em copy cái này bên Wiki, nói về chiến dịch oanh tạc lò hạt nhân cũa Irac do F 16, F 15 của Không Quân Israel thực hiện
Lên kế hoạch Chiến dịch
Khoảng cách giữa các căn cứ quân sự Israel và địa điểm lò phản ứng khá lớn—hơn 1600 km (1000 dặm), đồng nghĩa với việc các lực lượng quân sự sẽ hoạt động mà không có khả năng hỗ trợ hậu cần dễ dàng, và sẽ phải vượt qua lãnh thổ
Jordan và
Saudi. Ngoài ra, tình báo Israel không thể đảm bảo tính chính xác của tin tức về tình trạng phòng vệ phía Iraq.
Sau nhiều tranh cãi, cuối củng quân đội Israel kết luận rằng một phi đội
F-16A với nhiều nhiên liệu và vũ khí, với một nhóm
F-15A bảo vệ và hỗ trợ, có thể thực hiện một cuộc tấn công vào lò phản ứng mà không cần tái nạp nhiên liệu.
Quân đội Israel cũng quyết định rằng điều mấu chốt là phải phá huỷ lò phản ứng trước khi nó được lắp đặt những thanh nhiên liệu hạt nhân, để giảm thiểu những hiệu ứng của việc phá huỷ nó với dân thường. Nhiều nhà khoa học châu Âu đang làm việc ở lò phản ứng, và Israel quyết định tấn công vào Chủ nhật, khi hầu hết các nhà khoa học đang nghỉ.
Có tin tình báo rằng các thanh nhiên liệu đang được dự định chở từ Pháp tới Iraq, nội các Israel - khi ấy dưới sự lãnh đạo của
Menachem Begin — đã cho phép thực hiện chiến dịch.
[H2][
sửa] Cuộc không kích[/H2]
Chiếc
F-16A Netz 243 của
Không quân Israel, do Đại tá
Ilan Ramon điều khiển trong Chiến dịch Opera.
Mũi chiếc
F-16A cho
Ilan Ramon lái trong Chiến dịch Opera, có một biểu tượng hình tam giác của cuộc tấn công.
Chiến dịch Opera được lên kế hoạch kỹ lưỡng vào ngày Chủ nhật để giảm thiểu thiệt hại nhân mạng với các công nhân nước ngoài và vụ tấn công được dự định vào cuối buổi chiều để
Đội Cứu hộ và Giải cứu Chiến đấu Israel (CSAR) có cả đêm để cứu hộ cho các phi công Israel bị bắn rơi.
Một phi đội 8 chiếc
F-16A 107,
113,
118,
129 của
Không quân Israel, thuộc
phi đội số 117 và
239,
240,
243 và
249 thuộc
Phi đội số 110, mỗi chiếc trang bị hai quả
bom nổ chậm không điều khiển
Mark-84 2,000-pound và các
bình nhiên liệu phụ được lập ra. Một phi đội 6 chiếc
F-15A cũng được phái đi thực hiện chiến dịch để hỗ trợ những chiếc F-16A.
Ilan Ramon, một phi công F-16A người sẽ trở thành
nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Israel và thiệt mạng trong
thảm hoạ Tàu con thoi Columbia năm năm
2003, là người trẻ tuổi nhất tham gia chiến dịch. Khi ấy ông còn hai tuần nữa là tới 27 tuổi.
Ngày 7 tháng 6 năm 1981 lúc 15:55 giờ địa phương (12:55
GMT) kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Lực lượng tấn công rời
Căn cứ Không quân Etzion, bay ở độ cao 800 feet qua không phận
Jordan và
Saudi.
[8][/SUP]
Ở khoảng cách 1,000 km, chiến dịch gặp rắc rối với các thùng nhiên liệu phụ của những chiếc F-16A. Những chiếc máy bay được chất tải quá nặng khiến các bình nhiên liệu phụ (hai thùng 1,400 l dưới cánh và một thùng 1,100 l dưới bụng) cạn khi lực lượng tấn công vẫn trên đường tới lò phản ứng Osirak. Những thùng nhiên liệu phụ này được vứt bỏ trên
sa mạc Saudi trước khi phi đội tới mục tiêu.
Ngay khi tới không phận Iraq phi đội tác ra, với hai chiếc F-15 hình thành đội hình hộ tống gần cho phi đội F-16, và những chiếc F-15 còn lại tản ra trong không phận Iraq theo chiến thuật sẵn sàng hỗ trợ. Phi đội tấn công hạ xuống độ cao 30 m trên sa mạc Iraq, tìm cách bay dưới tầm radar của các lực lượng phòng vệ Iraq.
Lúc 18:35 giờ địa phương (14:35
GMT), 20 km từ khu phức hợp lò phản ứng hạt nhân Osirak, đội hình F-16 hạ xuống 2,100 m và bổ nhào ở góc 35-độ với vận tốc 1,100 km/h, nhắm thẳng vào lò phản ứng. Ở độ cao 1,100 m, những chiếc F-16 bắt đầu ném từng cặp
bom Mark 84, cách quãng 5 giây. Theo các báo cáo của Israel, tất cả 16 quả bom đều trúng vào khu phức hợp, dù hai quả được báo cáo là không nổ.
Các lực lượng phòng không bắt đầu nổ súng vào phi đội khi họ lên tới độ cao 12,200 m và bắt đầu quay trở về
Israel.
Theo các báo cáo của Israel các lực lượng quốc phòng Iraq không kịp bảo vệ và phản ứng quá chậm. Dù với bất kỳ lý do nào, các lực lượng phòng không của cơ sở này đã không thể làm hư hại bất kỳ chiếc máy bay tấn công nào. Dù có những lo ngại về những chiếc máy bay đánh chặn của Iraq, phi đội không gặp sự tấn công nào và quay về không phận Israel.
[H2][
sửa] Phản ứng chính trị quốc tế[/H2] Hành động của Israel đã bị cộng đồng quốc tế lên án. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua Nghị quyết số 36/27 ngày 13 tháng 11 năm 1981 gọi cuộc ném bom là một hành động gây hấn có kế hoạch và chưa từng xảy ra, và yêu cầu Israel bồi thường lập tức và thoả đáng với những thiệt hại vật chất và nhân mạng mà họ gây ra.
[2][/SUP] Nghị quyết cũng nghiêm khắc cảnh báo Israel phải kiềm chế trong những hành động tương lai.
Tranh cãi trước sự thông qua nghị quyết của Liên hiệp quốc phản ánh sự khác biệt trong quan điểm của các quốc gia về các vấn đề như giải trừ hạt nhân trong vùng và tính chính đáng và pháp lý của các hành động của Israel. Một số quốc gia thể hiện rằng họ ủng hộ quyền của các quốc gia được sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích hoà bình nhưng rằng họ mạnh mẽ phản đối sự bí mật phát triển các loại vũ khí hạt nhân của Israel. Một số quốc gia như Syria yêu cầu không chỉ lên án chủ nghĩa khủng bố của Israel chống lại người Ả Rập, mà cả Hoa Kỳ vì liên minh của họ với Israel.
[2][/SUP]
Đại diện của Pháp nói rằng mục đích duy nhất của lò phản ứng là nghiên cứu khoa học. Những thoả thuận giữa Pháp và Iraq loại trừ việc sử dụng vào mục đích quân sự. Anh Quốc giải thích rằng Iraq không có khả năng phát triển vũ khí hạt nhân. Tổng giám đốc IAEA xác nhận rằng những cuộc thanh tra những lò phản ứng hạt nhân gần Baghdad cho thấy không có sự vi phạm nào vào các thoả thuận.
[2][/SUP]
Hầu hết các nhà quan sát bác bỏ lý lẽ của Israel rằng họ hành động để tự vệ. Có sự giải thích rằng Hiến chương Liên hiệp quốc không trao bất kỳ quyền nào cho việc hành động ngăn chặn. Một số người giải thích cuộc tấn công là cuộc tấn công vào chính IAEA. Có tranh cãi cho rằng Hiến chương Liên hiệp quốc hạn chế quyền phòng vệ chỉ trong trường hợp một cuộc tấn công vũ trang. Một số quốc gia kêu gọi áp đặt các lệnh trừng phạt chống Israel theo Chương VII của Hiến chương Liên hiệp quốc.
[2][/SUP]
Ngoài ra
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc mạnh mẽ lên án vụ tấn công như một sự vi phạm rõ ràng vào Hiến chương và cho rằng Iraq có quyền đòi hòi bồi thường thích đáng cho những thiệt hại của họ. Nghị quyết còn kêu gọi Israel đặt các cơ sở hạt nhân của mình dưới sự giám sát của IAEA.
[9][/SUP] Hoa Kỳ ủng hộ nghị quyết này vì nó lên án hành động chứ không phải quốc gia gây ra hành động. Phản ứng của họ là, tạm thời, đình hoãn việc cung cấp các máy bay đã được hứa hẹn cho Israel.[
cần dẫn nguồn][/SUP] Một số quốc gia không hài lòng với nghị quyết của Hội đồng Bảo an bởi nó không bao gồm các biện pháp trừng phạt. Có gợi ý rằng Hội đồng Bảo an nên đưa ra các biện pháp trừng phạt chống lại Israel.
[2][/SUP]
Từ thời gian đó, đặc biệt sau cuộc
Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, nhiều chính trị gia Hoa Kỳ đã
bày tỏ ủng hộ với chiến dịch.
[10][/SUP] Những người tin rằng Iraq đang theo đuổi các loại
vũ khí hạt nhân trong thập niên 1980 coi Chiến dịch Opera là hành động
cần thiết, thậm chí nếu nó bị coi là một sự vi phạm rõ ràng vào
luật pháp quốc tế bởi Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Một số học giả về pháp lý tin rằng hành động không vi phạm luật pháp quốc tế bởi nó tuân theo quy luật
tự phòng vệ trước.
[11][/SUP] Ngoài ra, ở thời điểm vụ tấn công, Iraq vẫn đang trong tình trạng tuyên chiến với Israel.[
cần dẫn nguồn][/SUP]