Hạng D
1/12/06
3.029
100
38
grenade nói:
Giả sử có trận banh giữa Brazil và VN, Brazil tòan cầu thủ thi đấu world cup hạ VN 8-3, vậy với ba bàn thủng lưới của tuyển Brazil trước đội VN yếu kém, có thể gọi là Brazil đả nếm mùi thất bại trước VN ko bác?

Ngoài lề chút: bác lựu đạn lại gieo hy vọng hão huyền để bà con mơ mộng về ĐT VN đấy à? Chúng ta cùng nhớ ở giải WC vừa rồi thì các chú Bắc Triều tiên quả là đã thua Brazil rất vẻ vang, chỉ có 1-2. Thế nhưng BTT cũng đã phải dốc hết sức lực ra mới có kết quả đó, và trong hoàn cảnh là đội Brazil cũng quá kém so với khả năng của mình.

Tới trận gặp Bồ thì cả nước CHDCND TT phấn khởi cao độ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước BTT có truyền bóng đá live cho cả nước xem. Kết quả thế nào chúng ta chắc cũng vẫn còn nhớ. Thua Bồ tới 7.0 các cầu thủ BTT nay chắc đang hăng say lao động cải tạo, thu hoạch kim chi trên cánh đồng để mừng lãnh tụ mới của BTT sắp lên :D!

HLV BTT thì bị buộc tội hèn nhát và bạc nhược và phải đi lao động công ích trong vòng 1 năm, mỗi ngày phải làm việc như một công nhân bình thường 12h tiếng và mọi quyền lợi bị cắt bỏ [>:p]. [style="font-size: 10pt;"][style="font-family: verdana;"]

Thế nên ta không mong có trận đấu VN-Brazil làm gì mà nên tập trung vào thắng tuyển Thailand cái đã.

Nước Nga cũng vậy. Gấu Nga bây giờ đã biết điều hơn, chỉ lo phòng thủ nước Nga cho tốt là OK lắm rồi. Vũ khí của Nga thế nào, nói chung mọi người cũng đánh giá được và có thể nói là hợp túi tiền của nhiều nước. Vì thế nên Nga mới là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ 2 trên TG, sau Mỹ và trên Đức. Thế nhưng Nga cũng đã nếm các bài học về các vũ khí hàng đầu của mình, điển hình là sau vụ tai nạn tàu ngầm nguyên tử Nga Kursk làm chết 200 người từ năm 2000 tới nay thì Nga quá hiểu sức mạnh quân sự khá hạn chế của mình, nhất là trong việc đảm bào an toàn cho bản thân các quân nhân của họ khi sử dụng vũ khí khí tài Nga.

Đến Hải quân Nga bây giờ cũng muốn nhập tàu chiến của nước ngoài, còn đối với HKDD Aeroflot thì tốt nhất là được bay trên các máy bay của phương Tây như là Boeing và Airbus :)

Việc của nước Nga bây giờ vì vậy là vực nền KT đi lên, không chỉ dựa vào xuất khẩu khí đốt và tài nguyên (ông TT gọi là kinh tế chất xám hay đại loại thế), thay vì đi tranh tước vương bá với US và TQ ?!

Các bác lại tám vui vẻ nhé, cũng có gì đâu, chỉ là chuyện ... máy bay máy bò thôi mà :)
 
Hạng F
22/10/09
8.170
31.664
113
Bác Golf ui, bộ có vụ HLV cuẫ đội BTT bị lao động khổ sai thiệt hả bác do thua đậm WC kỳ rùi??em ko rành vụ này lắm
 
Hạng B1
12/12/09
55
0
6
Các bác ở đây thích "đánh giặc mồm" quá
24.gif
. Vũ khí chưa đem ra bắn đánh nhau thật thì ông nào cũng nói mình hay hết. Vì sao ? Vì trước khi được đưa vào trang bị cho quân đội và xuất khẩu nó đã phải vượt qua nhiều cuộc thử nghiệm.
Khách quan mà nói thì phải công nhận máy bay Mỹ nhìn đẹp, nhiều trang bị điện tử hiện đại hơn đồ Nga. Nhưng đó đâu phải là tất cả, vũ khí tốt mà người dùng trình độ kém, hèn nhát thì cũng chỉ để chưng thôi. Bác grenade nhắc lại chuyện phi công miền Bắc hy sinh nhiều trong chiến tranh là một thực tế. Nhưng xét ở góc độ con người thì em khâm phục những phi công đó. Họ có giờ bay ít hơn phi công Mỹ, máy bay lạc hậu hơn nhưng vẫn dám cất cánh và đã bắn rơi được máy bay Mỹ.
Trước đây, B52 được gọi là "pháo đài bay", là bất khả chiến bại của không quân Mỹ. Nhưng rồi cũng bị SAM2 của LX bắn rơi trên bầu trời VN. F117 được gọi là tàng hình cũng bị tên lửa của LX bắn rơi ở Nam Tư. Vậy có phải là máy bay Mỹ kém tên lửa của LX (Nga) không ? Theo em là không. Vũ khí là do người dùng. Ở chiến trường Trung Đông, dân Ả rập xài vũ khí LX vẫn bị Israel "đập" cho tơi bời.
Mà bàn chuyện máy bay ở đây là cho vui với để biết thêm kiến thức. Làm gì mà mấy bác căng thẳng quá
21.gif
.
 
Last edited by a moderator:
Hạng F
9/3/06
6.462
3.897
113
Sì Gòn
theo nhiều tài liệu khác nhau thì số lượng máy bay chiến đấu Mỹ bị bắn rơi ở VN là do pháo phòng không là chủ yếu, còn tên lửa đất đối không SAM bắn được khá ít chỉ ~ tương đương với Mig-21 bắn. Do số lượng SAM ít hay là do khả năng của SAM yếu nhỉ?
 
Hạng D
30/8/10
1.254
270
38
DaiThang No.1
rubykoifarm.com
[H2][] Lịch sử[/H2]
Trung tướng Hoa Kỳ và phái đoàn của ông thăm các chỉ huy Không quân Nhân dân Việt Nam tháng 5/2007


[UL][*]Ngày 9 tháng 3 năm 1949: Đại tướng - ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc . Năm 1951 giải thể ban này, nhập vào lực lượng pháo binh và phòng không[*]Ngày 3 tháng 3 năm 1955: ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc . Ngày này được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.[*]Ngày 24 tháng 1 năm 1959: Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.[*]Ngày 1 tháng 5 năm 1959, tại sân bay Gia Lâm, trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, trung đoàn 919 ra đời. (nay là Đoàn bay 919 của Hàng không Việt Nam)[*]Ngày 22 tháng 10 năm 1963: Cục Không quân sáp nhập với Bộ Tư lệnh Phòng không thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Lực lượng không quân lúc đó chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện).[*]Tháng 3 năm 1967: thành lập Bộ Tư lệnh Không quân[*]Ngày 16 tháng 5 năm 1977: thành lập Quân chủng Không quân. Quân chủng Không quân gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích-bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát,... và tồn tại đến năm 1999.[*]Từ ngày 3 tháng 3 năm 1999: trở lại là một thành phần (gồm một số binh chủng) trong Quân chủng Phòng không-Không quân. [/UL] [H3][] Sự hình thành các trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên[/H3]
Đoàn không quân "Sao Đỏ", đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang góp phần xứng đáng trong trận


Ngay từ tháng 3 năm 1956, các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Đoàn học lái máy bay tiêm kích có 50 người, do Phạm Dưng làm trưởng đoàn (sau này thay) được cử sang học tập tại .
Lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đầu tiên được thành lập là , mật danh là Đoàn Sao Đỏ, thành lập ngày năm 1963[/SUP], do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng. Trung đoàn này được huấn luyện trên - . Tuy nhiên, mãi đến ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên mới được tổ chức tại Mông Tự, tỉnh , Trung Quốc. Ban đầu Trung đoàn có 33 chiếc máy bay chiến đấu kiểu , 3 chiếc máy bay huấn luyện kiểu , số phi công có 70 người, được đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số máy bay được viện trợ. Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn trở về nước.
Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân tiêm kích thứ 2 là Trung đoàn 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.
Đến cuối năm 1965, Không quân Việt Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do viện trợ, tuy nhiên, mãi đến tháng 3 năm 1966, số máy bay này mới về đến Việt Nam. Một số phi công giỏi của Trung đoàn 921 được đưa sang Liên Xô để huấn luyện chuyển loại như , , ...
Cũng trong đầu năm 1966, viện trợ cho Việt Nam một số máy bay J-6, một biến thể của . Với số máy bay này, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 được thành lập tại với phiên hiệu Trung đoàn 925, với Trung tá Lê Quang Trung làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Mai Đức Toại làm Trung đoàn phó. Một số cán bộ, phi công Trung đoàn 923 được huấn luyện chuyển loại MiG-19 tại căn cứ Trường Không quân số 1 ở Tế Nam (Trung Quốc). Tuy nhiên, do tình hình chiến đấu ác liệt và ảnh hưởng của cuộc tại Trung Quốc nên mãi đến tháng 10 năm 1969, trung đoàn mới về nước tham chiến, đóng căn cứ tại Yên Bái.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z[/SUP]. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 1 tháng 12 năm 1971, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 4 được thành lập, với phiên hiệu là trung đoàn 927, căn cứ tại Thọ Xuân, vì vậy có mật danh Đoàn Lam Sơn. Thiếu tá , Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ nhiệm bay của Trung đoàn không quân 921 được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng. Thiếu tá Trần Ưng làm Chính ủy. Thiếu tá , đại úy Nguyễn Văn Nhiên và đại úy làm trung đoàn phó. Đại úy Nguyễn Văn Tỉnh làm Tham mưu trưởng. Toàn bộ máy bay MIG-21MF (có 4 giá treo vũ khí) giao cho Trung đoàn 921, và số MIG-21PFM (có 2 giá treo) được giao cho Trung đoàn 927.
[H3][] Lấy máy bay đối phương[/H3] Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam cũng có một số trường hợp đặc biệt hi hữu. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, , vốn là một Thiếu úy phi công trực thăng vũ trang của bị sa thải, thực chất là một được cài vào , đã đánh cắp một chiếc máy bay trực thăng vũ trang UH-1A tại và hạ cánh tại , thuộc vùng kiểm soát của .
Đúng 17 tháng sau, ngày 8 tháng 4 năm 1975, , cũng là một một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay phản lực chiến đấu F-5E, ném bom vào và sau đó hạ cánh tại sân bay dã chiến tại Phước Long. Không lâu sau đó, đúng 20 ngày sau, vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, cũng chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu một phi đội gồm 5 chiếc khu trục ném bom A-37 chiến lợi phẩm, đã ném bom , thực hiện trận đánh cuối cùng của Không quân Việt Nam trong cuộc . Phi đội gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Từ Đễ (3 phi công lái MiG-21 vừa mới học chuyển loại) và Trần Văn On (phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa được trưng dụng).
Khu vực đỗ máy bay của không lực Chính quyền Sài Gòn đã bị trúng 6 quả bom làm ít nhất 3 chiếc AC – 119 và một số chiếc C–47 bị phá hủy hoàn toàn. Hai quả bom khác rơi đúng điểm giữa tòa nhà Phòng tác chiến và tháp chỉ huy.
[H3][] Những tổn thất và vinh quang[/H3] Trước một đối phương chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng lẫn chất lượng, với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công có trên 1.000 giờ bay trên nhiều loại máy bay khác nhau, Không quân Việt Nam vào lúc cao điểm cũng không có quá 200 máy bay MiG-17/19/21 với chưa đến 100 phi công với số giờ bay ít ỏi, thì những tổn thất của phía Việt Nam là rất khó chịu đựng. Họ đã cố gắng cải thiện vấn đề này bằng nhiều biện pháp tổng hợp từ tinh thần đến chiến thuật đánh nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, các phi công Mỹ cũng không phải là những kẻ bất tài.
Phía Mỹ công bố trong thời gian từ 1965 đến 1973, họ đã có 194 phi công, trong đó có 143 là phi công F-4, đã bắn hạ MiG. Một tài liệu khác của công bố, trong suốt thời gian từ ngày 7 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973, các phi công Hải quân Mỹ đã hạ 60 chiếc MiG. Đặc biệt với chiến dịch Bolo vào năm 1967 và chiến dịch TopGun vào năm 1972 của người Mỹ đã làm không quân Việt Nam thiệt hại đến mức khủng khiếp, nhất là trên số lượng phi công ít ỏi của họ.
Riêng ngày 2 tháng 1 năm 1967, chiến dịch Bolo nhằm gài bẫy các MiG Việt Nam được thực hiện. Trong ngày này, có 6 MiG cất cánh, thì 5 chiếc bị bắn rơi tại chỗ, 4 phi công phải nhảy dù (trong đó có 3 người về sau trở thành hạng là Nguyễn Đăng Kỉnh, , ) và một phi công thiệt mạng, phía Mỹ không mất máy bay nào. Trong hai ngày sau, riêng đoàn 921 mất thêm 3 chiếc nữa. Trong vòng 3 ngày, Việt Nam tổn thất 9 máy bay trong tổng số 16 máy bay tham gia chuẩn bị chiến đấu.[/SUP] Hoặc trong ngày 10 tháng 5 năm 1972, các phi công Mỹ tốt nghiệp chương trình huấn luyện TopGun đã bắn hạ gần 10 chiếc MiG-17/19. Phía Việt Nam cũng thừa nhận thiệt hại trong vòng 3 ngày liên tiếp, họ mất gần 10 phi công giỏi.

Máy bay tiêm kích MIG 17 này đã được Nguyễn Văn Bảy B điều khiển ngày 19/4/1972 và ném bom trúng tàu khu trục Hibi đang thực hiện nhiệm vụ pháo kích Đồng Hới.


Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam còn bị tổn thất bởi chính những người đồng đội Phòng không của mình. Do số lượng máy bay Việt Nam rất ít, ngay trong không chiến, giữa đông đảo các máy bay của đối phương, các MiG cũng rất dễ bị lạc đạn trong lưới lửa phòng không Việt Nam. Ngoài ra, do ít thông tin, những người lính phòng không còn bắn nhầm trong nhiều trường hợp đáng tiếc. Ngoài trường hợp 3 máy bay MiG bị rơi, được cho là bị đạn cao xạ bắn nhầm ngày 4 tháng 4 năm 1965, tài liệu phía Việt Nam ghi nhận hai trường hợp MiG-17 và MiG-21 bị bắn rơi bởi tên lửa của Việt Nam làm 1 phi công chết, 1 bị thương nặng.[/SUP] Trong thời gian đầu , sự yếu kém do thiếu kinh nghiệm cũng làm phía Việt Nam mất nhiều phi công trẻ và máy bay, có lúc làm cho lực lượng không quân Việt Nam gần như tê liệt.
Tuy nhiên, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương. Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là , còn gọi là "Bảy A", phi công MiG-17, cũng đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ. Một phi công khác cũng cùng tên , thường được gọi là "Bảy B, từng chỉ huy một biên đội MiG-17 ngày năm 1972 cất cánh từ sân bay Khe Gát, Quảng Bình ném trúng 2 quả bom 250kg vào tàu khu trục Mỹ Highbee. Đây cũng là lần đầu tiên cho không quân của một quốc gia khác tiến công hạm đội Mỹ kể từ sau .
Đặc biệt cho tới hiện nay chỉ có Không quân Nhân dân Việt Nam là dám đối đầu và bắn rơi máy bay , một loại siêu pháo đài bay hiện đại của không quân Hoa Kỳ bấy giờ. Trong Chiến tranh Việt Nam, có ba siêu pháo đài bay loại này được cho là do Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi, trong đó nổi tiếng nhất là trận thực hiện vào đêm 27 tháng 12 năm 1973, do phi công lái chiếc máy bay MiG-21FM đã bắn hạ 1 B-52 bằng 2 quả đạn tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2[/SUP]. Trong khi đó, chỉ có 3 nhóm phi công Mỹ đạt đẳng cấp "Ách" (đều là phi công lái F-4) và người cao nhất là Hoa tiêu, Đại úy Không quân Chuck E. DeBellevue đã bắn hạ được 6 máy bay. Hai tổ lái còn lại là tổ lái của Ritchie Richard (phi công) và Feinstein Jeffrey S. (hoa tiêu) của Không quân và tổ lái Cunningham Randolph (phi công) và Driscoll William (hoa tiêu) của Hải quân, đều hạ 5 chiếc.
Các phi công Mỹ còn lưu truyền về một phi công MiG-17 được họ gọi bằng biệt hiệu (hay Tomb) với số lần bắn hạ đối phương là 13 lần, về sau bị một "Ách" của Hải quân Hoa Kỳ là Đại úy Randy "Duke" Cunningham bắn rơi. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn, tuy nhiên Đinh Tôn lại lái chiếc MiG-21 và không được xếp vào nhóm "Ách". Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Sau này, Đại tá Toon được xác nhận là một nhân vật tưởng tượng của các phi công Mỹ và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là một thiện ý của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sỹ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.
Theo một thống kê, tổng cộng trong chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam tuyên bố đã bắn hạ 340 máy bay các loại của Mĩ[/SUP][/SUP], và tổn thất theo Hoa Kì tuyên bố là 103 máy bay các loại đạt tỉ lệ 1 đổi 3,3. Đây là một kì công nhất là với đội trang bị cũ kĩ và số giờ bay thấp của các phi công.
Có thể tham khảo thành tích của các phi công tại
[H2][] Quá trình hiện đại hóa[/H2] Ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập 2 trung đoàn trực thăng 917 và 918, và 2 trung đoàn máy bay chiến đấu 935 và 937. Các trung đoàn này được trang bị các máy bay chiến lợi phẩm của và tham chiến ở .
Năm 1979, Việt Nam được viện trợ một số máy bay tiêm kích-bom hiện đại . Số máy bay này được chuyển giao cho trung đoàn 923. Ngày 25 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn Không quân tiêm kích 929 được thành lập, với nòng cốt các bộ, phi công từ các trung đoàn 935, 937 chuyển sang.
Hầu hết máy bay sử dụng thời kỳ này là mua với giá ưu đãi từ Liên Xô và các chiến lợi phẩm được đắp đổi, nhằm thay thế dần số MiG-17 và MiG-19 đã quá cũ. Tuy nhiên, từ giữa thập niên 1980, do sự sụp đổ của khối , những ưu đãi về mua sắm trang thiết bị không còn, cộng với các máy bay chiến lợi phẩm không có phụ tùng thay thế do bị cấm vận, rất nhiều máy bay bị thải loại hoặc nằm im do không có phụ tùng thay thế. Không quân Việt Nam cố gắng duy trì hoạt động bằng cách mua lại với giá rẻ các máy bay MiG-21 hoặc Su-22 đã qua sử dụng từ các nước Đông Âu đang chuyển sang gia nhập khối . Cuối thập niên 1980, trung đoàn 937 được tiếp nhận những máy bay Su-27SK/UB đầu tiên của Việt Nam. Đây là thế hệ máy bay hiện đại nhất mà Việt Nam có, được mua sắm với giá thị trường. Lần lượt trong những năm tiếp theo, do thiếu kinh phí, Không quân Việt Nam đành tạm hài lòng với khoản nâng cấp, kéo dài tuổi thọ của các máy bay MiG-21 và Su-22, dù số giời bay huấn luyện càng lúc càng giảm cũng như số tai nạn do thiết bị cũ tăng lên. Dù vậy, họ vẫn tiếp tục mua sắm các máy bay hiện đại Su-27/30 hiện đại hơn, dù chỉ với số lượng ít và nhỏ giọt.
Trong những năm gần đây, đứng trước sức ép của Trung Quốc trong vấn đề , Việt Nam bắt đầu cương quyết hơn trong việc trang bị cho lực lượng không quân của mình nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Những hợp đồng trang bị mới nhất cho thấy việc gia tăng trang bị những mẫu máy bay chiến đấu hiện đại như Su-30 hoặc những quan tâm đến mẫu tiêm kích thế hệ mới nhất như MiG-35, cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường sức mạnh không quân của mình.[/SUP][/SUP]
[H2][] Chỉ huy, lãnh đạo qua các thời kỳ[/H2] [H3][] Ban Nghiên cứu Không quân[/H3] [UL][*]Trưởng ban: Hà Đổng[*]Chính trị viên: Trần Hiếu Tâm [/UL] [H3][] Ban Nghiên cứu Sân bay[/H3] [UL][*]Trưởng ban: (tháng 3-tháng 5 năm 1955), (tháng 5 năm 1955-1959)[*]Chính ủy: (1955-1959) [/UL] [H3][] Cục Không quân[/H3] [UL][*]Cục trưởng: Đại tá Đặng Tính (1959-1963)[*]Chính ủy: Thượng tá Hoàng Thế Thiện (1959-1963) [/UL] [H3][] Các Tư lệnh[/H3] [UL][*]1963-1967: Đại tá (Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân) [/UL] [H4][] Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân[/H4] [UL][*]Tháng 3 năm 1967: Thượng tá[*]1967-1977: Thượng tá, Đại tá, rồi Thiếu tướng[*]1999-?: ? [/UL] [H4][] Quân chủng Không quân[/H4] [UL][*]1977-1986: Thiếu tướng (1975), Trung tướng (1980) Đào Đình Luyện[*]1986-1989: Thiếu tướng[*]1989-1996: Trung tướng[*]1996-1997: Thiếu tướng (Quyền Tư lệnh)[*]1997-1999: Thiếu tướng [/UL] [H3][] Các Chính ủy và Phó Tư lệnh Chính trị[/H3] [UL][*]1963-1967: Đại tá Đặng Tính (Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân)[*]1967-1969: Thượng tá Đào Đình Luyện [/UL] [H4][] Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân[/H4] [UL][*]Tháng 3 năm 1967: Thượng tá Phan Khắc Hy[*]1967-1977: Trung tá Đỗ Long[*]1999-?:? [/UL] [H4][] Quân chủng Không quân[/H4] [UL][*]1977-1980: Thiếu tướng Đào Đình Luyện[*]1980-1987: Thiếu tướng[*]1987-1989: Thiếu tướng[*]1989-1996: Thiếu tướng[*]1996-1999: Thiếu tướng [/UL] [H2][] Lực lượng không quân Việt Nam hiện nay[/H2] Hầu hết các máy bay của được cung cấp bởi . Một phần do và bỏ lại sau . Một số lớn máy bay này đến nay đã không còn sử dụng được nữa.
[H3][] Lực lượng máy bay hiện nay (con số ước lượng)[/H3] Tên máy bay Nước sản xuất Chủng loại Phiên bản Số lượng Ghi chú
22px-Flag_of_Russia_%28bordered%29.svg.png
[/color] Máy bay tiêm kích cao cấp Su-30MK 30 4 chiếc đặt mua năm 2004 (MK), 6 chiếc đặt mua 2008 (MKK) + 8 chiếc đặt mua 1-2009 (MK2) + 12 chiếc đặt mua 2-2010 (MK2V). Số lượng sử dụng hiện tại khoảng 12 chiếc, còn lại đang chờ chuyển giao.
22px-Flag_of_Russia_%28bordered%29.svg.png
Máy bay tiêm kích cao cấp Su-27 36SK & 4UBK (phiên bản 2 chỗ ngồi) Một chiếc bị rơi trong khi bay tập
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay tiêm kích MiG-21 250 Ước tính chỉ còn dưới 200 chiếc có khả năng hoạt động.
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay tấn công mặt đất Su-22 150 1 chiếc bị rơi tại Thanh Hóa ngày 9/6/2009 khiến đại úy phi công Trần Thanh Nghị tử nạn
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay phản lực (huấn luyện) MiG-21 24 * 1 chiếc bị rơi tại Yên Bái ngày 12/11/2009 khiến 2 phi công tử nạn gồm có thượng tá Nguyễn văn Vinh trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 931 và thượng úy Đặng Hồng Vinh (nguồn: VNExpress.net)
* 1 chiếc bị rơi tại xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, ngoại ô thủ đô Hà Nội vào ngày 7/7/2010, phi công đã kịp thời nhảy dù. (nguồn: VNExpress.net)
22px-Flag_of_Czechoslovakia.svg.png
Máy bay phản lực (huấn luyện) L-39C 34
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay cánh quạt (huấn luyện) Yak-52 36 Hiện chỉ còn 16 chiếc có khả năng hoạt động. và một số máy bay của hãng (Vietnam Airlines) có thể được trưng dụng vào vận tải quân sự Máy bay vận tải hạng trung Tổng cộng
C-130B
C-130E 7
3
4 Các máy bay C130B sẽ không trở lại hoạt động như dự tính ban đầu (2008) nhưng thay thế vào đó là C-130J hay C-27J Spartan.
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay vận tải An-26 48 Chỉ còn 20 chiếc có khả năng hoạt động.
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
/
22px-Flag_of_Ukraine.svg.png
Máy bay vận tải đường bay nội địa An-24 12 Tất cả An-24 đã chuyển giao cho Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam.
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay vận tải An-38 6 Phiên bản mở rộng của . Đã chuyển giao cho Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam.
22px-Flag_of_Poland.svg.png
Máy bay vận tải PZL M-28 10 Phiên bản mở rộng với tầm bay cao. 1 chiếc bị rơi, 2 đã được chuyển giao.
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Máy bay vận tải cánh quạt sử dụng đường băng ngắn An-2 15 Ít nhất 5 chiếc sẽ được trang bị 5 ống phóng rocket Ub-16 để dùng cho nhiệm vụ tấn công trong tuần tra trên không (FAC)
22px-Flag_of_Canada.svg.png
Máy bay tuần tra biển DHC-6 6 Thời gian giao hàng từ 2012 đến 2014.
22px-Flag_of_Spain.svg.png
Máy bay trinh sát CASA C.212-400 3, năm 2010 quân đội Việt Nam đã đặt hàng thêm 5 chiếc loại này.[/SUP][/SUP][/SUP]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng chiến đấu Mil Mi-24A/D 36
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng vận tải Mil Mi-8 66
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng vận tải Tổng cộng
Mil Mi-17Sh
Mil Mi-172 69
27
18
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng vận tải hạng nặng Mi-6 10-15
22px-Flag_of_Poland.svg.png
Trực thăng vận chuyển nhân vật quan trọng/Trực thăng cứu hộ Tổng cộng
PZL W-3S
PZL W-3RM 8
4
4
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng cứu hộ Ka-32 5
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng chống ngầm Ka-25 6
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
Trực thăng chống ngầm và cảnh báo sớm trên không Ka-27 19
22px-Flag_of_France.svg.png
Trực thăng chống ngầm SA-365 N2 5 nhận được từ
22px-Flag_of_France.svg.png
Trực thăng đa chức năng hạng nhẹ AS-350 B3 5 nhận được từ
22px-Flag_of_France.svg.png
Trực thăng dân dụng SA-330J 9 nhận được từ
22px-Flag_of_France.svg.png
Trực thăng dân dụng AS-332L2 7 nhận được từ . Một chiếc Super Puma mất tích khi đang làm nhiệm vụ chuyên chở cho một nhà giàn ở ngoài khơi vào năm 2007. Trực thăng đa chức năng UH-1H 15 Hoạt động trở lại vào năm 2007. Các máy bay loại khác
22px-Flag_of_Vietnam.svg.png
Thủy phi cơ hạng nhẹ VNS-41 7-12? ULM là thủy phi cơ hạng nhẹ, được nghiên cứu chế tạo thử nghiệm trong nước từ tháng 6 năm .[/SUP]
22px-Flag_of_Vietnam.svg.png
[/size] Máy bay trinh sát không người lái M-400 12? Tự sản xuất từ Không còn được sử dụng do thiếu thiết bị điện tử định vị GPS. Năm 1996, Không quân nhân dân Việt Nam đã đàm phán mua 2 phi đội máy bay từ Pháp nhưng bị ngăn cản vì của Hoa Kỳ với Việt Nam.
[H3][] Các máy bay không còn sử dụng[/H3] [UL][*]
22px-Flag_of_Czechoslovakia.svg.png
- Máy bay huấn luyện cơ bản (8)[*]
22px-Flag_of_Czechoslovakia.svg.png
- Máy bay huấn luyện (3)[*]
22px-Flag_of_Czechoslovakia.svg.png
- Máy bay phản lực huấn luyện (12)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay vận tải (24)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay oanh tạc hạng trung (16)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay vận tải (45)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay vận tải (7)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay vận tải chuyên cơ (15)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Thủy phi cơ oanh tạc/chống ngầm/tuần tra biển (4)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay tiêm kích phản lực (50)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay tiêm kích phản lực (77)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay tiêm kích phản lực (45)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay tiêm kích-ném bom (30)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Trực thăng hạng nhẹ chở bộ binh(24)[*]
22px-Flag_of_the_Soviet_Union.svg.png
- Máy bay trinh sát (8)[*]- máy bay cánh quạt cuờng kích (24)[*]- máy bay phản lực cường kích (15 chiếc loại này đã dược bán thanh lý)[*]- máy bay tiêm kích siêu âm hạng nhẹ (18 chiếc loại này đã được bán thanh lý)[*]- Máy bay vận tải (13)[*]- Máy bay vận tải hạng trung (4)[*]- Trực thăng vận tải hạng nặng (23)[*]- Chỉ huy chiến trường/trinh sát chụp ảnh (13)[*]- Huấn luyện cơ bản/tấn công ban ngày (14)[*]- Máy bay phản lực dùng cho huấn luyện (9) [/UL] Một vài trực thăng loại , , đã được bán đấu giá vào năm 1998 và hiện đang thuộc quyền sở hữu của một vài doanh nghiệp và cá nhân thuộc , , và .
[H3][] Các trung đoàn, sư đoàn bay[/H3]
Máy bay trinh sát M-28 tại Gia Lâm, Hà Nội


Tên Loại máy bay sử dụng Vị trí Quân chủng Sư đoàn 371 Thăng Long Trung đoàn 921 Sao Đỏ Trung đoàn 923 Yên Thế Trung đoàn 925 Trung đoàn 927 Lam Sơn Trung đoàn 931 , Trung đoàn 916 Ba Vì , , Trung đoàn 918 Hồng Hà , , , Sư đoàn 370 Lê Lợi Trung đoàn 937 Hậu Giang Trung đoàn 935 Đồng Nai , Trung đoàn 917 Đồng Tháp , , Sư đoàn 372 Hải Vân Trung đoàn 929 Trung đoàn 954 , , Trung đoàn 910 , Trung đoàn 920 , Trung đoàn 940 , Tiểu đoàn căn cứ sân bay Vinh Tiểu đoàn căn cứ sân bay Pleiku Tham khảo tại
Ka 25 và Ka 28 đang có mặt tại Phan Rang
Kế hoạch hiện tại của Không quân Nhân dân Việt Nam là, cho đến năm 2015 sẽ tiếp tục thành lập thêm 3 trung đoàn không quân với cơ số 3 x 24 chiếc Su-30.
Các trường không quân ở và là hai nơi đào tạo phi công cho không quân hiện nay.
[H2][] Một số trận không chiến tiêu biểu[/H2] Chiến công đầu tiên của Không quân Việt Nam do Trung đoàn không quân vận tải 919 lập. Đêm 15 tháng 2 năm 1965, chiếc (thu được do một phi công phản chiến hạ cánh xuống san bay Bạch Mai) do Nguyễn Văn Ba làm lái chính, Lê Tiến Phước làm lái phụ bắn rơi tại chỗ một chiếc của Mỹ gần biên giới Việt-Lào. Nguyễn Văn Ba đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 8 năm 1995.
Trận không chiến đầu tiên của MiG-17 là vào ngày 3 tháng 4 năm 1965, tại trận đánh bảo vệ , với phi đội 4 chiếc MiG-17 đã tấn công vào đội hình và mang bom của . Hai chiếc F-8 Crusaders đã bị bắn trúng nhưng không rơi tại chỗ mà cố chạy được ra biển. Ba chiếc MiG-17 về hạ cánh an toàn, một chiếc của phi đội trưởng hết dầu phải hạ cánh xuống bãi .
Trận đánh tiếp theo diễn ra ngay hôm sau với 3 phi đội cất cách, trong đó có 2 phi đội nghi binh và bảo vệ, một phi đội công kích thẳng vào tốp mang bom tấn công , do Thiếu tá Frank Bennett làm dẫn đầu. Phía Mỹ có 2 chiếc F-105 bị MiG-17 bắn trúng. Chiếc do Đại úy James Magnusson lái rơi trên đường thoát ra biển, chiếc do Thiếu tá Frank Bennett rơi khi hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay . Cả hai phi công đều chết. Phía Không quân Việt Nam mất 3 chiếc MiG. Một chiếc do Lê Minh Huân lái rơi gần bờ biển Sầm Sơn, gần xác chiếc F-105 do chính anh bắn hạ. Hai chiếc còn lại, do Phạm Giấy và Trần Nguyên Năm lái, bị rơi ở gần khu vực cầu Hàm Rồng. Cả 3 chiếc đều không có ghi nhận nào bị bắn rơi từ phía Mỹ, có khả năng bị chính súng phòng không của Việt Nam bắn rơi. Một chiếc duy nhất còn lại, do phi đội trưởng lái và cũng là chiếc đã bắn hạ Thiếu tá Frank Bennett, hết dầu và hỏng nên phải hạ cánh xuống lòng một con suối cạn thuộc bản Ké Tằm, huyện , tỉnh .
Chiến công đầu tiên của MiG-21 là bắn rơi máy bay do thám không ngưòi lái Ryan Firebee của phi công vào ngày 4 tháng 3 năm 1966.
Không quân Việt Nam ghi nhận có 3 trường hợp MiG-21 tấn công pháo đài bay và họ tự hào là lực lượng không quân duy nhất trên thế giới tấn công trực tiếp được loại máy bay này thời bấy giờ. Trường hợp đầu tiên do phi công bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc B-52 bị hư hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, . Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do bắn rơi tại chỗ vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công thực hiện. Một số bài báo viết rằng sau khi đã phóng đi cả hai quả mà không hạ được B-52, Vũ Xuân Thiều đã lao máy bay của mình vào hạ B-52 theo lối đánh cảm tử. Tuy nhiên, nhiều tài liệu lịch sử của Phòng không và Không quân nhân dân Việt Nam xác định do bắn B-52 ở cự ly quá gần nên máy bay của Vũ Xuân Thiều bị các mảnh nổ của B-52 văng ra, bốc cháy và rơi cách chiếc B-52 bị anh hạ khoảng 1 km tại Phù Yên, Sơn La.[/SUP][/SUP][/SUP]
Trận không chiến cuối cùng giữa Không quân Việt Nam và diễn ra vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Phía Việt Nam công bố, chiếc máy bay MiG-21 do phi công Trần Việt điều khiển đã bắn hạ 3 chiếc F-4. Phía Mỹ chỉ công nhận rơi 2 chiếc.
[H2][] Một số máy bay MiG-21 nổi tiếng[/H2]
Chiếc máy bay tiêm kích MiG-17 mang số hiệu 2011 mà Ngô Đức Mai đã lái hôm 12 tháng 5 năm 1967 và bắn hạ máy bay của Norman Carl Gaddis.



MiG-21 F94 số 5020 của Đoàn 927 Không quân Nhân dân Việt Nam đã được nhiều anh hùng lục lượng vũ trang Việt Nam lái trong thời gian Chiến tranh Việt Nam.


Một số chiếc máy bay MiG-21 nổi tiếng được ghi nhận:
[UL][*]Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4420 do phi công Nguyễn Ngọc Độ (đoàn 921) lái. Chiếc này đã hạ 6 máy bay đối phương.[*]Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4520 do phi công là (đoàn 921) lái, hạ 8 máy bay. Hiện được trưng bày tại bảo tàng quân đội Thái Nguyên.[*]Chiếc MiG-21 PF số hiệu 4324 thuộc đòan 921, được sử dụng bởi 9 phi công khác nhau trong đó có phi công "Át" Nguyễn Đăng Kỉnh. Chiếc này đã bắn rơi 14 máy bay trong khoảng thời gian tháng 11 năm 1967 đến tháng 5 năm 1968, trong đó Nguyễn Đăng Kỉnh đã hạ 6 chiếc. Đây là chiếc máy bay "may mắn" vì không chỉ nó có số lượng máy bay do nó bắn hạ cao n
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
30/8/10
1.254
270
38
DaiThang No.1
rubykoifarm.com
[H3]VIETNAM [/H3] [H4]War In Vietnam [/H4] [PRE]NAME VICTORIES UNITS COMMENTS Nguyen Van Coc 9 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Pham Thanh Ngan 8 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Hong Nhi 8 921st "Sao Dao" Fighter Rgt 1. Mai Van Cuong 8 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Van Bay 7 923rd "Yen The" Fighter Rgt Dang Ngoc Ngu 7 (6) 921st "Sao Dao" Fighter Rgt 2. Vu Ngoc Dinh 6 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Tiem Sam 6 927th "Lam Son" Fighter Rgt Nguyen Nhat Chieu 6 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Ngoc Do 6 921st "Sao Dao" Fighter Rgt 3. Nguyen Doc Soat 6 927th "Lam Son" Fighter Rgt Nguyen Dang Kinh 6 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Ba Dich 6 923rd "Yen The" Fighter Rgt Luu Huy Chao 6 (8) 923rd "Yen The" Fighter Rgt 4. Le Thanh Dao (Le Thanh Do) 6 927th "Lam Son" Fighter Rgt 5. Le Hai 6 923rd "Yen The" Fighter Rgt Vo Van Man 5 923rd "Yen The" Fighter Rgt Phan Van Tuc 5 921st & 923rd Fighter Rgt Pham Ngoc Loan 5 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Van Nghia 5 927th "Lam Son" Fighter Rgt Nguyen The Hon 5 923rd "Yen The" Fighter Rgt Ngo Duc Hai 5 923rd "Yen The" Fighter Rgt Kyong Hai 5 Hoang Van Ky 5 923rd "Yen The" Fighter Rgt Guen Doc 5 927th "Lam Son" Fighter Rgt 6. Cao Thanh Tinh 5 923rd "Yen The" Fighter Rgt Do Van Lanh 4 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Dong Van Song 4 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Phan Thanh Trung 3 923rd "Yen The" Fighter Rgt Le Trong Huyen 3 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Ha Bon 3 Duong Truong Tan 3 923rd "Yen The" Fighter Rgt Tran Huyen 2 923rd "Yen The" Fighter Rgt Tran Hahn 2 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Pham Phu Thai 2 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Pham Ngoc Lan 2 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Pham Hung Son 2 925th Fighter Rgt Nguyen Van Phong (Le Van Phong) 2 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Van Minh 2 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Hong Son (Nguyen Hung Son) 2 925th Fighter Rgt Nguyen Hong Diep 2 923rd "Yen The" Fighter Rgt Ngo Duy Thu 2 927th "Lam Son" Fighter Rgt Mai Duc Toai 2 923rd "Yen The" Fighter Rgt Lam Van Lich 2 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Ho Van Quy 2 923rd "Yen The" Fighter Rgt Ha Vinh Thanh 2 927th "Lam Son" Fighter Rgt Vu Xuan Thieu 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Vu Duc Hop 1 927th "Lam Son" Fighter Rgt Vu Dinh Rang 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Truong Ton 1 927th "Lam Son" Fighter Rgt Tran Van Phuong 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Tran Ngoc Xiu 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Phan Thanh Tai 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Phan Dinh Tuan 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Pham Tuam 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Van Tho 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Van Ba 1 919th Fighter Rgt Nguyen Phi Hung 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Ngoc Tiep 1 925th Fighter Rgt Nguyen Manh Tung 1 925th Fighter Rgt Nguyen Huu Tao 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Huu Diet 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Duc Thuan 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Duc Nhu 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Nguyen Dinh Phuc 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Nguyen Bien 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Ngo Van Phu 1 927th "Lam Son" Fighter Rgt Ngo Doan Hung 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Luong Duc Truong 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Le Tron Long 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Le Minh Huan 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Hoang Quoc Dung 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Ha Van Chuc 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Han Vinh Tuong 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Dinh Ton 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Bui Van Suu 1 923rd "Yen The" Fighter Rgt Bui Thanh Liem 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt Bui Duc Nhu 1 921st "Sao Dao" Fighter Rgt unknown 49 921st, 923rd, 925th & 927 Fighter Rgt [/PRE] Comments: [OL][*]Some sources present that Nguyen Hong Nhi was flying with 923rd Fighter Regiment (Taras, P.: Wietnam 1964-73, Walki nad DRW, Kampanie Lotnicze Nr. 2, A.J.Press 1994).[*]Some sources present that Dang Ngoc Ngu got 6 victories in total and that he was flying with 927th Fighter Regiment (Taras, P.: c.d.).[*]Some sources present that Nguyen Ngoc Do was flying with 923rd Fighter Regiment (Taras, P.: c.d.).[*]Some sources present that Luu Huy Chao got 8 victories in total (Taras, P.: c.d.).[*]Some sources present that Le Thanh Dao was flying with 925th Fighter Regiment (Taras, P.: c.d.).[*]Source - Taras, P.: c.d. [/OL]
<hr/>
nvc.jpg

Nguyen Van Coc - Top Ace of Vietnam War with 9 kills

aircraft_f-6.vs.f-4s.jpg
<hr/>
 
Last edited by a moderator:
Hạng F
9/3/06
6.462
3.897
113
Sì Gòn
@thang real: chóng mặt quá, bác đưa link qua được rồi, đâu cần copy nguyên bài qua như vậy, hic, chữ xanh lá cây
43.gif
43.gif
43.gif
 
Hạng D
30/8/10
1.254
270
38
DaiThang No.1
rubykoifarm.com
F-111 trong chiến tranh Việt Nam
18.10.2008 23:00
1224345532.nv.jpg
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, từ tháng 3-1965 đến tháng 11-1968, Không quân Mỹ (KQM) chủ yếu dùng máy bay F-105D Thần sấm. Được gọi là "lính xung kích của Mr Namara" nhưng loại này có đầy nhược điểm: tốc độ bay chậm, chỉ cường kích được ở trạng thái bổ nhào, tính cơ động tránh hoả lực phòng không kém, khả năng tự vệ kém nên phải có tiêm kích F-4 Con ma bay hộ tống. Điểm yếu nhất của F-105D là chiếc động cơ kiểu J-75-P-10W thường nổ tung ngay khi hỏng hóc, dẫn đến tổn thất lớn về phi công và máy bay. Riêng năm 1967 có 1.067 máy bay các loại bị hạ, trong số 600 chiếc F-105D trên chiến trường Đông Dương thì có tới khoảng 400 chiếc F-105D bị loại khỏi vòng chiến đấu, bởi vậy giới quân sự Mỹ chấm dứt sản xuất loại này. Đồng thời các nhà chế tạo quân sự cũng ra sức cải tiến loại máy bay F-4 Con ma gồm các kiểu B, C, D, E, G, H, J làm mọi chức năng chiến thuật như cường kích, tiêm kích, trinh sát v.v… Nó có ưu điểm: có hai buồng lái cho hai phi công nên có thể kết hợp một số nhiệm vụ chức năng công tác cùng một lúc; với kiểu động cơ kép gồm 2 chiếc J79-GE-17A, loại này khi cháy hỏng vẫn không bị nổ; bởi vậy nhiều trường hợp máy bay bị chết một bên động cơ vẫn bay về được tới căn cứ. Mỹ đã từng sản xuất 5.195 chiếc F-4 các loại. Tuy vậy máy bay F-4 vẫn có những nhược điểm: không hoạt động tốt được dưới 500 mét nên dễ bị ra-đa phòng không phát hiện; mang tải không lớn (3,2 tấn bom so với F-105D là 5,4tấn); tự trọng nặng 24 tấn nên khi chiến đấu, vận tốc lên cao nhỏ cho nên khi lâm trận không chiến trường rơi vào thế bị động… Bởi vậy các tổ hợp quân sự Mỹ vẫn ấp ủ ý đồ chế tạo được một kiểu máy bay mới khắc phục được các nhược điểm trên, hơn thế nữa nó phải thay thế được cả máy bay ném bom chiến lược B-52 Pháo đài bay mà loại này thường bất đăc dĩ phải dùng làm nhiệm vụ chiến thuật.

Cuối tháng 11-1967 khi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất lên tới đỉnh cao, bộ chỉ huy Tập đoàn không quân số 7 trên đất Thái Lan tổ chức tại sân bay Tăcli hội nghị lấy lên là "Cuộc họp của những người hoạt động ở thung lũng Sông Hồng", thành phần gồm Ban chỉ huy và 20 phi công lão luyện nhất của các Liên đội 338 (sân bay Còrạt), Liên đội 335 (sân bay Tăcli), Liên đội 8 (sân bay Ubon), Liên đội 432 (sân bay Uđon). Hội nghị đưa ra một số giải pháp nhằm giảm thiệt hại về máy bay, trong đó có việc đưa loại máy bay mới nhất là F-111 sang chiến trường Đông Dương.

Máy bay phản lực F-111 do hãng General Dynamics chế tạo, là loại ném bom chiến thuật-chiến lược kiểu động cơ kép-hai người lái, lần đầu tiên bay thử năm 1965. Thân dài 22,4m; sải cánh lúc "xoè" rộng 19,2m, lúc "cụp" 9,47m; chiều cao 5,52m; trọng lượng rỗng 20,943 tấn, trọng lượng cực đại 41,5 tấn. Khi bay cao 18km vận tốc cực đại đạt 2,2 Mach (gấp 2,2 lần vận tốc âm thanh), tốc độ trung bình 800-1000km/h, tốc độ hạ cánh 185km/h, bán kính hoạt động 5.093km, sức tải tối đa 13,610 tấn bom. Sở dĩ gọi nó là "cánh cụp cánh xoè" vì cánh trước có cơ cấu điều khiển động lực học: khi mang tải nặng hai cánh trước xoè ra để tăng tiết diện nhằm tăng lực nâng của không khí; khi đã trút bom xong trọng lượng máy bay giảm, đôi cánh trước gấp xuôi về phía sau để giảm tiết diện nhằm giảm lực cản, máy bay như hình mũi tên bay thoát ly khỏi chiến sự nhanh hơn. Trạng thái mức độ "cụp xoè" tuỳ theo tải trọng do máy tính thực hiện. Nó có ra-đa tự động tính toán địa hình để bay được rất thấp từ 80m đến 200m, hoạt động tốt trong mọi thời tiết nhất, là ban đêm. Do được trang bị thiết bị cảnh báo phát hiện ra-đa đối phương và gắn tên lửa đối không nên F-111 có thể độc lập tác chiến mà không cần máy bay dẫn đường và tiêm kích bay kèm.


Chuyền đề về máy bay.


Tháng 3-1968, từ bang Nevada, KQM đưa sang chiến trường Đông Dương 6 chiếc F-111, nó bay vượt Thái Bình Dương sang đậu tại sân bay Tăcli (Thái Lan). Đây là lần đầu tiên F-111 được đưa vào thử nghiệm thực tế chiến đấu, phương thức là: từng chiếc một bay trong đội hình cường kích F-4, cùng bổ nhào ném bom với F-4 để so sánh hiệu quả. Song qua một số trận đánh kết quả thật bi đát:

- Ngầm Khe Tang nằm trên Đường 15, qua huyện Hương Sơn, miền Tây Hà Tĩnh, là một trong những trọng điểm giao thông ác liệt trên đường vào chiến trường. Ngay sát ngầm là trận địa Đại đội 12 pháo cao xạ 85ly (Tiểu đoàn 11, Trung đoàn cao xạ 280). Hồi 10h15' sáng ngày 28-3-1968, tốp địch gồm 4 máy bay bổ nhào đánh phá ngấm, trong tốp có 3 chiếc F-4H và một chiếc kiểu mới lạ to hơn và bay nhanh hơn nên Đại đội trưởng quyết định nhằm đánh chiếc này. Cho qua các lượt F-4H lao xuống cắt bom, đến lượt chiếc máy bay lạ bổ nhào, khi trắc thủ báo địch xuống đến cự ly 2.800m thì toàn Đại đội đồng loạt nổ súng: chiếc máy bay trúng đạn trực diện liền bốc cháy rơi ngay tại chỗ. Khi xem xác nó, bộ đội ta phát hiện ra đây là chiếc máy bay kiểu F-111A. Chiến công này được báo ngay lên Quân chủng phòng không. Đây là chiếc F-111 đầu tiên bị bắn rơi trên chiến trường Đông Dương.


- Hai ngày sau, chiều 30-3 một chiếc nữa bị bắn rơi ở Hà Tây. Và 3 tuần sau, vào sáng 21-4 thêm một chiếc thứ ba bị bắn cháy ở Quảng Bình. Như vậy một nửa trong số 6 chiếc đưa vào chiến đấu đã bị bắn hạ trong vòng chưa đầy một tháng. Thất bại phủ đầu này làm xôn xao dư luận giới quân sự Mỹ, ba chiếc còn lại phải quay về nơi xuất phát để kiểm tra lại.


Trong thời gian 4 năm "xuống thang chiến chiến tranh" ở miền Bắc, loại F-111 tiếp tục được hoàn chỉnh tại nơi chế tạo nó. Đến đầu năm 1972 Mỹ đã chế tạo được 307 chiếc F-111 các loại A, E, F cho KQ chiến thuật, loại F-111B cho KQ Hải quân, loại FB-111A cho KQ chiến lược có thể mang bom hạt nhân (nuclear bomber) có thể thay B-52 Pháo đài bay, loại EF-111A trinh sát điện tử đa chức năng, loại F-111C bán cho KQ Hoàng gia Úc v.v..
Khi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu từ tháng 4-1972 thì đến tháng 9-1972 Mỹ lại điều động tổng cộng 48 chiếc F-111 (hai phi đoàn) từ bang Nevada vượt Thái Bình Dương sang sân bay Tăcli, bắt đầu cuộc thử nghiệm mới. Rút kinh nghiệm thất bại bốn năm về trước, KQM điều chỉnh lại nhiệm vụ nhằm tăng mức độ an toàn cho nó:


- Trên chiến trường, máy bay F-111 chỉ ném bom toạ độ như máy bay B-52. Bởi toàn bộ việc vận chuyển cơ giới trên đường giao liên của ta vào ban đêm, nên KQM cải tiến từ máy bay vận tải thành các loại cường kích đêm AC-119, AC-130, các loại này có thiết bị phát hiện bằng tia hồng ngoại, gắn pháo 40ly, 105 ly và ngắm bắn bằng máy tính điện tử. Đồng thời trên những trọng điểm bến phà, cầu ngầm, dốc đèo, KQM thường xuyên ném bom toạ độ các loại nổ chậm, bom phá, bom bi, bom từ trường v.v… Đội hình ném bom toạ độ bằng máy bay B-52 cồng kềnh: mỗi phi vụ gồm "3 chiếc B-52 + 4 chiếc F-4 tiêm kích", dãn cách thời gian giữa các đợt trên mỗi trọng điểm được tính toán vừa đủ để công binh không kịp sửa chữa nhằm kéo dài ách tắc. Có những trọng điểm nổi tiếng ác liệt bởi bom đánh điểm kết hợp với bom toạ độ suốt 24 giờ trong ngày như cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích trên Đường 20 Quyết thắng mà lịch sử gọi là "bộ ba ATP" … Khi sử dụng thay thế loại B-52, các phi vụ F-111 ném bom toạ độ do sức tải nhỏ (chỉ bay đơn, mang 10 tấn bom so với tốp B-52 ba loạt 25 tấn) nên tần số xuất kích phải lớn hơn, bởi vậy có những trọng điểm suốt trong một thời gian dài cứ 15 phút lại có loạt bom ném kiểu này. Đường vào chiến trường dài hàng ngàn cây số với hàng trăm nhánh phụ luôn thay đổi từng mùa từng chiến dịch, vì vậy lực lượng cao xạ bảo vệ giao thông chỉ bố trí phân tán và nguỵ trang bí mật bất ngờ ở những địa bàn quan trọng, chỉ nổ súng khi máy bay địch uy hiếp trực tiếp pháo hoặc khi có phần tử bắn thuận lợi. Do vậy các phi vụ F-111 do bay thấp dưới 500m lại bay nhanh 800km/h nên thời cơ để xạ kích rất ngắn (<7 giây), bộ đội ta không tổ chức đánh nhằm tránh bộc lộ lực lượng, cho nên các phi vụ kiểu này thường trót lọt. Những vụ ném bom toạ độ không theo quy luật nào, có thể là do "cây nhiệt đới" (thiết bị thu phát địa chấn) kết hợp với máy bay trinh sát điện tử EC-121 chỉ điểm...


- Ở miền Bắc F-111 chỉ dùng đánh đêm như loại máy bay A-6A Kẻ đột nhập. Các phi vụ bay đêm, số ít bởi máy bay trinh sát RF -4C chụp ảnh quang học bằng đạn chớp sáng, còn phần lớn là các phi vụ ném bom do máy bay A-6A Hải quân thực hiện. Loại này bay tương đối thấp, có thiết bị dẫn đường để luồn lách địa hình nhưng vẫn bị lực lượng phòng không của ta bắn rơi nhiều, kể cả phát hiện bằng khí tài ra-đa: đêm 3/2/1966 phi công Lâm Văn Lích lái Mig-17 được Đài chỉ huy mặt đất dẫn đường đã bắn hạ liền 2 chiếc trên vùng chợ Bến tỉnh Hoà Bình; đêm 25/4/1968 tiểu đoàn 69 tên lửa (trung đoàn 275) bằng một quả đạn hạ một chiếc tại sân bay Vinh- Nghệ An vv … Những phi vụ đánh đêm tuy hiệu quả thấp (A-6A chỉ mang được 2,5 tấn bom) nhưng nó nhằm gây mệt mỏi căng thẳng cho Bộ đội Phòng không vì phải trực chiến liên tục suốt ngày đêm hàng tháng trời. Khi đưa F-111 đánh đêm, chúng bay rất thấp, luồn lách địa hình như khe núi, triền sông v.v.. nhằm gây trên màn hiện sóng ra-đa mục tiêu lẫn vào nhiễu sóng địa hình đạt vật và giảm tối đa khả năng bị phát hiện bằng mắt thường. Song thực tế, ngay từ khi địch rời sân bay hoặc tàu chiến, ta đã "quản lý mục tiêu" và báo động từng cấp cho lực lượng phòng không trên mỗi khu vực, bởi ngoài Mạng ra-đa cảnh giới Quốc gia ta còn nhiều nguồn thông tin khác... Ví dụ: Quân chủng phòng không tổ chức 12 trạm, 48 vọng gác quan sát các hoạt động máy bay địch bằng mắt thường, ống nhòm, kính quang học và thông tin liên lạc chuyển tiếp trải rộng khắp miền Bắc và Chiến trường, hệ thống này gọi là mạng BB (bộ binh)... Ta còn có nguồn thông tin kịp thời ngay khi máy bay B-52 vừa xuất kích từ các căn cứ quân sự ở nước ngoài, trong cuộc tập kích chiến lược Tháng chạp năm 1972 toàn Quân chủng được thông báo trước 5 giờ đồng hồ ….


Sau đây là một số sự kiện máy bay F-111 trong lần thử nghiệm năm 1972:

- Ngày 28-9 KQM tăng cường thêm 12 chiếc sang sân bay Tăcli, nâng tổng số lên 48 chiếc, thì ngay trong đêm, một số chiếc trong đó thực hiện phi vụ đánh ga Yên Bái, liền bị Đại đội pháo 37 ly với tinh thần cảnh giác cao đã phát hiện, bằng phần tử máy đo xa, nổ súng kịp thời hạ một chiếc F-111E.

Choáng váng vì đòn phủ đầu, mặc dù Đài phát thanh và các báo chí của ta lập tức đưa ngay tin chiến thắng song giới quân sự Mỹ cố tình giấy kín thất bại, doạ sẽ rút giấy phép nếu tờ báo nào đăng tin này sớm trước 5 ngày vì sợ ảnh hưởng về quân sự và chính trị, đồng thời kiểm nghiệm lại toàn bộ các máy bay loại này. Sau đó Hãng AP đưa tin "… việc bất đồng đã bao quanh F.111 ngay từ khi thiết kế. Trong 6 năm hoạt động đã có 23 chiếc F-111 đã rơi, giết 17 nhân viên và 8 người nữa mất tích".

- Vào lúc 0giờ 5 phút ngày 17-10, một chiếc F-111A lạng lách quanh dãy núi Tam Đảo rồi xà xuống cắt bom đánh một mục tiêu công nghiệp. Chỉ vài giây sau liền bị cụm trận địa gồm 3 khẩu đội súng máy 12,7 ly của dân quân xã Tiền Châu huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú bắn cháy bằng loạt điểm xạ ngắn, mỗi khẩu chỉ tiêu thụ khoảng 9 viên đạn. Nó cắm đầu xuống cánh đồng Đầm Quận bên sông Cà Lồ cách thị xã Vĩnh Yên khoảng 1km, gây nên một tiếng nổ dữ dội.

- Đêm 21-11, lúc 3h dân quân huyện Bố Trạch, Quảng Bình bắn rơi 1 chiếc bằng 15 viên đạn súng máy 12,7 ly, chiếc máy bay trúng đạn rơi ngay xuống biển.

Đặc biệt trong Cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm Tháng Chạp năm 1972 ở Hà Nội (từ ngày 18 đến 30-12), cùng với B-52 pháo đài bay, loại F-111 tham gia đánh xen kẽ với tần xuất rất cao: mỗi đêm có từ 20 đến 30 lần/ chiếc. Trong chiến dịch lịch sử này chỉ trong 4 ngày đã có 5 chiếc F-111 bị hạ. Sau đây là một số trận điển hình:

- Lúc 19h45' tối ngày 20-12, khẩu đội tự vệ của nông trường tỉnh Hà Tây, với một khẩu súng máy cao xạ 14,5 ly loại 4 nòng, chiến đấu độc lập, phát hiện một chiếc F-111 đang bay lắt léo qua yên ngựa một trái núi. Đêm sáng trăng nên mục tiêu trông rõ. Bằng một điểm xạ ngắn tiêu thụ 44 viên đạn, chiếc máy bay trúng nhiều viên đạn, gãy lìa đoạn đầu, phần thân rơi xuống khu rừng già. Do nó đã ném bom xong nên hai cánh lớn ở trạng thái đã xếp vào thân.

- Chiều ngày 22-12, nhận định đường bay F-111 sẽ vào Hà Nội qua khu vực phà Khuyến Lương, Ban chỉ huy quân sự địa phương tăng cường hoả lực chiến đấu tại trận địa bãi cát Vân Đồn, gồm 5 khẩu súng máy 14,5 ly do tự vệ của 3 nhà máy cùng trực chiến. Phương án tác chiến như vật chuẩn, đường bay, tầm, hướng được chuẩn bị sẵn, trận địa được nối thông tin với cấp trên. Lúc 19h15', phát hiện trên nền trời tối chiếc máy bay địch bay rất thấp đang vào, một số khẩu lập tức nổ súng. Chiếc máy bay trúng đạn, cố gượng đến huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình thì rơi. Đây là chiếc F-111 cuối cùng bị bắn rơi trên chiến trường Đông Dương.

Cũng trong tháng Chạp năm 1972, khi được hỏi về loại máy bay F-111, một phi công lái F-4 trong Trại giam Hoả Lò bộc bạch: với các phi vụ TFX (Tactical Fighter Experimental: thí nghiệm máy bay chiến đấu chiến thuật-chiến lược) trên F-111, khi bay với vận tốc 800km/h ở độ cao dưới 200m là rất nguy hiểm, bởi chỉ trong vòng 5 giây đồng hồ phải xà xuống thấp để trút hết bom, tải trọng bị giảm đột ngột nên gây mất ổn định, dễ bị tai nạn. Lái F-4 ở độ cao 2km gặp sự cố còn nhảy dù được, chứ bay quá thấp khó mở dù để sống sót...

Để chế tạo một kiểu máy bay mới, các tổ hợp công nghiệp quân sự Mỹ phải cần từ 3 đến 5 năm thiết kế, từ khi đặt hàng đến khi cất cánh phải mất thêm 2 năm nữa. Giá thành một chiếc F-105D là 1,5 triệu đô-la, loại F-4H là 3,2 triệu đô-la, loại B-52G là 9 triệu đô-la, loại F-111A là 15 triệu đô-la, cao nhất các loại máy bay lúc đó. Ngoài ra để đào tạo huấn luyện một phi công chiến đấu cần 3 năm với chi phí hàng chục vạn đô-la… Song phải đưa nó vào thực tế chiến đấu mới bộc lộ rõ ưu nhược điểm của nó. Trong chiến tranh Việt Nam đã từng có 16 loại máy bay gồm 47 kiểu do 20 hãng công nghiệp Mỹ sản xuất đã bị hạ; trên miền Bắc trong hai cuộc chiến tranh phá hoại đã có 4.330 chiếc bị bắn rơi, chiếc thứ 4.000 lại chính là chiếc F-111A rơi ở Vĩnh Phú.


Lực lượng không quân thuộc Hải quân Mỹ (NAVY) mặc dù đã từng tham gia thử nghiệm nhưng từ chối đưa kiểu máy bay mới này vào sử dụng, bởi một số vụ tai nạn lớn xảy ra trên tàu sân bay là do những chiếc máy bay cường kích gây ra. Ví dụ một số vụ ở Hạm đội 7 đậu trên Vịnh Bắc Bộ: ngày 29-7-1967 tàu sân bay Forreston phát nổ từ khoang chứa máy bay làm 134 lính Mỹ chết và 21 máy bay thiêu huỷ; đêm 25-10-1972 chiếc máy bay A-6A "Kẻ đột nhập" sau khi ném bom về hạ cánh sai quy cách xuống tàu sân bay Midwey đã gây nổ lớn làm 27 línhMỹ chết, mất tích, bị thương, đồng thời phá huỷ thêm 2 chiếc A-6A, 3 chiếc F-4B Con ma; 4 chiếc A-7A Cướp biển nữa. Các sân bay trên đất liền cũng có nhiều tai nạn, nhưng không tổn thất lớn như vậy.


Sau một loạt chiếc F-111 bị hạ, ngày 9-10-1972 Hãng thông tấn AP đưa tin: Tiểu ban thượng nghị viện Mỹ tuyên bố rằng cuộc thử nghiệm máy bay F-111 là một thất bại lớn.


Sau chiến tranh Việt Nam, loại F-111 được chế tạo thêm một số kiểu, chúng được đặt các tên riêng là Raven (Con quạ), Aardvark (Lợn đất)vv..., tổng số có 554 chiếc F-111 được chế tạo. Năm 1998 KQM ngừng bay loại này.

Tựa đề bài viết đã được sửa lại

(Theo quansuvn.net)​
 
Hạng D
29/3/07
1.809
754
113
vnexpress.net
Có bác nào giúp em cung cấp số liệu bao nhiêu tầng suất phi vụ B52 ném bom miền Bắc so với số chiếc bị bắn rơi không ạ, để có thể biết được tỉ lệ bị bắn rớt chính xác nhất