Có bài dịch này khá hay. Tính thời sự vẫn nóng hổi. Và qua bài này, chúng ta hiểu hơn về anh láng giềng xấu tính.
Không hề phô trương, biết người biết ta. Kẻ thù vậy mới đáng sợ: Quân đội Hoa Kỳ ngưng đánh mặt đối mặt với địch thủ từ bốn thập kỷ trước. Nó đã đi trước các đối thủ xa. Theo kỹ thuật mà nói, chúng ta hiện nay không bắt kịp Hoa Kỳ, nhưng chúng ta phải bắt kịp trên phương diện học thuật, ít nhất cũng không để rơi lại sau quá xa.
----------------------------
Dai Xu, phóng viên ban biên tập Khoa Học Quân Sự Không Quân đã thực hiện cuộc phỏng vấn Trung Tướng Lưu Á Châu, Chính Ủy Không Quân quân khu Chengdu Trung Quốc.
PV. Chiến tranh Iraq chính thức bắt đầu ngày 20.3.2003 . Vào 11.4, lính Mỹ chiếm Baghdad. Bên tiến công, với quân số hơn 100.000, hoàn toàn chiến thắng một quốc gia cỡ trung trong vài ngày. Ít có trận đánh nào đáng nói, nhiều người thấy chiến tranh Iraq giống trò chơi hơn là cuộc chiến.
Trung tướng Lưu Á Châu: Dù cuộc chiến giống như vở kịch, nó là thật. Mấy mươi ngày mùa xuân 2003 khiến (ta) phải suy nghĩ. Chiến cuộc đã qua đi, nhưng nó là điểm khởi đầu chuyện khác.
<h3>PV. Ông có ý gì khi nói “điểm khởi đầu khác”?</h3> <h3>Trung tướng Lưu Á Châu: Chỉ là cuộc chiến khu vực, chiến tranh Iraq rung chuyển thế giới. Nó thay đổi cấu trúc thế giới một cách kinh khủng. Có thể nói biên giới quốc gia nhiều nước đã được vẽ lại cách không thể nhận thấy, ít nhất trong óc lãnh đạo cấp cao nước Mỹ. Cuộc chiến đã thay đổi lịch sử, và đang tiếp tục. Thế giới trước chiến tranh Iraq không bao giờ trở lại. Khi Tony Blair nói ở Hạ Viện rằng “cuộc chiến này sẽ quyết định cấu trúc chính trị quốc tế trong những thập niên tới”, ông điểm đúng.</h3> <h3>Để tôi nói ra hiểu biết của tôi về cuộc chiến này từ hai góc độ : một góc nhìn chính trị và một quân sự. Ít lâu sau khi Trung Quốc thắng trận chiến tự vệ chống Ấn Độ năm 1962, Mao Trạch Đông nói chúng ta “ đánh chiến tranh chính trị bằng phương tiện quân sự, hay chiến tranh quân sự bằng phương tiện chính trị”. Chiến tranh Iraq cũng vậy, có hai mặt, chính trị và quân sự . Cuộc chiến này có ba nghĩa chính trị:</h3>
1. Như bước ngoặt chia trật tự quốc tế mới khỏi những cái cũ. Gs. Jin Yinan đã chỉ ra rằng “Chiến tranh quyết định thứ bậc.” Hoa kỳ vẫn theo đuổi kiểu “Đế Quốc Mới” nào đó từ cuối Chiến Tranh Lạnh. Có nghĩa là Hoa Kỳ thống trị thế giới bằng sức mạnh chính trị, quân sự, văn hóa, và tôn giáo của mình.
Khi một quốc gia phát triển đủ mạnh, nó làm bá chủ. Mục đích duy nhất của quyền lực là theo đuổi quyền lực lớn hơn nữa. Đá tảng cuối cùng của hệ thống quốc tế thế kỷ 20 là cơ chế tập thể an ninh toàn cầu được đại diện bởi Liên Hiệp Quốc, một dàn xếp do Hoa Kỳ khởi xướng và thiết lập. Hoa Kỳ đạp lên hòn đá tảng này suốt cuộc chiến. Cuộc chiến đầu tiên của Hoa Kỷ thời “ Trật Tự Đế Quốc Mới” và có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Cuộc chiến này đánh dấu kết thúc giai đoạn cũ và khởi đầu giai đoạn mới.
2. Những xung đột văn hóa.
Xung đột văn hóa bản chất là xung đột tôn giáo. Đối đầu giữa các quốc gia Ả Rập và Israel chỉ là môt phần. Bạn có thể phủ nhận chuyện có các xung đột văn hóa, nhưng bạn có thể phủ nhận chuyện xung đột tôn giáo không? George W. Bush có lần tả Chiến Tranh Iraq là “Thánh Chiến”, một nhận xét sau này ông ám chỉ là “lỡ miệng”. Làm sao là “lỡ miệng” được? Sau kết thúc Chiến Tranh Lạnh, dưới luật chơi mới đã bắt đầu một trận chiến khác, có bản chất văn hóa, điểm xuyết bằng những xung đột giữa Ki Tô Hữu Tây Phương và những nền văn hóa Hồi Giáo. Hoa Kỳ không chỉ muốn “cải cách” thế giới Hồi Giáo, như nó tuyên bố. Mục đích cuối cùng là phá tan toàn thể cộng đồng Hồi Giáo. Từ thời vĩnh hằng, văn hóa vẫn được cấy ghép bằng những cuộc chiến. Hoa Kỳ đối mặt với thế giới bằng phương tiện quân sự, và ý nghĩa Chiến Tranh Iraq có thể tìm được qua lời những chính trị gia Hoa Kỳ. James Woolsey, nhân vật sáng giá trong giới bảo thủ có lần nói, “Chiến Tranh Iraq có thể được coi như là cuộc chiến đầu tiên trước Thế Chiến Thứ Tư. Thế giới đã chứng kiến hai cuộc chiến nóng và Chiến Tranh Lạnh. Trong đó Âu Châu đã ở tuyến đầu. Thế Chiến Thứ Tư bây giờ đang xảy ra bên Trung Đông.”
PV. Do sức mạnh quân sự không cân xứng của Hoa Kỳ, có một cách tiếp cận chiến tranh giống như mê cuồng trong giới chính trị gia diều hâu của quốc gia đó. Cân bằng trong chính trị quốc tế nhanh chóng nghiêng ngả. Vài học giả phương tây đã so sánh Hoa Kỳ với một chiếc xe ngựa đang lao xuống dốc.
Trung tướng Lưu Á Châu: Chiến Tranh Iraq đã đi vào lịch sử, nhưng nhân dân thế giới bắt đầu cảm được cái lạnh của thế kỷ mới từ mùa xuân 2003. Thủ Tướng Bỉ mới đây nhắc đến Hoa Kỳ như một “siêu cường rất nguy hiểm”. Thế giới trở nên nguy hiểm vì sự đe dọa của Hoa kỳ. Điều đó dẫn tới nghĩa thứ ba tôi muốn thảo luận : địa chính trị. Địa lý là định mệnh. Điều đó đã thành sự thật bất biến từ thời xa xưa. Thường thì khi một cường quốc trỗi dậy, nó trước tiên phải đặt mình vào thế bất khả chiến bại. Thế bất khả chiến bại về địa lý có nghĩa là một vùng phải được giữ dưới sự kiểm soát địa chính trị và Trung Đông ngày nay là một vùng như vậy. Có người nói rằng dầu hỏa vừa là kho báu vừa là lời nguyền với Trung Đông, và rằng tất cả chiến lược của Hoa Kỳ ở Trung Đông từ Thế Chiến II đã được quyết định vì dầu hỏa. Suy đoán đó, dầu sao, chỉ đúng một nửa. Dầu hỏa là lý do khiến Hoa Kỳ kiểm soát Trung Đông, nhưng không phải Hoa Kỳ chỉ muốn có vậy. Trong lịch sử, Trung Đông không chỉ là cơ sở năng lượng, nhưng còn là một trục vận chuyển nổi tiếng thế giới.
Napoleon đã biết đến sự quan trọng phải kiểm soát trục vận chuyển then chốt này. Khi Hoa Kỳ kiểm soát Trung Đông, các sức mạnh thế giới khác sẽ bắt đầu một vòng hội nhập mới, đưa đến những thay đổi lịch sử thế giới to lớn. Hoa Kỳ chia cắt mảnh đất giữa ba châu lục Á, Âu và Phi.
<h3>PV. Còn ảnh hưởng của lãnh vực quân sự thì thế nào?</h3> <h3>Trung tướng Lưu Á Châu: Thế kỷ trước có hai khối quân sự lớn trên thế giới: Liên Xô cũ và Hoa Kỳ. Hai khối phát triển hai loại học thuyết quân sự. Quân đội toàn thế giới có thể được chia làm hai loại theo hai học thuyết này. Mọi cuộc chiến nóng từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh thực ra là cuộc chiến giữa hai khối. Bây giờ tôi có thể nói rằng khối có Hoa Kỳ lãnh đạo đã thắng khối do Liên Xô đứng đầu.</h3> <h3>Chiến Tranh Iraq có ý nghĩa với thế giới vì nó cho thấy mọi khủng hoảng trong cách tiếp cận quân sự phía Liên Xô. Ngắm những đổ nát còn lại sau Chiến Tranh Iraq, hình ảnh chảy đầy suy nghĩ của tôi: thung lũng Bekaa ở Li băng, thủ đô Li Băng, Nam Tư cũ, Afghanistan… tôi thấy có những cái giống nhau đáng ngạc nhiên giữa những chiến trường và những đổ nát sau chiến tranh – rằng họ đều là đồng minh của Liên Xô cũ hay là những nơi Liên Xô đã đặt chân tới; rằng họ đều chủ yếu dùng hệ thống vũ khí Liên xô và theo học thuyết quân sự Liên Xô; rằng họ đều bị tan thành mảnh hay rã đám sau những trận không kích của Hoa Kỳ. Nguyên do là gì? Hai cuộc chiến Vùng Vịnh làm nổi bật một điều đáng sợ: Iraq là một nước mà hải, lục, không quân đều được trang bị vũ khí Liên Xô, sở hữu tên lửa Scud, máy bay Mig và xe tăng – tất cả đều chế tạo tại Liên Xô. Khí tài này vừa khổng lồ về số lượng vừa tiến bộ về kỹ thuật và đã được nhập vào Iraq một cách có hệ thống. Cộng với tất cả khí tài đó, hệ thống điều hành và cách xử lý chỉ đạo cũng được du nhập từ Liên Bang Xô Viết.</h3> <h3>PV. Để đạt mục đích chiến thắng và chiếm đóng một nước cỡ trung bình, Hoa Kỳ đã sử dụng gần 500.000 quân cho ba năm chiến tranh Triều Tiên, chỉ để bị bắt buộc phải rút lui không chiến thắng; trong khi ở Việt Nam, Hoa Kỳ dùng 500.000 quân khác và chiến đấu gần 12 năm, cuối cùng phải rút lui như trước. Làm sao Chiến Tranh Iraq lại xảy ra như thế?</h3>
Trung tướng Lưu Á Châu Tôi muốn trả lời câu hỏi này bằng cách nhắc đến kết cục của hai cuộc chiến khác. Cả Liên Xô lẫn Hoa Kỳ là những siêu cường, và khi xung chiến với cùng địch thủ, kết quả hoàn toàn khác nhau. Liên Xô liên tục dùng 1.500.000 quân trong chiến tranh Afghanistan, chủ yếu bộ chiến với quốc gia đó trong một thập niên. Sau cùng thất trận, kết quả hơn 50.000 thương vong phía Liên Xô. Và sức mạnh của Liên Xô không bao giờ hồi phục. Trong khi trong cuộc chiến Afghanistan gần đây, Hoa Kỳ chỉ dùng một lực lượng đặc biệt có số lẻ 1000 quân – được yểm trợ chủ yếu bằng không lực – và giải giáp lực lượng Taliban trong có 61 ngày, với 16 tử thương phía quân đội Hoa Kỳ (không có ai bị giết trong chiến đấu).
<h3>PV. Ông nghĩ khoảng cách chính giữa quân đội Nga và Hoa Kỳ là gì?</h3> <h3>Trung tướng Lưu Á Châu Khoảng cách nằm chủ yếu ở hai yếu tố: kỹ thuật quân sự và cách xử lý. Để tôi nói về kỹ thuật quân sự trước. Khoa học và kỹ thuật đã phát triển với tốc độ vũ bão và kỹ thuật dẫn đường chính xác đã đưa chiến tranh tới thời đại “chiến binh chính xác”. Hoa Kỳ đã có thể triển khai những vũ khí răn đe nhất tới những nơi mình nghĩ là cần nhất trong thời gian ngắn nhất có thể. Trong vòng một ngày trong cuộc chiến Kosovo Hoa Kỳ thả nhiều bom hơn tất cả số tên lửa Trung Quốc chúng ta triển khai dọc bờ biển phía nam lục địa. Trong cuộc chiến Afghanistan, Hoa Kỳ nhanh chóng phát triển một kiểu bom “nhiệt” dùng trong vùng núi vốn đầy các kiểu hang ở quốc gia đó.</h3> <h3>Bom nhiệt có thể tiêu diệt hầm, boong ke ngầm và mọi thứ trong một tòa nhà – mà không làm hư chính tòa nhà đó. Nó là một thứ gì đó giống bom neutron. Nhanh chóng phát triển và chế tạo những kiểu vũ khí mới theo những hoàn cảnh chiến trường mới là một vũ khí trong và vì chính nó. Cộng thêm vào điều đó, Hoa Kỳ có thể phát triển và cung cấp khí tài mới ngay tức thời tùy nhu cầu chiến trường, một điều rất quan trọng. So sánh, chúng ta dùng ngư lôi, gói nổ và bộ đàm thời chiến tranh Triều Tiên, và vẫn còn dùng trong cuộc chiến tự vệ (!) chống Việt Nam.</h3> <h3>“Kỹ nghệ tổ chức” chắc chắn là thế bất lợi của chúng ta, nhưng điều quan trọng nhất là liệu chúng ta có cách xử lý có định hướng tương lai cho chiến tranh và liệu kỹ nghệ quốc phòng quốc gia chúng ta có khả năng đáp ứng với chuyện bất ngờ hay không. Chúng ta không có thể bắt đầu nghĩ về những điều đó khi một cuộc chiến sắp nổ ra ngay. Chúng ta phải bắt đầu nghĩ đến những điều đó ngay từ bây giờ. Giá trả cho những phút chậm trễ trong hiện tại là máu đổ trong tương lai. Vì đã có khoảng cách gần một thế kỷ trong những tiến bộ tương đối, điều chúng ta thấy giữa Hoa Kỳ và Taliban trong cuộc chiến Afghanistan không phải là giữa những người lính. Cũng không phải là giữa những phát đại bác. Đó là cuộc chiến giữa hỏa tiễn và tạp chí, vệ tinh và súng trường. </h3> <h3>So với Hoa Kỳ, kỹ thuật Nga chỉ được biểu hiện nơi vũ khí, và không được hệ thống hóa. Khi Nga đánh trận Chiến Tranh Chechnia, họ chủ yếu chiến đấu với những vũ khí quy ước, và dòng chảy tin tức không bao giờ đến được các thực địa hay giữa thực địa với các hệ thống chỉ huy. Mặt bằng kỹ thuật quyết định chiến thuật chiến tranh. Không có “khoảng cách thế hệ” giữa lực lượng Nga và Chechen, như vậy các lực lượng không thể chiến đấu trong một trận chiến không cân sức, hay tận dụng một lợi thế kỹ thuật tuyệt đối như Hoa Kỳ. Cơ động là lối ra duy nhất khi phải đối mặt với một không lực áp đảo và những bất lợi về hỏa lực. Chỉ khi một quân đội có sự cơ động mới có khả năng tránh bị tấn công mãi mà không tấn công địch. Và chỉ khi một quân đội có sự cơ động trong chiến tranh thì chiến tranh mới tiếp diễn theo cách mà cả hai bên đều mở những cuộc tấn công. Thiếu cơ động đã dẫn đến thất bại cho quân đội Iraq và Taliban trong hai cuộc chiến Vùng Vịnh và cuộc chiến Iraq. Mục tiêu căn bản khi Hoa Kỳ phát triển những hệ thống khác nhau là triệt tiêu sự cơ động trên chiến trường của kẻ thù. Kẻ thù của Hoa Kỳ phải đặc biệt để ý đến điều này vì không cơ động thì không sống sót.</h3> <h3>PV. Làm cách nào Hoa Kỳ đã kiểm soát sự cơ động của quân địch?</h3> <h3>Trung tướng Lưu Á Châu: Cách tiếp cận của Hoa Kỳ là nắm bắt mọi thông tin, trong khi bịt mắt bịt tai kẻ địch. Chúng ta nói quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, là vì nó có sự mẫn cảm chiến trường thích hợp. Ta hãy xem các dữ kiện sau.</h3> <h3>Trong chiến đấu, cần một khoảng thời gian để hoàn tất cái gọi là chuỗi tấn công, từ phát hiện muc tiêu tới chỉ huy một cuộc tấn công chính xác vào mục tiêu đặc biệt đó. Tiến trình gồm những bước sau: phát hiện, định vị, nhắm, tấn công và đánh giá chiến dịch. Trong trận chiến Vùng Vịnh đầu tiên, tiến trình một “chuỗi” như thế mất 100 phút, trong khi trong trận chiến Kosovo và Afghanistan, mất 40 và 20 phút. Trong trận chiến Iraq mất có 10 phút, gần như là đạt mục tiêu “thấy là diệt”. Trong hoàn cảnh đó, kẻ thù không có đủ thời gian để cơ động. Thí dụ, tháng 11. 2001, thám báo Hoa Kỳ phát hiện một đoàn xe đang rút khỏi thủ đô Kabul. Đơn vị thám báo lập tức truyền tin về Trung Tâm Chỉ Huy qua vệ tinh. Sau khi Ngũ Giác Đài cho lệnh tấn công, ba chiến đấu cơ nhanh chóng tiếp cận đoàn xe và bắn ba hỏa tiễn từ trên cao. Cùng lúc đó, một máy bay không người lái cũng bắn hỏa tiễn – đánh dấu chiến đấu cơ không người lái lần đầu tiên trên thế giới. Sau này mới biết gần 100 quân Taliban bị giết trong trận không kích này, trong đó có Atef Mohammed, phó của Osama bin Laden. Trận không kích là bản thu nhỏ những chiến dịch trong cuộc chiến ở Afghanistan, và sau này là phương pháp thường thấy cho các cuộc tấn công chiến thuật.</h3> <h3>Trong Chiến Tranh Iraq, người Iraq trước tiên bị bịt tai rồi bịt mắt. Chuyện như thế đó, đơn giản họ không thể đem quân vào hoạt động, chưa nói đến chuyện trước tiên quân lực đó không đủ mạnh. Khi bình luận về cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991 trong sách nhan đề Vượt Qua Chiến Tranh Nguyên Tử, B.N.Sripcinko, chiến lược gia quân sự Nga, đã viết, “Iraq đã chuẩn bị rất nhiệt tình - cho một trận chiến lỗi thời”. Nhiều năm trước, Iraq vẫn còn những sư đoàn tăng, hậu cần không quân và Tuyến Phòng Ngự Saddam. Và chỉ còn lại súng trường và bom người còn dùng được ngày trước cuộc Chiến Tranh Iraq.</h3> <h3>Nói chung, Chiến Tranh Iraq là cuộc chiến có “Khoảng Cách Thế Hệ” khổng lồ. Nếu chúng ta nói rằng những cuộc chiến Hoa Kỳ tham dự từ những năm 1980 thay đổi đều đều, từ Chiến Tranh Cơ Giới đến Chiến Tranh Tin Học, thì chiến tranh Iraq là một thay đổi về chất lượng theo hướng đó. Sự tiến bộ quân sự của Hoa Kỳ là một biểu tượng, bắt đầu từ khi chấm dứt cuộc chiến Việt Nam, đã gần hoàn tất. Đây là một biến cố có ý nghĩa trong quân sử thế giới. Theo nghĩa đó thất bại của Iraq là không tránh khỏi, dù chiến thắng của Hoa Kỳ được cường điệu do Iraq không kháng cự hay không thể kháng cự. Đối mặt với hoàn cảnh tuyệt vọng như thế, chính phủ Iraq dù muốn cũng không thể chiến đấu. Còn nhân dân Iraq, đơn giản là họ không muốn đánh nhau. Như thế đó, trong khi chính quyền bị diệt, quốc gia tồn tại.</h3> <h3>Do các lực lượng Iraq diễn tồi, bản lãnh chiến tranh thực sự của quân đội Hoa Kỳ đã không được biểu lộ rõ rệt trong Chiến Tranh Iraq. Những điểm mạnh của của quân đội Hoa Kỳ bao gồm khả năng chiến tranh điện tử, Không Lực và Hệ Thống Khí Tài theo Quan Điểm Mới, và chỉ một phần nhỏ những khả năng đó đã được huy động. Hoa Kỳ xếp hạng đầu ba lãnh vực trong thế giới ngày nay. Đầu tiên Hoa Kỳ đi tiên phong trong cách mạng quân sự mới. Nếu chúng ta so sánh cách mạng với một cuộc đua đường dài, Hoa Kỳ không chỉ nghiễm nhiên là người dẫn đầu những người tham dự, mà còn giữ khoảng cách 1000 mét với những người chạy kế tiếp – và, nếu thấy khoảng cách với người sau thu lại còn 900 mét, Hoa Kỳ sẽ cảm thấy bị đe dọa. Thứ hai, chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ đứng cao nhất thế giới – số lượng bằng 12 nước theo sau cộng lại. Khó chịu hơn nữa là Quân Đội Hoa Kỳ còn đang phát triển nhanh. Một hệ thống chiến tranh toàn cầu mới sẽ thành hiện thực khi hệ thống tự vệ toàn cầu bằng hỏa tiễn đã sẵn sàng. Lãnh vực cuối cùng kẻ thù có thể đe dọa Hoa Kỳ -vũ khí nguyên tử- sẽ thành vô dụng. Lúc đó, một hệ thống chính trị đơn cực được hậu thuẫn bằng một sức mạnh quân sự tuyệt đối – hệ thống đế quốc toàn cầu với Hoa Kỳ làm hạt nhân - sẽ đâu vào đấy. Giống như cách đánh chớp nhoáng bằng cơ giới đã xúc tiến Đế Chế Thứ Ba của Adolf Hitler, chiến tranh tin học đang đặt nền móng cho một đế chế toàn cầu mới. Hậu quả lâu dài của cuộc chiến này rất đáng sợ. và dù cái ngày đặc biệt đó chưa đến, chúng ta đang tới gần ngày đó.</h3>
Phần II. Không Quân, hay Bộ Binh?
PV. Trung tướng Lưu, ông có thể nói về đặc điểm cuộc chiến này? Chiến Tranh Iraq là loại nào?
Trung tướng Lưu Á Châu: Nói tắt, nó là cuộc không chiến. Tôi tin không quân là lực lượng quyết định trong trận chiến này, cho dù Hoa Kỳ cũng đưa bộ binh vào. Hoa Kỳ có những lợi ích toàn cầu, và do vậy, những chiến địa toàn cầu. Hoa Kỳ phải áp dụng chiến lược toàn cầu. Điều đó đặc biệt làm cho quân đội Hoa Kỳ phải đánh những trận chiến ở những nơi xa, phải được triển khai ngay, đánh chính xác và giữ quyền kiểm soát bầu trời tuyệt đối. Trong các thành phần của quân đội Hoa Kỳ, chỉ có không quân mới đáp ứng những đòi hỏi đó.
Sau trận chiến ở Grenada, người ta đã thấy rằng thà có một tiểu đoàn sẵn sàng trong 24 tiếng còn hơn là một đạo quân trong 3 tháng. Không quân đã đóng vai trò quyết định trong tất cả các cuộc chiến mới đây của Hoa Kỳ: Chiến Tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, Chiến Tranh Kosovo, chiến tranh ở Afghanistan và Chiến Tranh Iraq.
PV. Như vậy tại sao ngay từ đầu Hoa Kỳ đã gửi bộ binh đến Iraq?
Trung tướng Lưu Á Châu: Trước tiên, có và làm thế nào sử dụng bộ binh hay không tùy thuộc vào mục đích.
Mục đích của Hoa Kỳ trong trận chiến này là “lật đổ chế độ Saddam” và “giải phóng nhân dân Iraq”. Những mục tiêu sâu xa đó có nghĩa là Hoa Kỳ phải đưa bộ binh ngay sau khi chiến tranh bắt đầu. Không có bộ binh, thì không thể “lật đổ” hay “giải phóng nhân dân Iraq”. Hoa Kỳ lúc đó đã gửi tín hiệu rõ ràng khi đưa bộ binh đến Iraq: rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục ở lại và không rút ra sớm.
PV. Như vậy có nghĩa là quyết định của Hoa Kỳ đưa bộ binh vào Iraq là quyết định chính trị hơn là quân sự.
Trung tướng Lưu Á Châu: Đúng vậy.Để đạt mục đích đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu trò diễn ngay đầu cuộc chiến. Chắc bạn đã để ý là Hoa Kỳ mời nhiều nhà báo khắp thế giới, cả từ Trung Quốc,đến tường thuật chiến sự với sự cộng tác của quân đội. Tại sao? Để diễn tuồng cho cả thế giới. Khi Hoa Kỳ đánh cuộc chiến Iraq, Hoa Kỳ muốn trừng trị Iraq như lời cảnh báo cho các nước khác.
Hơn nữa, Hoa Kỳ có kế hoạch cải tạo một Trung Đông lớn hơn - tất cả đều cần bộ binh tại chỗ.
Vở tuồng Hoa Kỳ diễn có hiệu quả. Một số nước, nhất là những nước Ả Rập, đã sợ hãi – một phần do ảnh hưởng chính trị của việc dùng bộ binh. Những người cho rằng Hoa Kỳ lại nhấn mạnh vai trò bộ binh không thấy ý nghĩa cách tiếp cận này, họ chỉ nhìn mặt nổi. Phương tiện quân sự mãi mãi là cách đạt mục đích chính trị. Điều đó có thể thấy cả từ mục tiêu quân sự và, thỉnh thoảng, từ diễn trình hoạt động quân sự.
PV. Có lý do quân sự nào khiến Hoa Kỳ dùng bộ binh không?
Trung tướng Lưu Á Châu: Không quân là diễn viên chính đã lâu từ Chiến Tranh Vùng Vịnh cho tới Chiến Tranh Kosovo rồi tới cuộc chiến ở Afghanistan; chắc có tranh luận giữa các binh chủng quân đội Hoa Kỳ. Chủ đề có thể là thủy quân và lục quân không đơn thuần muốn đóng vai trò hỗ trợ, họ không muốn bị cho ra rìa. Quân đội đã cảm thấy cuộc khủng hoảng này. Chúng ta biết rằng đã có tranh luận sau khi chiến tranh kết thúc, như dự đoán. Tranh luận không diễn ra trong quân đội nhưng giữa Colin Powell, ngoại trưởng, và Donald Rumsfeld, bộ trưởng quốc phòng.
Nực cười là nó nổ ra không phải là giữa những người trong quân ngũ, nhưng lại là giữa các quan chức dân sự và các sĩ quan cao cấp quân đội. Họ có chung mục tiêu, chỉ khác nhau cách thực hiện. Rumsfelf đề nghị một khái niệm quân sự mới “tấn công chớp nhoáng chính xác”, gọi là học thuyết Rumsfeld. “Chính xác” liên quan tới trí thức hóa cao chiến tranh. Cột trụ lý thuyết của Rumsfeld là quân đội phải được cải tổ thành những nhóm chiến đấu nhỏ hơn về cỡ nhưng dễ triển khai hơn.
Hiệu quả giống như những nhóm biệt kích. Phối hợp với không kích, nó có nhiệm vụ giúp các vũ khí được dẫn đường chính xác tấn công các mục tiêu quan trọng, để yêu cầu chiến đấu được hoàn thành nhanh. Phía kia, tinh hoa lý thuyết của Powell là những lực lượng to lớn dưới đất phải được sử dụng, và phải phối hợp với các cuộc hành quân của các đơn vị nặng.
Khi chiến tranh bắt đầu, chúng ta thấy có thỏa hiệp giữa hai lý thuyết này: cả Rumsfeld lẫn Powell được áp dụng – nhưng không đầy đủ. Nhiều sĩ quan cấp cao tin rằng bộ binh lần này cần lên tới mức Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1991, gồm 10 sư đoàn, nhưng Hoa Kỳ chỉ xử dụng 2 sư đoàn. Mức độ bộ binh được dùng nhỏ hơn trong chiến dịch “Bão Cát Sa Mạc” (Desert Storm), trong khi đạt chiến thắng cao hơn. Tôi tin rằng sự khác biệt giữa lý thuyết Powell và Rumsfeld nằm ở chỗ : trong khi cái trước nhắm tiêu diệt hiệu quả của kẻ thù trên bình diện rộng, cái sau không còn nhấn mạnh sự quan trọng phải tiêu diệt quân đội và khí tài, mà chuyển tập trung vào việc tiêu diệt ý chí chiến đấu. Kết quả chứng minh cái sau đúng.
PV. Chúng ta phải coi kết quả “bài tập” của quân đội Hoa Kỳ như thế nào, theo ông?
Trung tướng Lưu Á Châu: Trước tiên, bài tập diễn ra ở thời điểm Hoa Kỳ có ưu thế tuyệt đối. Quân đội Hoa Kỳ tiến bộ rất nhanh. Sư đoàn 3 cơ khí rời Nasiriyah và Najaf, nơi đánh nhau dữ dội đang diễn ra, và hành quân đường dài xa hàng trăm km (về Baghdad), và lập kỷ lục chiến sử mới về hành quân thọc sâu. Tốc độ tiến quân của quân đội Hoa Kỳ bằng hoặc hơn quân đội Đức khi tấn công chớp choáng Liên Bang Sô Viết.
Nhưng sẽ không thể mường tượng ra nổi sức tiến công của lính Hoa Kỳ khi không có sự hỗ trợ từ không lực vuợt trội. Về nghĩa đó, tôi sẽ nói là Chiến Tranh Iraq không phải là cuộc chiến ngắn, ít nhất là nhìn từ góc độ không chiến. Theo góc nhìn đó, chiến tranh không kéo dài bốn tuần, nhưng là mười hai năm. Cuộc chiến bắt đầu từ 20.03.2003 chỉ là kéo dài cuộc chiến vốn tồn tại suốt 12 năm trước.
Mười hai năm qua, Hoa kỳ chiếm bầu trời Iraq, và chặn họng không lực Iraq. Khi trước đây tôi nhắc rằng “tinh thần quân đội Iraq đã bị đánh cắp” cái tôi muốn nói là sự vắng mặt của không quân.
Thứ nữa, 12 năm với vùng cấm bay, dội bom và thám sát đã làm tinh thần quân đội và cả đất nước tan hoang. Ý chí của nhân dân Iraq đã gần chết rồi. Như túp lều tơi tả trong mưa gió, Iraq chỉ cần đẩy nhẹ là đổ. Hoa Kỳ “diễn tập” trên cơ sở đó.
Cùng lúc đó, sư đoàn 3 Bộ Binh Cơ Giới, đơn vị chủ lực của quân đội Hoa Kỳ, chưa bao giờ đánh trận nào nặng ký – tốc độ tiến quân nhanh có được khi Hoa Kỳ làm chủ bầu trời và không quân quét sạch mọi trở lực. Anh có để ý không, bộ binh Hoa Kỳ luôn luôn ngừng một khi gặp bất kỳ sự kháng cự nào hay nó đơn giản bỏ đi? Quân đội không chiếm bất cứ thành phố nào trong cuộc chiến. Phải rồi, Bagdad bị chiếm. Nhưng có phải bị bộ binh chiếm không? Người ta đưa tin là Hoa Kỳ đã bôi trơn bàn tay các quan chức cấp cao của Cảnh Vệ Cộng Hòa để thôi chống cự. Vài người Phương Tây nói rằng không quân liên minh đóng góp 99 phần trăm vào cuộc chiến này, trong khi bộ binh của liên minh góp 1 phần trăm. Có quá lời trong bình luận này, nhưng nó nói lên sự thực.
PV. Những binh chủng khác nhau làm nhiệm vụ khác nhau trong các chiều kích và lãnh vực khác nhau. Nói chung, không quân đa phần là sức mạnh tiến công và hủy diệt. Nó khó có thể mang trách nhiệm phòng thủ, chiếm đóng và bảo vệ.
Trung tướng Lưu Á Châu Cho tôi đưa ra một so sánh. Không quân như hai tay một người, anh có thể dùng đập bể cửa sổ hay ván cửa. Nhưng nếu anh muốn lấy nhà người ta và muốn bảo vệ tài sản khỏi bị chiếm nữa, anh sẽ phải dùng đôi chân – bộ binh – để vào nhà. Như vậy sẽ vô nghĩa khi so sánh vai trò bộ binh và không quân mà không nhìn đến mục đích chiến tranh và bản chất cũng như đặc tính các lực lượng. Nói chung, lục quân và hải quân bị hạn chế bởi không gian tự nhiên trong hoạt động, trong khi không quân có thể chiến đấu mọi nơi và mọi chiến trường. Hải quân chỉ chiến đấu được trên biển và lục quân trên bộ, trong khi không quân có thể chiến đấu mọi nơi.
Hoa Kỳ phải tính đến phương kế sử dụng bộ binh cho những mục tiêu chiến tranh đặc biệt này. Dầu vậy, Hoa Kỳ đã bỏ ưu điểm của mình và tự hạ mình xuống cho vừa mức người Iraq có thể đối đầu. Thành quả cuộc chiến chứng minh lý thuyết của Rumsfeld đúng. Chưa bao giờ trong lịch sử Hoa Kỳ có viên chức dân sự được tổng thống chỉ định nào đã có ảnh hưởng sâu rộng như thế đến các kế hoạch tác chiến quân sự Hoa Kỳ. Những chuyện sau này đồng loạt cho chúng ta thấy rằng người chiến thắng lớn nhất trong Chiến Tranh Iraq là Rumsfeld và những người dưới quyền ông. Kẻ thất bại lớn nhất là quân đội Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng tư 2003, Rumsfeld đến Vùng Vịnh thị sát quân đội ở đó. Khi Rumsfeld tới, những tràng pháo tay và những tiếng reo mừng đón chào ông. Chiến thắng của Rumsfeld không chỉ với quân đội Hoa Kỳ, mà còn cả với học thuyết quân sự Nga. Dữ kiện cho thấy một đội quân uyển chuyển hơn, dù cỡ nhỏ hơn, sẽ tuyệt đối thắng một đội quân lớn vướng đầy những quan niệm cũ. Quân đội Iraq là một quân đội lớn. Và theo cách dàn đại quân của Liên Bang Sô Viết, Iraq tập trung số lượng lớn đơn vị bọc thép và pháo binh, với các bộ chỉ huy tập trung cao độ. Nhưng tuyến phòng thủ dễ sợ đó đã bị một ít quân Hoa kỳ tàn phá trong mấy ngày. Quan sát viên quân sự Nga đã la lên rằng “mô hình quân sự đã bị viết lại. Các nước khác nên chú ý là Hoa Kỳ đã viết lại các giáo trình quân sự.”
PV. Ông có thể tả cụ thể hơn những đặc điểm trong thành tích của không quân Hoa Kỳ trong trận chiến này?
Trung tướng Lưu Á Châu: Tôi đã viết trong cuốn Một Thế Kỷ Không Quân của tôi rằng, trước thập niên 1980, thế giới gọi “không quân” vì nó là một đội quân trên không. Sau thời gian đó, nó không đơn thuần là một trong các binh chủng, cho dù chức vụ của nó vẫn như vậy. Những thay đổi cách mạng về vũ khí đã mang lại thay đổi cách mạng về chiến lược và chiến thuật không quân. Và không quân chuyển từ vai trò yểm trợ hoạt động lục quân và hải quân sang vai trò nhận yểm trợ từ hai binh chủng kia trong các hoạt động của mình cho tới khi có thể độc lập tác chiến ngày nay.
Không quân đã luôn thay đổi về chất lượng. Trong Chiến Tranh Kosovo năm 1999, chúng ta đã thấy không quân được dùng không chỉ về quân sự, nhưng nó còn được chơi như lá bài ngoại giao. Không kích không chỉ nhắm vào mục tiêu quân sự của kẻ thù, mà còn cả mục tiêu chiến lược quốc gia. Về căn bản việc sử dụng không quân mang tính chiến lược. Cách Hoa Kỳ sử dụng không quân trong cuộc chiến Iraq giống hệt những cuộc chiến trước: không quân được dùng như cách chủ động và như sức mạnh chiến lược của cuộc chiến. Khác nhau là vai trò của nó đã trực tiếp hơn, nổi trội và rõ ràng hơn. Hoa Kỳ tham gia 5 cuộc chiến trong 10 năm qua: Vùng Vịnh, oanh kích Bosnia và Herzegovina với NATO , không kích Iraq, Chiến Tranh Kosovo và Chiến Tranh Afghanistan. Và Chiến tranh Iraq ngày nay là cuộc thứ sáu.
Hoa Kỳ đã đánh từng trận và cả sáu trận theo cùng một kiểu: trước hết phát động chiến dịch toàn cầu cho chiến tranh, khuất phục quốc gia trong tầm ngắm bằng hải và không quân. Sau đó bao vây tứ phía, cho đến khi có thể chiến thắng với ít hay không phải đánh nhau chút nào. Bao vây bầu trời mang tính toàn cầu đã trở nên đặc tính căn bản của Hoa Kỳ mỗi khi chuẩn bị chiến tranh hiện đại. Nếu muốn tiên đoán xem Hoa Kỳ có phát động chiến tranh hay không, và bao lớn, người ta chỉ cần coi lại việc triển khai không quân.
PV. Ông nghĩ tư tưởng chủ đạo sau các cuộc oanh kích của Hoa Kỳ là gì?
Trung tướng Lưu Á Châu: Tê liệt hóa, và chỉ tê liệt hóa. Chiến tranh tê liệt hóa đã là hoạt động liên tục của Hoa Kỳ trong hai thập niên qua. Bản duyệt lại suốt một thế kỷ lịch sử từ khi sinh ra không quân cho thấy chiến lược của không lực các siêu cường trên thế giới quanh đi quẩn lại giữa oanh kích mục tiêu quân sự và mục tiêu dân sự, giữa thả bom chiến lược và không yểm. Trong Thế Chiến II, Anh Mỹ đặt trọng tâm vào bỏ bom chiến lược, trong khi Đức và Nga nhấn mạnh đến yểm trợ chiến trường,và cả hai đều ghi nhiều bàn thắng. Trước chiến tranh Việt Nam, không quân thường chịu trách nhiệm oanh kích gián tiếp do nghĩ rằng chiến thắng được quyết định nơi chiến trường. Nhưng tê liệt hóa đã thành chủ đạo sau chiến tranh Việt Nam, nhất là sau Chiến Tranh Vùng Vịnh.
Ngoài lãnh vực quân sự, chính sách ngoại giao Hoa Kỳ là một chính sách làm tê liệt, nhất là khi áp dụng cho Trung Quốc. Căn bản chính sách của Hoa Kỳ với Trung Quốc là gì? Có phải là chia cắt Trung Quốc? Tôi sợ là không phải vậy. Có phải họ sợ Trung Quốc trỗi dậy? Tôi sợ không ho