhất phẩm Phu nhân.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế: Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông.
Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này. Ngoài những sắc phong của triều đình nhà Nguyễn và các văn bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế Sơn, còn có bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 nhằm kỷ niệm ngày hoàn thành con lộ Châu Đốc - Núi Sam, ngày nay không còn nữa nhưng văn bia văn còn ghi trong sử sách.

Ngoài bà Vĩnh Tế, ông còn người vợ thứ là Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt (?-1821).

Lăng mộ của Thoại Ngọc hầu và hai vị phu nhân được xây dựng đối diện với điện thờ bà chúa xứ núi Sam. Khu vực này được nhà nước Việt Nam xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia và được xem là một trong những địa điểm du lịch hành hương lớn trong cả nước.


Bia Thoại sơn
UpNhAnH2008052714722m2jhotfmzt18757.jpeg

Bia Thoại Sơn năm 1822 Kênh Đông Xuyên nối từ Long Xuyên đi Rạch Giá có một vị trí rất quan trọng trong việc giao thông, vận tải, phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống kinh tế và văn hóa của nhân dân trong vùng. Kênh đào xong, ông được nhà vua khen ngợi, cho phép lấy tên ông đặt tên cho núi Sập, một núi nhỏ nằm gần bên dòng kênh vừa mới đào, là Thoại Sơn.

Để đánh dấu một công trình trọng đại, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một bài văn khắc vào bia đá. Đầu bia chạm to hai chữ Thoại Sơn, chiều cao 3 m, ngang 1,2 m, bề dày 0,2m, mặt bia chạm đúng 629 chữ Hán. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), ông long trọng làm lễ dựng bia tại miếu thờ Sơn thần ( nay là ngôi đình thờ ông làm Thành Hoàng ) bên triền núi Sập.

Hiện bia được bảo quản tốt trong đình, dù có bị sơn phết màu mè, mất đi phần nào dáng vẻ xưa. Còn ở phía ngoài, người đời sau cho dựng thêm một tấm bia khác, gần đúng kích cở nhưng kém mỹ thuật hơn, khắc bản dịch bia Thoại Sơn bằng tiếng việt.

Bia Thoại Sơn
Trích bia ký:

Mùa thu năm Đinh Sửu (1817), lão thần kính, được vua trao ấn phù giữ trấn Vĩnh Thanh, mùa xuân năm Mậu Dần (1818) vâng chỉ đốc suất đào kênh (kinh) Đông Xuyên.
Từ ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài đến 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành ra một sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi. Mà núi này lại ở gần kênh, cao ước hơn 10 trượng, chu vi 2.478 tầm, sắc biếc dờn dờn, đứng cao sững sững…
Lại vâng theo lời dụ của vua, lấy danh tước Ngọc Thoại của lão thần, vì đã có công coi sóc việc này mà đặt tên là núi Thoại (Thoại Sơn).


Thoại Ngọc Hầu với nỗi oan ức

Sự việc bắt đầu khi Võ Du ở Tào Hình Bộ tố cáo ông đã nhũng nhiễu của dân nhiều khoản. Triều đình nghị án, ông bị truy giáng chức tước xuống hàm ngũ phẩm, con ông tên Nguyễn Văn Tâm bị lột ấm hàm; tất cả điền sản để lại đều bị tịch thu, phát mãi .Về sau, người ta không biết Tâm đi đâu và làm gì, riêng Nguyễn Văn Minh, con dòng thứ, cam phận sống cảnh dân dã, nghèo nàn.

Còn người nghĩa tế (con rể) tên Võ Vĩnh Lộc, cưới con gái nuôi của ông tên (thị) Nghĩa, sau theo Lê Văn Khôi chống lại triều đình. Khi cuộc nổi dậy bị phá tan, vợ chồng Lộc đều bị bắt, bị giết. Nhà vua chỉ dụ cho Bộ Hình điều tra mối quan hệ giữa Lộc và ông …

Thời gian sau mọi việc được phơi bày, phạm tội tố cáo gian, Du bị cách chức, lãnh án lưu đày đi Cam Lộ. Về phần ông cũng không dính liếu gì với con rể trong vụ biến loạn tại thành Phiên An của họ Lê. Nhưng chẳng hiểu sao nhà vua chẳng giải oan cho người có công đã khuất và phục hồi phẩm tước, quyền lợi cho con cháu ông …

Mãi đến ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924), vua Khải Định mới xét và chính thức truy phong TNH thành Thần “Đoan Tức Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần”. Tính đến ngày ấy, nỗi oan mà anh linh Thoại Ngọc Hầu và con cháu ông gánh chịu đã hơn 90 năm …



Theo : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tho%E1%...Dc_H%E1%BA%A7u
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Châu Thị Tế


Châu Thị Tế (1766-1829) hay Châu Thị Vĩnh Tế, vợ chính của danh tướng nhà Nguyễn Nguyễn Văn Thoại.
Bà có tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp của chồng, và bà cũng được nhiều người dân miền Nam (Việt Nam) cảm mến, nhớ ơn.

Tiểu sử

UpNhAnH2008052714722nde4ngyyzd4680_1.jpeg
Mộ Thoại Ngọc Hầu (giữa), mộ Châu Thị Tế (vợ chánh, bên trái ảnh), mộ Trương Thị Miệt (vợ thứ, bên phải ảnh)Châu thị Tế, con ông Châu Huy (có sách chép là Châu Vĩnh Huy)[2] và Đỗ Thị Toán, sinh ngày Mùi tháng 4, năm Bính Tuất (1766)[3] tại cù lao Dài (cù lao Năm Thôn) thuộc xã Qưới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.


Và mặc dầu có lời đồn đãi bà là người Khmer, nhưng trong nhiều sách trong đó có sách của học giả Nguyễn Văn Hầu, là một công trình biên soạn dày công và khá đầy đủ về Thoại Ngọc Hầu (ông Hầu có đi đến cù lao Dài vào ngày 11 tháng 12 năm 1970, nơi vẫn còn dòng tộc bà Châu Thị Tế sinh sống) và ngay cả web chính thức của tỉnh Vĩnh Long cũng không nói đến chi tiết này .

Bà mất vào giờ Ngọ, ngày rằm, tháng Mười năm Bính Tuất (1826). Miếu, mộ vợ chồng bà được gọi là Sơn lăng, hiện ở chân núi Sam, được liệt vào hạng Di tích Lịch sử cấp quốc gia vào ngày 4 tháng 12 năm 1997. Và cùng với Chùa Tây An, Miếu Bà Chúa Xứ, tất cả trở thành trọng điểm du lịch, hành hương của tỉnh và của cả nước.

Sau khi mất bà được phong Nhàn Tĩnh phu nhân.


Hiền phụ

Nguyễn Văn Thoại, tức Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) quê quán ở Diên Phước, Quảng Nam. Thời chúa Nguyễn, ông theo cha mẹ di cư vào Nam sinh sống ở cù lao Dài, Vĩnh Long nên gặp bà Châu Thị Tế ở đây. Ông Thoại cưới bà năm nào không rõ, nhưng chắc hai bên có đính ước. Và khi ông Thoại về đảm nhận chức trấn thủ Vĩnh Thanh, thì việc hôn phối đã trải qua lâu rồi. Bà sống với Nguyễn Văn Thoại, sinh được 2 người con trai, người con cả tên Nguyễn Văn Lâm.

Trong bia “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bia ký” (nghĩa: Bia chép núi Vĩnh Tế do vua đặc biệt ban tên), gọi tắt là bia Vĩnh Tế Sơn có đoạn do chồng bà, tức Thoại Ngọc Hầu, đã dành cho vợ những lời lẽ tốt đẹp như sau:

"...Năm trước đây, thần phụng mạng xem sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kênh núi Sập mà đặt tên núi Thoại (tức Thoại Sơn). Đến nay, hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố đến vợ thần là Châu Thị Tế[4]; Châu Đốc là Vĩnh Tế Sơn rằng có đức dày trong đường lễ giáo, bên trong biết giúp đở chồng, một lòng trung thành bền chặt, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn..."

Bia Vĩnh Tế Sơn

Bia Vĩnh Tế Sơn bị gắn chặt vào bức tường dầy của Sơn Lăng Bia Vĩnh Tế Sơn được tạc bằng đá, cao ngang đầu người, khắc 730 chữ, được dựng vào tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (1828), tức sau khi bà Châu Thị Tế đã mất và kênh Vĩnh Tế[5]đã đào được 4 năm. Trước đây vì đứng trơ trọi giữa trời lâu năm, bia bị ngả đổ và bị lấy đi nơi khác. Hiện nay bia bị gắn chặt vào bức tường dầy của Sơn lăng.

Và khác với bia Thoại Sơn (dựng vào năm 1822) được bảo quản khá tốt, tuy bị người đời sau sơn phết màu mè; bia Vĩnh Tế Sơn vì thời gian, vì mưa nắng nên đã bị rạn nứt và chữ khắc đã không còn đọc được. Toàn văn bia ký giờ đây có được là nhờ Trần Hữu Thường(1844 - 1921) đỗ tú tài thời Tự Đức, người phủ Tân Thành, tỉnh An Giang biên chép và dịch lại.
UpNhAnH2008052714722otq3njdlnm15247_1.jpeg


Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi kí

(Bia chép Núi Vĩnh Tế do vua bặc biệt ban tên.)

Trích:

...Họ Châu tên Tế vợ tôi,
Noi bà Thái Dĩ ỷ ôi khuyên chồng.
Thờ trên siêng gắng một lòng,
Cũng nhờ chút giúp sửa xong nghĩa đời.
Bề trên dùng núi sánh người,
Sửa tên Vĩnh Tế ngàn ngày để vinh.
Người nhớ núi ấy nêu danh,
Tóc trâm móc gội thêm xinh khôn dò.
Núi nhờ người đặt hiệu cho,
Cỏ cây thêm sắc ơn vua thắm nhuần...


(Tú tài Trần Hữu Thường, dịch)

Ngày làm lễ dựng bia rất có thể cùng ngày với việc cải táng tập thể các binh, dân đã tử nạn trong việc đào kênh, và cũng là ngày Thoại Ngọc Hầu đã đứng ra chủ tế lễ cúng trọng thể, tuyên đọc một bài văn tế có tên: Thừa đế lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh, còn được gọi là Tế nghĩa trủng văn cho những vong hồn này[7].

Và căn cứ vào nội dung bia Vĩnh Tế Sơn, vua Minh Mạng chỉ lấy tên bà để đặt tên cho núi Sam là Vĩnh Tế Sơn, còn việc nhà vua cho phép Thoại Ngọc Hầu lấy tên vợ đặt cho tên kênh (hoặc kinh) và tên thôn, có cùng với ngày dựng bia vĩnh Tế sơn hay không, thì chưa tìm được chứng cứ rõ ràng. Chỉ biết vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836), khi triều đình cho lệnh đúc Cửu Đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, vua cho chạm hình Kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh (Bên lạch nước lăn tăn gợn sóng, trên bờ kênh, dưới chân núi, ba chữ Vĩnh Tế Hà khắc theo Hán tự khá sắc sảo)[8] và theo sách Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, mục Sơn xuyên, thì thấy có câu: “...nhà vua sắc cho quan hữu tư địa phương dựng bia (Vĩnh Tế Hà) ở bờ sông.”[9].


theo : http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A...%8B_T%E1%BA%BF
 
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Đến núi Ba Thê (An Giang) để xem di tích cổ và Thạch Đại Đao


--------------------------------------------------------------------------------
Đô thị Ba Thê - Óc Eo được thiết lập từ thế kỷ thứ I và tồn tại cho đến thế kỷ thứ VII khi đồng bằng Nam bộ chịu ảnh hưởng của đỉnh cao hải xâm Đông Hải trong khoảng năm 650 sau Công nguyên. Đã có thời Ba Thê - Óc Eo là đô thị của Vương quốc Phù Nam, nằm bên bờ vịnh Rạch Giá, ăn sâu vào đất liền tận Thoại Sơn.

Qua Đại Nam nhất thống chí, núi Ba Thê có tên là Hoa Thê Sơn. Diện mạo núi có 3 chóp đứng, có nhiều cây cổ thụ xanh mát, mặt trước là lung, đầm lầy. Vào triều Minh Mạng, do húy ky tên Hoàng hậu Hồ Thị Hoa nên Hoa Thê Sơn đổi thành núi Ba Thê.

Tại cánh đồng phía nam phía Ba Thê có một vùng đất lẫn đá gọi là Giồng Cát, Giồng Xoài, vào tháng 2-1944, ông L.Malleret chủ trì đã khai quật tìm thấy một loại di tích kiến trúc gạch đá nền hình vuông không có mái ngói, nhiều hạt cườm, mảnh vàng, đồ trang sức được chế tác tinh xảo. Các vết tích, di vật để lại, Óc Eo được công nhận là di tích văn hóa cổ.

Đô thị Ba Thê - Óc Eo có 2 khu vực chính: Nội thành là nơi ở của vua chúa, quan lại, đạo sĩ, thương gia, nghệ nhân, công chức, binh lính và ngoại thành là nơi ở của công nhân và các cư dân.

Đến núi Ba Thê, du khách sẽ được thưởng ngoạn một thắng cảnh tuyệt đẹp mà tạo hóa đã ban cho. Đứng trên chóp đỉnh núi phóng tầm nhìn bao quát cả khu vực. Quanh núi là những cánh đồng trải rộng, xa xa về hướng tây là vùng biển Rạch Giá, chênh chếch hướng tây nam là dãy Thất Sơn hùng vĩ án ngữ phía chân trời.

Đến núi Ba Thê, du khách còn bắt gặp một tảng đá có hình dáng cây đao khổng lồ dựng trên chót núi, mà tên nghe rất võ hiệp “Thạch Đại Đao”. Tảng đá này có một mặt bén, một mặt bằng tựa sóng đao, dài 320cm, ngang 71cm, nặng cỡ 2 tấn 50, qua truyền thuyết được kể rất hấp dẫn. Vào một đêm mưa to gió lớn, sấm gầm gió giật, nhân dân quanh thị trấn Ba Thê kinh hoàng do những tiếng nổ phát ra khủng khiếp.

Hôm sau, có người làm rẫy ở sườn núi phát hiện vết nứt ở một tảng đá có diện mạo giống cây đao to. Mọi người cho đó là hiện tượng lạ và ùn ùn rủ nhau lên coi. Vào thời điểm đó, đường đi khó khăn, cây cối mọc um tùm, lối đi chật hẹp, dốc cao, người đi coi đông đảo ngoài sức tưởng tượng. Có số người đến tận hiện trường chưa thấy đã tung ra hàng loạt chuyện mang tính thần bí theo tưởng tượng thiếu thực tế. Cụ thể như họ nói “Long Đao xuất hiện, hình cây đao giống đạo Quan Công, thanh đao của người khổng lồ cầm gươm ba thước để xử kẻ hung ác...”.

Mặc dù chính quyền địa phương ra sức ngăn cần mọi người đến coi và tung tin đồn nhảm, vì lý do an ninh trật tự và an toàn xã hội, nhưng vẫn không chặn nổi tính hiếu kỳ của nhân dân. Rồi họ xô tảng đá rơi xuống hẻm núi mà vẫn còn nguyên hiện trạng. Những người bịa chuyện lại có dịp thêu dệt lần nữa, dân mê tín lại kéo đến coi và thì thụp cúng bái. Thấy vậy, cơ quan du lịch xin ý kiến của lãnh đạo huyện Thoại Sơn dùng cần cẩu, đưa tảng đá lên và dựng trên chóp của đỉnh Ba Thê, mặt trên là hình dáng lưỡi đao, cán đao (đế) cắm sâu khoảng 50cm.

Việc cơ quan du lịch văn hóa huyện Thoại Sơn xây chỗ dùng chứa đao nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ, cũng như kết hợp văn hóa tâm linh để cư dân chiêm bái. Không may, sét lại tiếp tục đánh vào một góc mái che đao, người ta lại đồn đãi “Thiên đình giành giựt cây đao với cơ quan du lịch”. Rồi cư dân kéo nhau đến coi lần nữa. Sau cùng, cơ quan du lịch xây lại mái che và gắn cột thu lôi nhầm tránh sét.

Hiện nay, đường lên đỉnh núi Ba Thê đã được trải nhựa bằng phẳng nên du khách lên núi tham quan dễ dàng. Qua đó, các hướng dẫn viên du lịch đã thuyết minh khá hấp dẫn về chuyện Thanh Đại Đao kết hợp với các vết tích như bàn chân Tiên ở sân Tiên Tự, chân Tiên ở chùa Bà gây phấn khởi và thu hút khách tham quan vừa mang tính khoa học vừa mang tính truyền thuyết dân gian rất thú vị.

Huyện Thoại Sơn hiện nay đã thực hiện đổi mới như nhiều nơi khác, định kiến xâm canh và bình quân nhân khẩu được xóa bỏ tạo ra sức mạnh tổng hợp của quần chúng, quyết đi lên từ nhiều mặt ngoài nông nghiệp còn có dịch vụ du lịch với nhiều di tích lịch sử văn hóa, núi non rất hấp dẫn du khách. Cứ với đà phát triển toàn diện, nhiều chủ trương đúng đắn, cách tổ chức thực hiện hiệu quả, hợp lòng dân, Thoại Sơn sẽ nhanh chóng tiến lên, người dân nơi đây không còn lo chuyện xóa đói giảm nghèo, mà câu chuyện hàng ngày sẽ là làm giàu bằng cách nào với đồng lúa mênh mông kéo dài tận Kiên Giang.


theo : http://www.thoaingochau.net/DienDan/...pic,615.0.html
 
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Quản Cơ Trần Văn Thành và cuộc kháng chiến Láng linh - Bảy Thưa


UpNhAnH2008052714722zgmymzq3zj11421.jpeg
Thà thua xuống láng xuống bưng
Còn hơn đầu giặc lổi chưn quân thần


Trần Văn Thành (? -1873)(1) còn được gọi là Trần Vạn Thành (khi được thăng Chánh quản cơ, ông còn được gọi là Quản Cơ Thành hoặc được tín đồ giáo phái Bửu sơn kỳ hương gọi tôn là Đức Cố Quản), là một lãnh tụ phong trào kháng Pháp ở “Bảy Thưa - Láng Linh” vào cuối thế kỷ 19 tại An Giang thuộc Nam Bộ, Việt Nam.

Tiểu sử:

Trần Văn Thành người ấp Bình Phú (Cồn nhỏ), xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Vợ ông tên Nguyễn Thị Thạnh, quê ở rạch Sa Nhiên, Sa Đéc.(2)
Năm 1840, khoảng ngoài 20 tuổi, ông gia nhập quân ngũ giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam.
Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên được làm suất đội, chỉ huy khoảng 50 lính, từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia). Sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng Chánh quản cơ (1945), chỉ huy khoảng 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc, để gìn giữ biên giới phía Tây Nam.
Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục Việt Nam, ông Thành được về nhàn dưỡng tại quê nhà.
Năm 1862, Pháp lấn chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, Trần Văn Thành nhanh chóng hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc của triều đình.
Ngày 22 tháng 6 năm 1867, một đoàn tàu chiến Pháp do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, đến huy hiếp thành Châu Đốc, khiến tổng đốc Phan Khắc Thân phải đầu hàng.
Ngày 30 tháng 8 năm 1967, Phan Thanh Giản tuẫn tiết tại Vĩnh Long, sáu tỉnh Nam Kỳ mất hết vào tay Pháp.
Đứng trước tình thế nguy khổn đó, ông kéo toàn bộ quân lính thuộc quyền mình về Láng Linh - Bảy Thưa, gắp rút xây dựng căn cứ chống lại thực dân.
Cuộc khởi nghĩa kéo dài suốt 6 năm, gây cho đối phương nhiều tổn thất. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến chiêu hàng, nhưng ông cương quyết từ chối, quyết tâm chống lại đối phương cho đến khi mất (ngày 21 tháng 3 năm 1873).

Mật khu Láng Linh - Bảy Thưa:

Thời bấy giờ, Lánh Linh - Bảy Thưa là hai cánh đồng trũng phèn nằm liền kề, rộng bao la, không có kênh, rạch lớn ra vào, suốt năm chỉ gieo gặt một mùa lúa sạ. Phía Bắc giáp vùng biên giới núi Sam, Tây dựa Thất Sơn, Đông cặp sông Hậu giang, Nam giáp núi Ba Thê và Long Xuyên. (xem ành bản đồ)
Ở đó, hằng năm vào những tháng nước lên (còn gọi là “mùa nước nổi” từ khoảng tháng 7 cho đến giữa tháng 10 âm lịch), là một biển nước mênh mông (vì thế có tên gọi Láng Linh). Láng Linh tiếp giáp với một cánh đồng tương tự có tên là Bảy Thưa (vì nơi ấy mọc khá nhiều cây bảy thưa. Giống cây này giờ đây đã dần mất bóng, ngay tại dinh Sơn Trung chỉ còn 3 bụi cây non nhỏ nhoi).
Cả hai cánh đồng vào mùa khô, nước không cạn hẳn mà biến thành những ao đìa, mương rạch, những đầm lầy vô số đĩa vắt và cùng lau sậy, cỏ dại thi nhau chen chúc, trùm lấp...Tất cả tạo nên những địa thế thật hiểm trở.
Nhà Văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và mật khu này như sau:
“Trần Văn Thành từng tam gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...''
Ở những đoạn khác:
-''Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ông rút lui về Láng Linh để xây dựng mật khu. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình... Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh miền Tiền Giang. Và Khi căn cứ phát triển, hương chức hội tề địa phương cũng ngầm giúp nghĩa quân.''
-''Do thám báo cáo: “đã có chiến hào và đồn lũy nhỏ nhằm án ngữ một đồn lớn, phòng tuyến là những bao gạo, bao muối chồng chất kè cây to, thêm lò đúc súng đạn với gang, sắt từ bên ngoài đưa vào”.
- ''Ông phong chức cai đội cho nghĩa quân. Mật khu này xưng danh hiệu là “ Thiên sơn Trung tự”, kiểu chùa chiền; quân đội thì lấy tên Gia Nghị cơ hoặc Giang Nghị cơ, khiến ta liên tưởng đến những đồn điền tổ chức thời Nguyễn Tri Phương, vùng biên giới. Còn gọi là dinh Sơn Trung hay Sơn Trung doanh.''
Nhà sử học Phạm Văn Sơn cho biết thêm:
“ Số quân của ông Thành theo tờ trình của Pháp vào năm 1870 có khoảng 1200 quân (Sau khi càn quét “Hưng Trung doanh”, chủ tỉnh Long Xuyên Emile Puech ước lượng số nghĩa quân chỉ chừng 400 đến 500 người), đa số là tín đồ theo giáo phái ''Bửu Sơn kỳ hương''. Xin nhắc rằng Đức ''Phật thầy Tây An'' (Đoàn Minh Huyên) lập ra đạo phái này và họ Trần là một cao đệ... Đức Phật thầy mất đi thì họ Trần kế tiếp việc hương khói, họ Trần ra kháng chiến, tất nhiên phải sử dụng đến lực lượng này”(Việt sử tân biên'', Sài Gòn, 1962, tr.211)

Trận đồn Sơn Trung:

Pháp chuẩn bị lực lượng:

Năm 1868, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực bị dẹp tan, ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng.
Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào mật khu, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Nhà văn Sơn Nam kể:
“Tháng 2 năm 1872, Pháp bắt được một nghĩa quân đi mộ lính ở Long Xuyên. Và nhờ cai tổng Mun theo sát những người đặt lọp, giăng câu phía ngọn Mặc Cần Dưng (nay là Bình Hòa, Châu Thành, An Giang), nên đến gần mật khu. Hắn hoảng hốt khi thấy nghĩa quân tích cực củng cố công sự, lò đúc súng đang hoạt động ngày đêm...''
''Chủ tỉnh Long Xuyên tên Emile Puech xin chi viện thêm 40 lính Mã tà (Người Mã Lai (Malais) gọi người lính cảnh sát là ''matamata''. Do đó đẻ ra danh từ "mã tà" (Vương Hồng Sển, ''Sàigòn năm xưa'', NXB Xuân Thu, 1968, tr. 229)) từ Cần Thơ để tăng cường cho 60 Mã tà dưới tay hắn, đồng thời thông báo chủ tỉnh Châu Đốc, tùy khả năng mà hiệp đồng. Phó quản Hiếm trước kia từng ở hàng ngũ của Trần Văn Thành rồi đầu hàng, được cầm đầu toán lính nhỏ. Cánh quân mạnh nhất do phủ Trần Bá Tường (em ruột Trần Bá Lộc) chỉ huy...Viên chủ tỉnh Emile Puech là chỉ huy trưởng, đại úy Guyon làm trợ lý.( Sơn Nam, Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp An Giang, 1988, tr.68-71)

Trận chiến đấu cuối cùng:

Ngày 19 tháng 3 năm 1873, tàu chiến Pháp đậu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng, rồi cho quân lính dùng xuồng nhỏ, tuyệt đối im lặng, tiến vào ngọn rạch.
Một hai ngày sau, biết được đối phương sắp tấn công, tiếng trống, tiếng kẻng của nghĩa quân bắt đầu khua và liên tục vang rền...
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Tuy biết đang bị bao vây tứ phía và người Pháp có võ khí hữu hiệu, nhưng nghĩa quân và Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh, cương quyết đối phó. Đứng sau phòng tuyến thách thức bọn Pháp. Ông dùng loa chửi rủa thậm tệ, rồi day về phía nghĩa quân để động viên tinh thần.''
''Đến phút quyết liệt, ông mặc áo màu đỏ sậm (màu tấm trần điều mà giáo phái đang thờ phượng)và cắt từng lọn tóc của mình phân phát cho nghĩa quân (một kiểu giống như phù phép, cốt để thuộc hạ lên tinh thần).”(theo sách đã dẫn)
Phạm Văn Sơn ghi chuyện:
''Đầu tháng hai 1973, Pháp xua quân vào phá đồn Hờ ở Cái Dầu, uy hiếp đường giồng Nghệ rồi kéo dần vào rừng. Họ nả đại bác lên phía trước và bắt dân chúng dọn đường sau. Quân Bảy Thưa tuy tinh thần rất cao, nhưng chống giữ không nổi. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Pháp không dám tiến mau vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 20 tháng 2, quân Pháp từ Châu Đốc đánh vào đồn Cái Môn, súng quân Việt bắn không được xa, phát nổ phát không nên chẳng bao lâu Pháp quân tràn vào được.''
''Cùng ngày ấy từ phía Vĩnh Thanh, cờ Pháp tiến vào đuổi quân Việt tới ngọn rạch Hang Tra là nơi Trần Văn Thành chỉ huy chiến cuộc. Con thứ tư của ông Thành là Trần Văn Chái làm tiên phong, đề đốc Văn tức đội Văn giữ hậu tập. Đến gần tối thì Chái bị thương ở đùi.( Sau khi bị thương, Trần Văn Chái bị bắt và sau đó tuẫn tiết trong nhà ngục Châu Đốc, bỏ lại người yêu vừa mới hứa hôn, năm ấy Chái mới 18 tuổi), Văn tử trận…
Xong trận, Pháp thu hết các súng nặng, nhẹ; hủy hết cả lò đúc đạn dược, rồi nổi lửa đốt hết doanh trại của nghĩa quân 3 ngày mới tăt…”(Việt sử tân biên, sách đã dẫn)
Sau trận đánh, chủ tỉnh Emile Puech nhận xét:
“Cai tổng Lý Mun và Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng trong trận này, quả là mất tinh thần. Họ gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín Trần Văn Thành khá lớn”(Sơn Nam, sách đã dẫn)

Hy sinh:

Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế cho biết:
''Sau khi “Bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông Thành rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873''(Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', NXB KHXH, Hà Nội, 1992.)
G.S Trịnh Vân Thanh ghi:
“Sau ngày bản doanh bị chiếm, không ai biết Trần Văn Thành đã đi đâu...”( Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, Sài Gòn, 1966)
Có người phỏng đoán:

''Ngày 20 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 âm lịch), quân Pháp tấn công vào đồn Hưng Trung là tổng hành dinh của nghĩa quân do Trần Văn Thành chỉ huy. Ông và các nghĩa quân của mình đã xả thân chiến đấu, nhưng chỉ cầm cự được đến tối thì thất thủ. Giặc Pháp không tìm được thi thể ông, nhưng có lẽ ông đã hi sinh trong trận chiến này. ''

Nhà văn Sơn Nam không nói Trần Văn Thành chết lúc nào, lý do gì; ông chỉ cho biết:
Pháp “ đem xác Trần Văn Thành chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú, Châu Đốc), thêm xác của đội Văn (Pháp ghi là Vang) để nhằm ngăn chận những tin đồn thất thiệt cho rằng ông còn sống, đi lánh mặt và tiếp tục kháng chiến.

Nhận xét về con người Trần Văn Thành, đối phương viết:
“Vóc to lớn, mạnh khỏ, gương mặt nghiêm nghị, nhìn thấy là phải kính trọng và ngưỡng mộ, Ông hăng hoạt động, rất thông minh. Ông lập ra một đạo gọi là đạo Lành. Trong hầu hết các tỉnh ở đất Gia Định đều có tín đồ. Tín đồ từ các nơi vì tôn kính ông nên tới mật khu, mang theo nào lúa gạo, sắt (để rèn khí giới)...”

Đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu “ống lói”.''
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân.''
-Trần Văn Thành thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra “ bất chiến tự nhiên thành”. Thái độ của ông và nghĩa quân là “chiến đấu không thỏa hiệp”.(Sơn Nam , sách đã dẫn).
Di tích chính:

Bửu Hương tự::

Bửu Hương tự tức chùa Láng Linh, hay gọi tắt là chùa Láng, thuộc xã Thạch Mỹ Tây, huyện Châu Phú, nằm giữa đồng lúa Láng linh, bên bờ kênh xáng Vịnh Tre (kênh Tri Tôn), cách thành phố Long Xuyên khoảng 50 km.
Đền thờ do ông Trần Văn Nhu, con trai trưởng của ông Trần Văn Thành đứng ra xây dựng vào năm 1897 để tưởng nhớ cha và các nghĩa quân khác.
Bia tưởng niệm tại Bửu Hưng tự ghi:
“Vào ngày 21-22 tháng 2 âm lịch năm 1913, trong lúc tín đồ cùng nhân dân đang làm lễ tưởng niệm lãnh tụ thì quân Pháp đến bắt giam 83 người. Sau khi kêu án, 76 người bị 2 năm tù giam ở Châu Đốc, 7 người bị 3 năm tù giam ngoài Côn Đảo.”

Hàng năm, vào các ngày 20, 21, 22, tháng 2 âm lịch (kỷ niệm ngày ông Trần Văn Thành hy sinh) và ngày 5 tháng 5 âm lịch (ngày bà Trần Văn Thành mất) là nhân dân tụ hội về đây rất đông để tưởng nhớ và ôn lại một thời chiến đấu oanh liệt và gian khổ của thuở nào.
Bửu Hương tự được xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa vào ngày 6 tháng 12 năm 1989

Dinh Sơn Trung:

Từ Lộ tẻ Bình Hòa đi Tri Tôn, qua cầu sắt "chợ Cầu số 5", rẽ phải đi khoảng 4 cây số lộ đất nữa sẽ đến ''dinh Sơn Trung''.
Dinh thuộc xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Theo lời kể của Ban Quản lý di tích thì trước năm 2003, nơi đây có một ngôi chùa xây dựng sơ sài bằng cây lá (nên được gọi là Chùa Lá) trên một nền đất rất ẩm thấp, ngay địa điểmđặt bản doanh Sơn Trung khi xưa. Sau đó, người dân vì tôn kính, tưởng nhớ ông nên đã tự nguyện quyên góp tiền của, công sức tạo dựng mới một nơi lễ bái rộng lớn, khang trang và đẹp đẽ như ngày nay (hoàn thành năm 2007)


Nho sĩ Cao Văn Cảo có thơ tưởng niệm
Vô danh dịch:
Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
Những đứa phản thần qua đến cửa,
Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn.
Ngoài những dinh và đền thờ ở nhiều nơi, tên ông còn được đặt cho trường học, đường phố trong tỉnh An Giang.



Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
http://www.thoaingochau.net/DienDan/...ic,8795.0.html
 
Last edited by a moderator:
Hạng C
22/2/08
775
1
18
TP. Cần Thơ
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

bác B2 công phu thật...hôm trước lên An Giang mà ko đi hết được hưng điểm này..tiếc ghê
Thanks bác B2 nhé
Tiếp đi bác ơi
 
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

ĐÌNH THỚI SƠN - ÔNG ĐÌNH TÂY &TRUYỀN THUYẾT VỀ ÔNG NĂM CHÈO ....


Đình Thới Sơn cách chợ ngả 3 Nhà bàng khoản 1000m về hướng tri tôn - trước đây là 1 ngôi Chùa do Cụ Tăng Chủ và Cụ Đình Tây ( 2 đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) dựng lên ở để Tu, sau khi 2 cụ viên tịch, người ta đổi lại thành Đình , tuy vậy ngày nay trong Đình vẩn còn có một nghi thờ Phật.
Đình rất là rộng rải nhưng trang trí giản dị, đơn sơ. bên cạnh Đình là nơi gởi xương của 2 cụ Tăng Chủ và Đình Tây .

Theo lời truyền ngôn, khi Thầy Tây An còn tại thế, ông Đình Tây là người hầu hạ bên Thầy. Một hôm Phật Thầy vì lòng hiếu sinh, đã sai ông Đình Tây xuống Láng Linh để đở đẻ cho một người sản phụ trong khi người ấy chỉ ở một mình trong căn chòi giửa đồng. Khi công việc vừa xong, thì chồng của người sản phụ cũng vừa về tới. Anh tên là Xinh, sống bằng nghề săn rùa bắt rắn. Được biết ông Đình Tây giúp đở cho gia đình mình như vậy thì lạy mà tạ ơn. đồng thời Xinh biếu ông Đình một con sấu con mà anh ta vừa bắt được trong đêm. Ông Đình thấy con sấu dị thường, có năm chân, toàn thân một màu đỏ với những lốm đốm bông hoa, nên chấp nhận và quyết định trả tiền cho Xinh để đem về nuôi chơi.
Phật Thầy xem qua con sấu, bảo là quái vật, phải trừ đi kẻo sau này nó gây họa lớn. Nhưng Ông Đình thương con sấu quá, không đành giết đi, ông nghĩ cách giấu Thầy để đem về trại ruộng Xuân Sơn (Đình Thới Sơn) nuôi chơi.
Sấu có một sức lớn phi thường, chỉ trong ba năm mà nó có thể quật ngã được người. Và sau một đêm dông mưa lớn, con sấu năm chân bức gẩy xích sắt mà đi.
Ông Đình nhớ lời Thầy năm trước, sợ hải về trách nhiệm của mình, không rỏ rồi mai đây con sấu xuất hiện ở đâu và có gây tai họa gì cho con người hay không, nên đến chịu tội với Phật Thầy Tây An. Phật Thầy tỏ ý buồn bã và sau đó trao cho Ông Đình 1 cây Mun, 1 lưỡi câu và 2 cây lao, 1 sợi dây ngủ sắc , và dặn ông Đình cất giử và giử gìn để trừ quái vật một khi nó xuất hiện .
Thời gian trôi qua, Phật thầy viên tịch, sự việc vẫn chưa có gì và ông Đình Tây vẫn âm thầm lo sợ. Thì bổng một mùa lụt; sấu trườn lên tại Láng Linh, bấy giờ nó lớn quá, rượt bắt thiên hạ làm náo động cả vùng. Người ta đến báo với ông Đình Tây. Ông mang bửu bối đến, nhưng sấu làm như nghe hơi được Ông Đình, nên đã biến mất dạng . từ đó như cút bắt vậy, hể Ông Đình vắng thì sấu hiện ra phá phách, mà khi ông tới thì nó mất dạng. biết vậy, nên mổi khi sấu làm sóng dậy miền Láng Linh thì người ta đồng thanh la lên " Bới Ông Đình, Ông năm chèo dậy". mà lạ lùng thay mỗi khi nghe câu đó thì sấu chạy ngay đuôi , không dám phá phách.
Đã nhiều phen lui tới vùng láng Linh để chực bắt Quái Vật mà không lầ nào gặp nó, ông Đình lần sau chót, kêu nói giửa hư không rằng:
- Nếu Sấu Thần chưa tới số, thì từ nay nên yên lặng, đừng nổi lên phá hoại xóm làng. còn như mạng căn đã hết thì hãy sớm chịu oai trời, đừng để phiền ta !
Sau ngày ấy, sấu đâu mất, có truyền thuyết nói rằng : khi tây bố Binh Gia nghị của Đức Cố Quản Trần Văn Thành ( 1 trong thập nhị đệ tử của Phật Thầy tây An), nghĩa quân rút lui nhưng gì lúa dầy quá thuyền chống không đi thì Ông năm Chèo xuất hiện làm lúa rạp một đường cho thuyền theo đó mà chống, thoát khỏi cuộc bố ráp của lính Tây.
Từ đó truyềt thuyết về ông năm chèo được lưu truyền đến ngày nay - và xung quanh nó là những câu chuyện về thiên cơ bất khả lậu cũng được thêu dệt.
 
Last edited by a moderator:
Tập Lái
23/5/08
17
0
0
vietinbank.vn
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Vùng Bảy núi cũng có nhiều con bò trắng nhĩ, em cú tưởng chỉ có Campuchia mới có cơ chứ
 
Hạng B2
21/6/05
293
7
18
57
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

trời, bác B2 sao uyên thâm quá vậy ta????? khâm phục bác quá ...
có dịp về MT nhất định em alo bác đưa vi vu
 
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Huỳnh Phú Sổ - Đạo PHẬT GIÁO HÒA HẢO

UpNhAnH2008062017125ymrlm2fizt16385.jpeg


Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Tín đồ Đạo Hòa Hảo tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, trong thư viện của hơn 30 quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ những tài liệu sách báo về đạo Hòa Hảo.

Lịch sử

Ra đời

Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ sáng lập. Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ, một con người điềm đạm trầm tính, ít nói, thường xa lánh chốn đông người ồn ã. Ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt tại một trường ở huyện, có năng khiếu thơ, văn và thông minh, nhạy cảm. Nhưng do sức khỏe luôn đau ốm nên ông không tiếp tục học lên bậc cao hơn. Ông phải lên núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và tại đây ông đã tu theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật thầy Đoàn Minh Huyên (1807-1856) làm giáo chủ.

Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho nhân dân bằng các bài thuốc đã học và chính những lúc đi chữa bệnh đó ông đã kết hợp rao giảng về Tứ ân hiếu nghĩa của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên qua những bài sấm kệ do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4/7/1939) được ông chọn làm ngày khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Ông đã được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ Hòa Hảo.

Huỳnh Phú Sổ tự xưng là Phật thầy mượn thân xác mình để cứu độ chúng sinh. Ông làm nhiều bài ca dao, thơ ca, nói thiên cơ, sau được tập hợp lại thành bài giảng "Giác mê tâm kệ" có phần gần gũi tư tưởng thần bí, tín ngưỡng dân gian nên trong hoàn cảnh đời sống nhân dân Nam Bộ đầu những năm 40 thế kỷ 20 dễ đi vào lòng người, được quần chúng tin theo. Muốn trở thành tín đồ Hòa Hảo phải tuyên thệ: "Một đời, một đạo đến ngày chung thân".


Thời kỳ Nhật xâm chiếm

Sang năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục gia tăng số lượng tín đồ của mình một cách nhanh chóng. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo phái Hòa Hảo nên đã câu thúc Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ. Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào đạo Hòa Hảo để gây thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo đạo Hòa Hảo cũng tham gia các tổ chức của Nhật.

Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành lập tổ chức "Việt Nam dân chủ xã hội đảng" gọi tắt là "Đảng Dân xã" bao gồm lực lượng nòng cốt trong Hòa Hảo và tổ chức Việt Nam quốc gia độc lập đảng. Đảng Dân xã có điều lệ và chương trình hành động, cơ cấu tổ chức riêng, có vai trò như một tổ chức chính trị. Từ đó Hòa Hảo vừa có đạo vừa có đảng và nó mang hình thức một tổ chức chính trị. Sau khi lập đảng chính trị, Hòa Hảo còn lập lực lượng vũ trang mang tên "Bộ đội Nguyễn Trung Trực".

1947-1972

Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ mất tích, lực lượng phản động tìm cách chia rẽ những phần tử quá khích trong đạo Hòa Hảo chống lại Việt Minh, gây ra những vụ thảm sát đẫm máu. Nội bộ Hòa Hảo có sự chia rẽ thành các nhóm khác nhau, cát cứ ở các vùng thuộc Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.

Năm 1964 đạo Hòa Hảo có sự củng cố lại về tổ chức, xây dựng mở mang các cơ sở tôn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban trị sự được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở (hình thành cơ cấu tổ chức 4 cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã). Đảng Dân xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo, đồng thời cơ quan lãnh đạo Hòa Hảo có sự phân đôi thành 2 ban trị sự trung ương: phái cũ do Lương Trọng Tường, phái mới do Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu.


1972-nay

Năm 1972 Lê Quang Liêm tách ra khỏi phái cũ của Lương Trọng Tường thành lập ban trị sự trung ương mới. Lúc này đạo Hòa Hảo có tới 3 ban trị sự trung ương cùng tồn tại cho đến ngày miền Nam giải phóng. Sau đó, Hòa Hảo thành lập thêm Tổng đoàn bảo an, lập Viện đại học Hòa Hảo.

Đến nay, Hòa Hảo vẫn phát triển chú yếu trong vùng tứ giác Long Xuyên. .


Giáo lý Hòa Hảo

Sấm giảng đạo Phật giáo Hòa Hảo.Giáo lý Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sấm kệ do Huỳnh Phú Sổ biên soạn, bao gồm 6 tập:

UpNhAnH2008062017125mji3y2jjmd19324.jpeg


Sấm khuyên người đi tu niệm
Kệ của người Khùng
Sấm giảng
Giác mê tâm kệ
Khuyến thiện
Những điều sơ học cần thiết của kẻ tu hiền



Có thể nhận thấy giáo lý Hòa Hảo là sự tiếp thu và nâng cao tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương của Đoàn Minh Huyên, gồm phần "Học Phật" và phần "Tu nhân":

Phần "Học Phật": chủ yếu dựa vào giáo lý đạo Phật song được giản lược nhiều và có thêm bớt đôi chút. Tinh thần chính là khuyên tín đồ ăn ngay ở hiền.
Phần "Tu nhân": theo giáo lý Hòa Hảo tu nhân có nghĩa là tu "tứ ân hiếu nghĩa"- đó là 4 điều Đoàn Minh Huyên, đã chỉ ra, bao gồm Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào nhân loại, Ân tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).
Đạo Hòa Hảo khuyên tín đồ vừa học Phật vừa tu nhân để tạo nên công đức. Có công đức để trở thành bậc hiền nhân. Song, họ đặc biệt yêu cầu tín đạo phải tu nhân, cho rằng việc tu hành phải dựa trên đạo đức, trước hết đạo làm người: Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên (Không có tu nhân thì không thể học Phật, hoặc học Phật mà chẳng tu nhân thì cũng vô nghĩa); Dụng tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo; Nhân đạo bất tu, Tiên tu viễn ký (Muốn tu thành Tiên Phật trước hết phải tu đạo làm người, đạo người mà không tu thì Tiên Phật còn xa vời).


Nghi lễ và tổ chức

Đạo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia hơn là đi lễ chùa. Họ chủ trương giúp đỡ người nghèo hơn là cúng tiền xây chùa hay tổ chức lễ hội tốn kém. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Họ cho đó là những sự phung phí thay vì dùng tiền đó dể giúp đỡ những người thực sự cần đến.

Đạo Hòa Hảo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của đạo ở làng Hòa Hảo gọi là tổ đình cũng chỉ mang tính gia tộc. Đạo này không xây dựng chùa chiền, không có tượng ảnh thờ. Vật thờ của đạo Hòa Hảo là miếng vải đỏ (trần điều) trên bàn thờ (còn gọi là trang thờ) đặt ở gian chính giữa và xây một bàn thông thiên ở sân trước của nhà. Việc thờ phụng này thể hiện tư tưởng của Phật giáo: "Phật tại tâm, tâm tức Phật". Đạo Hòa Hảo thờ Phật, ông bà tổ tiên và các anh hùng tiên liệt có công với đất nước, không thờ các thần thánh nếu không rõ nguyên nhân.

Lễ vật khi thờ phúng cũng rất đơn giản chỉ có hương hoa và nước lạnh (nước mưa, nước lọc tinh khiết). Ban đêm đốt đèn ở bàn thờ trong nhà và bàn thờ thông thiên. Khi thờ tín đồ chỉ đọc sấm giảng do thầy Huỳnh Phú Sổ soạn, không phải đọc kinh Phật và niệm lục tự Nam-mô-a-di-đà-Phật với mục đích tĩnh tâm.

Ngoài ra đạo Hòa Hảo còn có một số quy định về tôn giáo và quan hệ gia đình, xã hội. Ví dụ người nhập môn phải tuyên thệ trước Tam Bảo, nam tín đồ phải để vấn tóc (búi) để giữ hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên, tín đồ phải thực hiện ăn chay từ thấp đến cao (6 đến 10 ngày trong 1 tháng hoặc trường chay như đạo Cao Đài, những ngày ăn chay mặn phải kiêng ăn thịt 12 con giáp, ngày tín đồ phải 2 lần cầu nguyện và khấn lạy trước bàn thờ (sáng, tối). Lời khấn nguyện khi cúng lễ của tín đồ Hòa Hảo là câu Nam mô nhất nguyện, Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng, thế giới bình an.
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
3/7/04
2.051
827
113
Cù Lao Ông Chưởng
RE: Một Thoáng Miền Tây - Vào Mùa

Đuông hấp xôi - Đặc sản “đệ nhất Nam bộ”​




Món ăn đặc sản quý hiếm ở Nam bộ mà ngày xưa được tiến về triều cho vua ngự lãm hàng năm gọi là con đuông. Có nhiều loại như: đuông dừa, đuông đủng đỉnh, đuông chà là và đuông măng.

Đuông mẹ có cánh, mỏ nhọn, hai cánh cứng như thép, có thể khoét thủng cả gỗ để vào đẻ trứng. Trứng đẻ thành ấu trùng, béo múp míp, trở thành thứ đặc sản “đệ nhất Nam bộ”.

Sau mùa giao hoan, đuông tìm một cây dừa đang sung sức, khoét ngọn vào đẻ trứng. Trứng nở thành ấu trùng. Mẹ con nhà đuông bắt đầu chiến dịch công phá, chén củ hũ dừa thỏa thuê. Mỗi cây dừa có hàng trăm con đuông rúc rỉa “tủy sống” của cây dừa. Đến khi cây dừa không còn sức sống đến chết thì người ta buộc phải đốn dừa bắt đuông. Bửa củ hũ ra, hàng trăm con ngọ nguậy, lăn tròn, đứng không nổi. Con nào đã mọc cánh thì không bắt. Ở cây đủng đỉnh cũng vậy.Ấu trùng đuông có thể sánh với “sơn dương trùng” mà Tây Thái hậu thường đem đãi sứ thần. Mỗi loại đuông có mỗi cách ăn riêng. Đuông dừa ngon nhất là nướng lửa than. Đuông nướng phải ăn kèm với cải trời, bù ngót, cải đất, càng cua, tai tượng, tía tô, quế và ớt trái hiểm còn xanh. Còn đuông đủng đỉnh thường nấu cháo nước cốt dừa. Trước khi nấu cho đuông vào tô nước muối tương đối mặn ngâm khoảng nửa giờ để đuông nhả chất dơ ra. Tuyệt cú mèo nhất là con đuông chà là. Đuông về đến nhà còn nằm trong bắp cây, chẻ sao cho khéo để đuông không bị dập xì chất bổ dưỡng ra ngoài. Sau đó cho ngay đuông vào tô nước mắm ngon để nhả chất dơ ra và tự ướp mình! Ngày xưa dân quý tộc thường lấy đuông chà là lăn bột chiên, còn thời Pháp thuộc, “quý bà” trưởng giả học làm sang thường đem chiên bơ. Đuông ăn kiểu đó chỉ sang chứ không ngon. Độc đáo nhất là món đuông hấp xôi. Sáng mùng một Tết hấp nồi xôi ăn với gà ram mặn thì xưa chỉ có vua mới được nếm. Nồi xôi vừa cạn nước, người ta để đuông vô miếng lá chuối đặt trên mặt rồi đậy nắp lại. Xôi chín thì đuông cũng chín. Theo sử sách ghi lại, thời nhà Nguyễn có hai ông vua cực kỳ thích ăn xôi đuông là Gia Long và Minh Mạng. Lúc ở Bến Tre, cha con ông Hoàng được dân bắt đuông về hấp xôi dâng lên, khoái khẩu sau này bắt tiến kinh hàng năm. Vua Minh Mạng còn cho khắc trái bần và con đuông lên cửu đỉnh đặt ở thế miếu ngoài cung đình Huế, xem như sản vật quý lạ nước Nam.

theo : www.lasanhoingo.com/.../index.php/t655.html