3. Ứng dụng
Như phân tích ở trên ta thấy rằng để có được những khoảng hoàn toàn đen thì ánh sáng chiếu đến các vùng này phải thấp, yếu sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù tối. Trong thực tế thường các vùng này có chỉ số đo thấp hơn ít nhất 3 khẩu (3 stop) so với khẩu độ chụp. Trị số thực tế phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng càng ít hơn càng tốt. Vậy nếu bạn muốn có một bức ảnh với phông đen hoàn toàn thì làm sao đó phông của bạn được chiếu sáng thiếu ít nhất là 3 khẩu.
Ngược lại để có được những vùng trắng hay phông trắng thì ánh sáng chiếu đến các vùng này phải cao, cao sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù sáng. Trong thực tế thường các vùng này có chỉ số đo cao hơn ít nhất 1 1/2 khẩu so với khẩu độ chụp. Trị số thực tế phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng đừng quá cao. Nếu cao quá ảnh có thể bị mù, hallow hay không trong.
Theo nguyên lý trên thì, trong chụp ảnh chân dung, việc chiếu sáng chủ đề sao cho các vùng muốn che dấu khuyết điềm nằm trong các khoảng mù, hoặc gần sát với khoảng mù. Cụ thể nếu bạn chiếu sáng khuôn mặt của người mẫu hơi dư sáng một chút thì sẽ không thấy được các khuyết điểm về da của người mẫu, cũng như các nếp nhăn trở nên không rõ ràng, khó xác định và ngược lại bạn có thể che các khuyết điểm này trong khoảng mù tối.
Trong chụp ảnh sản phẩm thì việc có các khoảng mù tối hay mù sáng xuất hiện trong ảnh không được ủng hộ lắm, nhất là hình dùng trong bao bì sản phẩm. Nơi mà mọi thứ cần phải rõ ràng, trung thực.
Trong quảng cáo thì vô cùng, nhưng các khoảng mù sáng không nên có, lý do là các thiết bị in offset sẽ tạo nên các bước nhảy gắt từ vùng an toàn đầy đủ thông tin sang vùng mù sáng và làm cho bức ảnh không êm, hiếm có nhà làm thiết kế/quảng cáo chuyên nghiệp nào chấp nhận điều này.
Ngược lại nếu muốn có những bức ảnh chân dung mà ở đó đòi hỏi lột tả chi tiết chân dung nhân vật thì: Nhỏ, gắt, xa.
Ảnh tĩnh vật, quảng cáo, sản phẩm…:
Tương tự như trong chụp chân dung nêu trên, nếu bạn mong muốn có những hình ảnh có độ tương phản cao, nổi rõ chi tiết bề mặt vật chụp thì trong đa số các trường hợp: Nhỏ, gắt, xa sẽ cho kết quả như ý. Ngược lại: To, dịu, gần sẽ cho các ảnh có độ tương phản thấp, dịu, thậm chí mơ màng, chi tiết bề mặt vật chụp không rõ nét, sắc sảo. Ngoài ra, ánh sáng gắt dễ tạo nên các điểm lóa sáng trên chủ đề, đặc biệt là các vật, thủy tinh, kim loại bóng, hay các vật bóng nói chung. Ngược lại, ánh sáng dịu ít tạo nên các điểm lóa sáng trên các loại vật chụp/chủ đề nêu trên.
II/ Độ sáng:
Đối với nhiều người thì đây là khái niệm quá quen thuộc nói ra có vẻ thừa, nhưng không hẳn vậy.
1. Xác định
Độ sáng của một nguồn sáng phụ thuộc chính vào khả năng và công xuất của nguồn sáng và được xác định bằng các thiết bị đo, hay các phép tính cụ thể. Nhiều người sử dụng kinh nghiệm của mình và đôi khi rất chính xác. Đối với tôi, chắc chắn nhất vẫn là máy đo.
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm, thiết bị đo ánh sáng của các hãng khác nhau với giá từ vài chục USD tới hơn một ngàn USD, nhưng theo tôi cứ cái nào cho kết quả đúng và chính xác là tốt rồi, nhất là khi ngân sách cho chụp ảnh eo hẹp.
Ánh sáng của một tấm ảnh còn phụ thuộc vào các yếu tố khác trong khi chụp như độ nhạy sáng của film hay sensor, khẩu độ ống kính, và tốc độ chụp. Tuy nhiên, để cho đơn giản ta tạm qui ước là các thông số này giữ nguyên, chỉ có cường độ ánh sáng là thay đổi thôi.
2. Tác dụng:
Cường độ ánh sáng quyết định chi tiết cho một tấm ảnh. Film, sensor có khả năng cảm nhận ánh sáng thấp hơn nhiều so với mắt người. Tại những khoảng của cường độ sáng nhất định, chi tiết của vật chụp không được thể hiện trên film, hay sensor, tôi tạm gọi đó là các khoảng mù.
Có hai khoảng mù: khoảng quá tối và khoảng quá sáng. Điều này đặc biệt quan trọng nhất là các hình ảnh của bạn được in lại bằng công nghệ in offset thông thường, nơi mà khoảng mù này rộng nhất so với các thiết bị/chất liệu thể hiện hình ảnh thông thường (monitor, giấy ảnh ,