Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
Mình cứ để theo dòng lịch sử thôi. Khi nào truyện đến đó thì e sẽ tả riêng 1 bài kỹ về cuộc chiến này. Thật ra bác thông cảm vì lý do hoàn cảnh khách quan tế nhị chúng ta không có tài liệu để nói rõ về 3 cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông (vì quân Minh cướp về Trung Hoa hết rồi). Còn sau đời Lê Lợi thì Mạc-Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Việt đánh nhau, có chi vui mà tả. Chỉ có cuộc chiến với người phương Bắc, dân số gấp 10 lần ta, tài nguyên gấp nhiều lần, lại còn binh pháp Tôn Tử, di thư Nguyễn Nhạc hàng ngàn đời truyền lại, được trui dèn qua hàng ngàn cuộc chiến, tưởng rằng thiên hạ vô đối. Thế nhưng đến nước Việt nhỏ bé (nhóc Việt - tất cả tài liệu từ đời Thanh về sau chúng thường gọi ta thế) lại bị tan hoang mà chẳng hiểu vì sao. Cuộc chiến ấy mới xứng đáng để tả, để viết và nhớ về. Còn như đánh với Xiêm La cũng chẳng qua là "thể hiện tài năng" của Quang Trung mà thôi, chiến thắng ấy ắt hẳn đã trong tầm tay Hoàng Đế.........Còn việc dám đánh thẳng quân nhà Thanh phương Bắc, dẹp tan 20 vạn quân dưới thời vua Càn Long thì mới đáng gọi là THẦN THÁNH.
Các bác để ý xem, tất cả các tượng anh hùng đất Việt, khi được dựng tượng thờ, có 1 nguyên tắc tối quan trọng đó là: Mặt đều phải quay nhìn về hướng Bắc! Chắc hẳn hậu sinh đất Việt đều phải hiểu vì sao!
 
Last edited by a moderator:
Tập Lái
20/2/11
44
1
0
47
Ngẫm nghĩ: Các anh hùng trong lịch sử Việt Nam đều là những người chống Tàu, vì sao vậy? Không biết tương lai có còn như vậy không?
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
Nhà Hậu Lê chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn trăm năm đầu hung thịnh từ vua Lê Thái Tổ 1428 - 1527 vua Lê Cung Hoàng gọi là thời Lê Sơ, giai đoạn thứ 2 là giai đoạn suy vong, từ vua Lê Trang Tông 1533 - 1788 vua Lê Chiêu Thống gọi là Lê trung hưng. Thời suy vong này vua Lê chỉ đứng làm vua bù nhìn có lệ mà thôi, nước ta chia làm 3 mối, phía Bắc nhà Mạc, phía nam có thêm nhà Nguyễn. Đây là thời kỳ 250 năm của cuộc nội chiến đen tối của lịch sử dân tộc đáng đi vào quên lãng.............
Em xin trình bày các vua thời Lê sơ: 1428-1527
1. Lê Thái Tổ , tên húy Lê Lợi trị vì 1428-1433. Niên hiệu:Thuận Thiên. Thụy hiệu: Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần, Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng, Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao hoàng
2. LêThái Tông, tên húy Lê Nguyên Long,trị vì 1433-1442. Niên hiệu Thiệu Bình (1434-1439, Đại Bảo (1440-1442) , Thụy hiệu: Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công, Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu, Hiến Kiến Trung Văn hoàng đế .
3. Lê Nhân Tông tên húy Lê Bang Cơ trị vì 1442-1459 Thái Hòa (1443-1453), Diên Ninh (1454-1459
Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh, Thông Duệ Tuyên hoàng đế )
4. Miếu hiệu: Không có, tên húy Lê Nghi Dân, trị vì 1459-1460. thụy hiệu: Lệ Đức hầu. Niên hiệu Thiên Hưng (1459-1460)
5. Lê Thánh Tông tên húy Lê Hạo trị vì 1460-1497. Niên hiệu Quang Thuận (1460-1469), Hồng Đức (1470-1497). Thụy hiệu: Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính, Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ, Đạt Hiếu Thuần hoàng đế Lê Tư Thành
6. Lê Hiến Tông tên húy Lê Sanh hoặc Lê Tăng hoặc Lê Huy trị vì1497-1504. Niên hiệu: Cảnh Thống Thụy hiệu: Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí, Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm
Thành Chương Hiếu Duệ hoàng đế
7. Lê Túc Tông tên húy Lê Thuần trị vì 1504. Niên hiệu Thái Trinh Thụy Hiệu: Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn Cung Uyên Mặc, Hiếu Doãn Cung Khâm hoàng đế
8. Lê Uy Mục. tên húy Lê Tuấn (Lê Huyên) trị vì 1505-1509. Niên Hiệu: Thái Trinh, Đoan Khánh thụy Hiệu: Uy Mục Đế.
9. Lê Tương Dực. Tên Húy Lê Oanh trị vì 1510-1516. Niên Hiệu: Hồng Thuận. Thụy Hiệu:Tương Dực Đế
10 .Lê Quang Trị. Trị vì: 1516
11. Lê Chiêu Tông tên Húy Lê Huệ hoặc Lê Y. Trị vì 1516-1522. Niên Hiệu: Quang Thiệu. Thụy Hiệu: Thần hoàng đế Lê Y .
12. Lê Cung Hoàng. tên húy Lê Xuân hoặc (Lê Lự). trị vì 1522-1527. Niên hiệu: Thống Nguyên. Thụy hiệu: Cung hoàng đế.
Nhà Lê sơ, kể từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng vừa tròn trăm năm trải qua 10 vua (nhưng 12 người đăng cơ chính thống hoặc không chính thống). Trong đó chỉ có vua Thánh Tông và Hiếu Tông là đáng kể, còn lại chỉ là ấu chúa. Vì thế việc triều chính thường rơi vào tay các quan lại triều thần trong triều. Gặp công thần thì vận nước hưng, nịnh thần vì vận nước suy - Vua Lê Sơ (trừ 2 vị vua kể trên) phần lớn không thiết lo việc chiều chính, có kẻ lại còn hoang dâm vô đạo làm trong nước xảy ra rất nhiều điều biến loạn. Chẳng qua do công đức của Vua Lê Thái Tổ giành lại giang sơn cho người Việt và vua Lê Thánh Tông là vị vua anh minh thần võ làm cho lòng người không quên nhà Lê mà thôi......... Vì thế nhà Mạc tuy có cướp ngôi cũng không vững bền, về sau họ Trịnh chuyên quyền nhưng cũng không dám cướp ngôi vua mà chỉ dám xưng là Chúa.
 
Last edited by a moderator:
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
Do em không có cảm tình với vua Lê Thái Tổ nên em xin không viết về vị vua này và thời vua này trị vì. Bù lại em xin viết với các bác bài bình luận về Ức Trai Nguyễn Trãi. Một trong những thần tượng của e trong cuộc sống, một phần do nhà Lê đối xử bạc với ông nên hậu vận chẳng khá được là bao, duy chỉ có Lê Thánh Tông là vị vua tài đức thấy được công trạng và nỗi oan Lê Chi Viên của ông nên thời ấy nước ta mới thịnh trị dưới bàn tay và khối óc vĩ đại của vị vua này.

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai , 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Ngay từ khi còn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi là:
Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền
Nghĩa là:
Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.
Thân thế
Chân dung khác của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tên tự là Ức Trai, sống vào một giai đoạn lịch sử sôi động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ thời đấu tranh chống ách Minh thuộc (của nhà hậu Trần, của các phong trào nhân dân khắp nước, của nghĩa quân Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc Chí Linh Hải Dương), nhưng đã di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín Hà Tây cũ).

Lúc còn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần Nguyên Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi, đậu Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên không được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành trở về quê dạy học.
Thời trẻ
Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.
Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về trí sĩ ở Côn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại chính là nơi quê tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đầu.
Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim Lăng. Một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về Tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu.
Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với nhà Minh. Năm 1417, ông trốn khỏi Đông Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách
Theo Ngô Thế Vinh (nửa đầu thế kỉ thứ 19), viết trong tựa sách Ức Trai thi văn tập thì phương châm cơ bản nêu trong Bình Ngô sách "không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách đánh lòng" . Tư tưởng chiến lược này chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nghĩa quân. Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu. Ông lại góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với chính quyền xâm lược. Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức thư đó (về sau được tập hợp dưới cái tên Quân trung từ mệnh tập) có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần địch quân.
Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa Ức Trai thi tập) Ức Trai di tập quyển 5} Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho ông cả. Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính giải quyết mọi việc quân, việc nước quan trọng. Ông đã thành công trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến tranh cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt càng đánh càng được, đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô
Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 4 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."
Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.
<span style=""color: #ff0000;"">Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).</span>
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong là Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp lớn, tuy chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất trong triều để có thể làm cho ông thi thố hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và năm 1429 thay nhà vua viết tờ Chiếu cầu hiền. Năm 1430, ông thay nhà vua viết Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng. Năm 1431, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính. Năm 1433, Tư Tề vì cuồng dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương, ông thay nhà vua viết tờ Chiếu giáng Tư Tề làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp. Ông cũng lại thay nhà vua làm tờ Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử và Chiếu bàn về phép tiền tệ, v.v...
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
Vụ án Lệ Chi Viên
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.
Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.
Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông.
Gia quyến lưu tán
Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:
* Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
* Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
* Bà Thị Lộ: Không có con.
* Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).
* Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải Dương.
Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là:
* Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;
* Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
* Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
* Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
Được minh oan
Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.
Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ
Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" là "Lòng Ức Trai sáng tựa sao khuê", dịch chính xác phải là "Ức Trai lòng soi sáng văn chương"
Những đánh giá
* Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong Quỳnh uyển cửu ca có câu: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm), và Lê Thánh Tông đánh giá ông trên tất cả các văn thần võ tướng có danh vọng nhất của thời Lê.
* Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông:
Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương
* Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.
* Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời
* Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được".
* Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm
* Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta.
Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
Các tác phẩm văn thơ
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.
Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc.
Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".
Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi, Ngọc Đường di cảo.
Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng. Tác phẩm Quốc âm thi tập là tác phẩm viết bằng chữ Nôm đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam.
 
Last edited by a moderator:
Hạng B2
9/10/08
197
0
16
41
Hà Nội
@ bác rùa: bác có thể nói về cuộc hành quân thần tốc của QT ko ạ. Em bết rất ít thông tin về cuộc hành quân này
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.552
113
ninhkhuong nói:
@ bác rùa: bác có thể nói về cuộc hành quân thần tốc của QT ko ạ. Em bết rất ít thông tin về cuộc hành quân này

bác kiên nhẫn một chút đi mà. Em đảm bảo với Bác nói về Quang Trung Nguyễn Huệ có thể nói suốt 20 trang, vì tài liệu vô cùng nhiều và có rất nhiều đề tài để bàn luận. Rất nhiều cách nhìn nhận về Quang Trung, dưới đôi mắt của nhà sử học chính thống, đôi mắt của nhà quân sự, của người Hoa đi qua Việt Nam tị nạn chính trị, của những người nước ngoài Phương Tây, của vua Càn Long nhà Thanh, của các tướng lĩnh dưới trướng của ông, của nhân loại nhìn về ông và cả của em nữa..........sau khi bàn ra thì còn 1000 com cách nhìn của mọi người về ông. Điều đó sẽ làm lu mờ đi toàn bộ những việc khác chúng ta đang bàn và có lẽ mất rất nhiều thời gian để tìm dữ liệu (may mà có) để phân tích về 1 yếu tố chưa vừa lòng để bảo vệ chính kiến của mình mà thôi. Mà cũng có lẽ không bao giờ tìm ra được sự đồng thuận nữa, bởi hình ảnh Quang Trung đã được khắc họa quá rõ nét trong từng con người chúng ta mất rồi.
Thật ra, e viết về Quang Trung không hay đâu, bác để ý thì biết........ Viết về Quang Trung nếu hay nên nhờ ai thích danh vọng và đam mê cảm giác chiến thắng 1 chút sẽ hiểu và đồng cảm được với những quyết định táo bạo tuy hơi tàn nhẫn của ông. Em chỉ làm rõ những vấn đề đã hứa với thầy Der và các bác ở bài trên thôi.
 
Hạng D
30/1/07
3.021
54
113
48
Xà Ghềnh, Mobil: 0903187496
Viết thêm về trận Tốt Động - CHúc Động:
Giữa năm 1926, Quân Lam Sơn đã làm chủ tất cả các vùng đồng bằng từ Huế về đến Đông Quan (Hà Nội), quân giặc co cụm trong các thành lớn, trong đó có thành Nghệ An và thành Thanh Hoá và đương nhiên là thành Đông Quan.
Tình hình bọn Minh săp thua đến đít. Chúng gọi viện binh.
Tuyên Đức lúc đó mới 1x tuổi, bị bọn hiếu chiến súi ăn cứt gà, cử Vương Thông mang 5 vạn quân hùng hổ nhằm hướng Đông Quan tiếp viện. Đến Đông Quan, chúng hội quân với các đội nhỏ từ phía nam của Đông QUan (các thành nhỏ quân Lam Sơn chưa kịp hạ). Tổng cộng được 15 vạn, định lật ngược thế cờ.
Do 15 vạn lúc nhúc trong thành, không có chỗ ị nên VT mang quân ra phía Tây của ĐQ, đóng là 3 nơi là Cổ Sở, Sa Đối (Thuộc Hà Tây) và Thanh Oai (thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội),
Đại quân LS lúc bấy giờ đóng trại ở Ninh Kiều (Cầu qua sông Ninh, giờ tên là sông Đáy, hiện cạn gần hết, có thể lội bộ qua) mang quân đánh Thanh Oai và Sa ĐỐi.
Qua vài trận nhỏ, bọn ở Sa Đối và Thanh Hoai bị thua chạy vào Đông Quan, mặc Vương Thông đóng quân ở Cổ Sở một mình.
Vương Thông tập trung 5 vạn quân hùng hục đánh vào Ninh Kiều rửa nhục, nhưng lúc bấy giờ quân LS đã kịp thời rút đi, VT vồ hụt, tức điên người.
VT tung quân do thám, phát hiện LS đóng quân ở Cao Bộ. Chúng lên kế hoạch đánh Cao Bộ
Kế hoặch của chúng như sau:
Vương Thông mang đại quân đi thẳng từ Cổ Sở tới Cao Bộ, đoạn đương này rất ngắn.
Bọn tướng (nào đó) dẫn toán còn lại đi đường vòng để đánh tập hậu Cao Bộ, đoạn đường này đi qua 2 cánh đồng là Chúc Động (gần ngay Ninh Kiều) và Tốt Động, đây là 2 vùng đồng và đầm lầy.
Vô phúc cho chúng, và cũng có thể là số chúng đã tàn do tội ác đã bay lên lên tận trời cao (bọn này sẵn sàng mổ bụng thai phụ, lấy ruột người quấn quanh cây, đầu người treo lên ngọn cây, chặt đầu người, luộc lên, mời sứ giả của Hậu Trần là Nguyễn Biểu ăn) nên kế hoặch đánh Cao Bộ bị lọt vào tay LS.
Đêm ngày 7 tháng 11/1426, đội quân đánh tập hậu bí mật lên đường đi qua Chúc Động rồi qua Tốt Động. Cũng đêm đấy, toàn bộ nghĩa quân LS bỏ căn cứ Cao Bộ hành quân đến Tốt Động và Chúc Động để mai phục, chỉ để lại một đội quân nhỏ canh cờ, canh cổng trại, như không biết chuyện gì về kế hoạch của VT. Truyền thuyết vùng này nói nghĩa quân ẩn trong các đống rạ, bờ cỏ, dưới mương trong đêm đông cực rét.
Kế hoặch của bọn này có chi tiết, là khi quân đánh vỗ mặt của Vương Thông nổi pháo hiệu, có nghĩa là chúng đang tấn công Cao Bộ, thì bọn tập hậu phải tăng tốc để đánh vào mặt sau. Chi tiết này ta cũng biết luôn. Khi bọn VT chưa còn chưa nổ pháo hiệu thì ta đã nổ trước, thế là cánh quân tập hậu (nhắc lại cho dễ nhớ, cánh này đi qua CHúc Động, Tốt Động) hùng hục tăng tốc, lọt hết vào trận địa của ta, khi mà cánh quân VT còn chưa tới Cao Bộ. Khi đó, ta nổ pháo lần 2, theo quy ước từ trước, toàn bộ quân mai phục ở Tôt Động đồng loạt đứng lên, mặc sức chém giết vào lúc tờ mờ sáng. Bọn VT thấy pháo hiệu (lẽ ra là do mình nổ) thì ngơ ngác, phái quân do thám tới Cao Bộ thì thấy trại vẫn im như tờ, không hiểu gì hết, và vẫn án binh chưa đánh. Khi nghe tin cánh tập hậu bị tiêu diệt ở Tốt Động, VT hốt hoảng cho quân rút lui về Cổ Sở, rồi từ Cổ Sở lại rút về Đông Quan, (thằng ngu này nếu tỉnh ra, không chạy mà cứ tiếp tục đánh Cao Bộ thì LS sẽ mất trại và chúng sẽ không bị phục trên đường về đi qua Chúc Động). Trên đường về Đông Quan lại đi qua Chúc Động rồi qua Ninh Kiều. Bọn thua ở Tốt Động cũng quay đầu lại, chạy về Đông Quan, và đường này chúng cũng qua Chúc Động và Ninh Kiều. Nhưng khốn thay cho chúng, tại Chúc Động, Lam Sơn cũng đã phục quân từ đêm trước. Khi cả 2 cánh quân chúng rút tới Chúc Động thì quân mai phục lại vùng đứng dậy, chém giết lần thứ 2, chúng chạy qua Ninh Kiều, quân LS chặt đứt cầu, xác trôi nghẽn sông Ninh.
Trận này diễn ra từ mờ sáng đến giữa trưa, kết thúc với thiệt hại 3 vạn quân và 1 vạn bị bắt sống. Gần như xoá sổ 5 vạn quân của VT vừa mang sang, buộc VT phải co vào ĐÔng Quan cố thủ và tiếp tục gọi viện binh. Lại có 15 vạn quân khác kéo sang (bọn này mạng người không thiếu), dẫn tới trận Chi Lăng - Xương Giang (sẽ viết sau).
Thế nên trận này được nhắc tới trong Cáo bình Ngô (thực chất là bình Minh)
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
(Tuỵ Động là tên cũ của Tốt Động)
 
Last edited by a moderator: