Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
Trong khí thế sôi sục chống TQ thế này. Em xin giới thiệu bài viết về cuộc chiến đánh hơn 20 vạn Quân Thanh của Quang Trung-Nguyễn Huệ cho mọi người đọc tham khảo:

"Cuối năm 1788, nguy cơ xâm lược của quân Thanh trở thành mối đe dọa lớn cho đất nước chúng ta.
Nhà Thanh huy động một lực lượng bộ binh gồm 20 vạn (* = 200 000) quân chiến đấu và hàng chục vạn quân vận chuyển phục dịch, do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị làm thống soái. Vua Càn Long nhà Thanh ra một bản chỉ dụ trực tiếp đề ra phương hướng chiến lược cho Tôn Sĩ Nghị nhằm lợi dụng những mâu thuẩn trong nước ta để thực hiện dã tâm xâm lược. Nhà Thanh còn dự định điều động một lực lượng thủy binh để khi cần thiết, sẽ vượt biên giới đánh thẳng vào Thuận Quảng hợp với bộ binh tiến công từ Bắc xuống. Quyết tâm xâm lược của kẻ thù rất lớn, âm mưu của chúng rất nguy hiểm.

Tháng 11 năm 1788, quân Thanh chia làm bốn đạo tiến vào nước ta. Theo tính toán chủ quan của Tôn Sĩ Nghị, nhà Thanh hủy bỏ kế hoạch điều động thủy binh đánh vào Thuận Quảng. Do đó, quân Thanh xâm lược nước ta chỉ có bộ binh.

- Đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, qua Lạng Sơn tiến xuống Thăng Long.
- Đạo quân thứ hai do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy, qua Cao Bằng tiến xuống.
- Đạo quân thứ ba do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, qua Tuyên Quang tiến xuống.
- Đạo quân thứ tư theo đường Yên Quảng (Quảng Ninh) tiến vào.

Quân Tây Sơn ở Bắc Hà lúc bấy giờ do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, chỉ khoảng một vài vạn quân. Trước cuộc xâm lược ồ ạt và đại qui mô của quân Thanh, các đồn ải biên giới bị thất thủ. Trong nước, bọn phong kiến lại nổi dậy tiếp tay cho bọn xâm lược.

Trong tình hình bất lợi đó, Ngô Văn Sở theo chủ trương sáng suốt của Ngô Thì Nhậm, quyết định tổ chức cuộc rút lui chủ động để bảo toàn lực lượng.

Ngô Thì Nhậm vốn là quan của họ Trịnh (làm đến Thị Lang) nhưng là một sĩ phu yêu nước hiểu biết đâu là chính nghĩa nên đã sớm tham gia phong trào Tây Sơn. Ông được Nguyễn Huệ tin cậy, giao cho trọng trách cùng với Ngô Văn Sở lo liệu công việc Bắc Hà. Chủ trương rút lui của ông được tóm tắt trong câu nói "nay ta bảo toàn lấy quân lực mà rút lui không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi chúng đi…"
Nguyễn Huệ đánh giá cao chủ trương đó của Ngô Thì Nhậm: "Các ông đã biết nhịn nhục để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra ngăn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Kế ấy là rất đúng".

Quân Tây Sơn được lịnh tụ tập về Thăng Long. Tại đây, quân ta tổ chức một cuộc duyệt binh lớn bên bờ sông Hồng rồi rút lui theo kế hoạch đã định. Thủy binh đóng giữ vùng Biện Sơn (Thanh Hóa), bộ binh chiếm lĩnh miền núi Tam Điệp (Ninh Bình) lập thành một phòng tuyến vững chắc.

Trước khi rút lui, quân Tây Sơn đã phá hủy cầu đường, cất giấu thuyền bè và bố trí những lực lượng kiềm chế trên đường tiến quân của địch. Vì vậy, đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị từ biên giới phải mất 20 ngày mới đến Thăng Long và trên đường bị chặn đánh nhiều nơi.

Ngày 17 tháng 12, quân Thanh chiếm đóng thành Thăng Long. Thu được thắng lợi tương đối dễ dàng. Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất khinh địch và ngạo mạn. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm thời nghỉ ngơi để chuẩn bị ăn Tết Nguyên Đán và chuẩn bị sang xuân sẽ tiếp tục tiến công.
Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long (phía Đông Nam Thăng Long) và bố trí lực lượng thành thế phòng ngự tạm thời.

Đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị đóng doanh trại ở hai bên bờ sông Hồng, giữa có cầu phao qua lại.
Phía Nam Thăng Long, hắn bố trí một hệ thống phòng ngự gồm nhiều đồn lũy mà cứ điểm then chốt là đồn Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Đạo quân Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội), bảo vệ mặt Tây Nam thành Thăng Long. Đạo quân Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây, đạo quân thứ tư đóng ở Hải Dương.

Kinh thành Thăng Long và một phần đất Bắc Hà đã bị quân giặc chiếm đóng. Tôn Sĩ Nghị buông lỏng cho quân lính mặc sức hoành hành, cướp bóc, hãm hiếp dân ta.

Bọn phong kiến trong nước cấu kết với bọn cướp nước. Bè lũ Lê Chiêu Thống bám gót quân Thanh, trở về Thăng Long. Hắn được vua Thanh phong làm An Nam quốc vương nhưng chỉ là một tên bù nhìn ươn hèn đốn mạt. Đối với quân thù thì bọn chúng quỳ lụy đến khốn nạn. Đối với dân trong nước thì chúng tàn nhẫn đến dã man. Dựa vào thế quân Thanh, chúng trả thù báo oán rất ti tiện và ra sức vơ vét thóc gạo, cướp bóc của cải để cung đốn cho hàng chục vạn quân xâm lược. Bộ mặt phản dân hại nước của bè lũ chúng đã lộ rõ.

Hằng ngày Lê Chiêu Thống đến chầu chực ở dinh Tôn Sĩ Nghị để nhận lịnh, mà thậm chí có lần hắn không thèm tiếp và đuổi về. Người dân Bắc Hà nói với nhau: "Nước Nam từ khi có đế vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như vậy".

Trước cảnh đất nước bị quân giặc dày xéo, dân Bắc Hà sôi sục căm hờn. Tất cả mọi người dân yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, đều hướng về phía Tây Sơn và sẵn sàng tập hợp lại dưới lá cờ đại nghĩa của người anh hùng Nguyễn Huệ.

Trong lúc quân Thanh đang tự đắc, tự mãn với những thắng lợi bước đầu và mải mê chuẩn bị ăn Tết, thì quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ, chuẩn bị chờ đợi thời cơ, tận dụng mọi sơ hở của địch để nhanh chóng quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi."
(còn tiếp)
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
" Ngày 21 tháng 12 năm 1788 tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ được tin báo khẩn cấp của Ngô Văn Sở. Ngày hôm sau, ông làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc.

Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế là tự gánh lấy trách nhiệm cứu nước trước dân tộc. Ý nghĩa đó thể hiện rõ trong bài Chiếu lên ngôi: "Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, và không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy, trẫm nghĩ phải tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh, rong ruổi việc nhung mã… cốt ý quét sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa… Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, vậy mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm".

Quang Trung dừng quân lại ở Nghệ An hơn 10 ngày để bổ sung thêm lực lượng. Lá cờ của quân Tây Sơn lúc này đã trở thành ngọn cờ quật cường và đoàn kết của cả dân tộc. Hơn bao giờ hết, phong trào nông dân Tây Sơn đang phát triển thành một phong trào dân tộc rộng rãi. Trước cảnh tổ quốc lâm nguy, hàng vạn thanh niên đã hăng hái gia nhập nghĩa quân. Lực lượng quân Tây Sơn đã nhanh chóng tăng lên 10 vạn. Lực lượng nòng cốt của quân đội đó là lực lượng vũ trang của nông dân đã trải qua mười bảy năm trời chinh chiến từ trong Nam ra ngoài Bắc, đã được tôi luyện trong ngọn lửa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu.

Tại trấn doanh Nghệ An, Quang Trung tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, để biểu dương lực lượng và cổ vũ quân sĩ trước khi bước vào cuộc chiến với quân thù.

Trong buổi lễ duyệt binh đó, Quang Trung đọc lời kêu gọi quân sĩ: "Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, trời nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị… Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa binh đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Minh đến nay, dân ta không đến nỗi khổ như thời nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi hại, được mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại khác. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…"

Sau đó, quân Tây Sơn tiến ra Thanh Hóa, nghĩa quân lại được dân đón tiếp nồng nhiệt, truyền thêm sức mạnh chiến đấu. Hàng loạt thanh niên trai tráng lại nô nức tòng quân.

Người dân Thanh Hóa còn ghi nhớ bài ca dao kêu gọi thanh niên gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, trong đó có câu:


"Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà theo mẹ già"

Ngày 15 tháng 1 năm 1789 (tức 20 tháng chạp (12) âm lịch), quân Tây Sơn tập hợp ở Tam Điệp. Sau khi nghiên cứu tình hình mọi mặt, Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn nhằm tiêu diệt nhanh chóng và triệt để toàn bộ lực lượng quân địch.

Quân Tây Sơn chia làm năm đạo tiến ra theo những hướng khác nhau tạo thành một thế bao vây chiến lược dồn quân địch vào tình thế hoàn toàn bị động, bị tiến công dồn dập và bị bao vây tiêu diệt không cách nào cứu vãn nổi.

Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, đánh thẳng vào hệ thống phòng ngự chủ yếu của địch ở phía Nam Thăng Long.

Đạo quân thứ hai do Đô đốc Bảo (*) chỉ huy, tiến ra Đại Áng (Thường Tín, Hà Tây) làm nhiệm vụ yểm hộ và phối hợp với đạo quân chủ lực.

Đạo quân thứ ba do Đô đốc Long (*) chỉ huy bất ngờ tiêu diệt đồn Khương Thượng rồi thọc sâu vào Thăng Long.

Đạo quân thứ tư do Đô đốc Tuyết (*) chỉ huy, vượt biển đánh vào Hải Dương.

Đạo quân thứ năm do Đô đốc Lộc (*) chỉ huy, vượt biển tiến lên chặng đường rút lui của quân Thanh.

Trước khi xuất phát, Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang Xuân, ngày 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn".

Trước đó, trong lời dụ tướng sĩ tại Thanh Hóa, Quang Trung cũng đã nói lên quyết tâm sắt đá đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

"Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".

Hai câu đầu nói lên quyết tâm đánh giặc để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn nền văn hóa và những phong tục tập quán lâu đời của dân Việt.
Hai câu giữa nói lên quyết tâm đánh tiêu diệt khiến cho quân giặc mảnh giáp không còn, không một chiếc xe nào trở về.
Câu cuối nghĩa là: đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ.

Những lời tuyên bố đanh thép của vị thống soái trước giờ xuất trận càng nâng cao ý chí chiến đấu và niềm tin vững chắc của quân sĩ vào thắng lợi của cuộc chiến tranh cứu nước."
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
NHỮNG TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH

Đêm 25 tháng 1 năm 1789 - tức đêm 30 Tết - đạo quân chủ lực của ta do Nguyễn Huệ chỉ huy vượt sông Gián Khẩu (sông Đáy). Tiêu diệt đồn tiền tiêu trên hệ thống phòng ngự của địch mở đầu cuộc tiến công đại phá quân Thanh. Quân Tây Sơn nhanh chóng tiến lên, liên tiếp tiêu diệt các đồn quân Thanh và đuổi theo bắt gọn quân dọ thám của giặc. Đêm 28 - tức đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu - quân Tây Sơn bí mật vây chặt đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây) rồi uy hiếp buộc địch đầu hàng. Quân ta tiêu diệt một đồn lũy trọng yếu của địch cách Thăng Long 20 ki-lô-mét mà không tốn một mũi tên, hòn đạn.

Mờ sáng ngày 30 - tức ngày mùng 5 Tết - quân ta bước vào trận quyết chiến với địch ở đồn Ngọc Hồi. Đây là đồn lũy kiên cố giữ vị trí then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch, bảo vệ trực tiếp cửa ngõ phía Nam Thăng Long.

Đồn Ngọc Hồi cách Thăng Long 14 ki-lô-mét, án ngữ con đường thiên lý trong Nam ra. Quanh đồn có chiến lũy bảo vệ. Phía ngoài lũy có bãi chướng ngại dày đặc gồm chông sắt, cạm bẫy và địa lôi. Lực lượng quân địch ở đây có khoảng ba vạn quân tinh nhuệ đặt dưới quyền chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh là phó tướng của Tôn Sĩ Nghị và là tướng chỉ huy toàn bộ hệ thống phòng ngự phía Nam Thăng Long. Sau khi đồn Hà Hồi bị tiêu diệt, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh tăng viện cho đồn Ngọc Hồi và thường xuyên theo dõi tình hình chiến sự của mặt trận phía Nam để sẵn sàng ứng phó.

Quang Trung trực tiếp chỉ huy tấn công đồn ác liệt này.
Mở đầu trận đánh, đội tượng binh gồm hơn một trăm voi chiến của quân Tây Sơn xông vào tiến công. Đội kỵ binh thiện chiến của quân Thanh ra nghênh chiến bị tan vỡ nhanh chóng. Quân địch dựa vào chiến lũy, hết sức cố thủ. Chúng từ trên chiến lũy, bắn đại bác và cung tên ra dữ dội để cản đường quân ta. Một đội xung kích của ta đã chuẩn bị trước gồm những chiến sĩ cảm tử, dùng những lá chắn lớn (ván gỗ quấn rơm ướt) che mình xông thẳng vào chiến lũy của địch. Quân ta đột nhập vào chiến lũy, giáp chiến với quân thù. Đại quân Tây Sơn ào ạt xung phong vào trận địa với dũng khí áp đảo kẻ thù. Chính quân địch cũng phải thừa nhận rằng: "Quân Tây Sơn, hợp lại đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như triều dâng".

Trước sức công phá như vũ bão và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của quân Tây Sơn, đồn Ngọc Hồi bị san phẳng. Một bộ phận quân địch bị tiêu diệt tại trận. Bọn sống sót sau cơn bão lửa khủng khiếp đó, bỏ chạy về Thăng Long. Nhưng Quang Trung đã bố trí một lực lượng nghi binh chặn đường, buộc chúng phải dấn thân vào cánh Đầm Mực (Thanh Trì, Hà Nội) rộng lớn và lầy lội. Tại đây, đạo quân của đô đốc Bảo đã được lịnh, lợi dụng địa hình bố trí sẵn một trận địa để tiêu diệt bọn quân Thanh. Hàng vạn quân giặc bị vùi xác dưới cánh đầm đó. Bằng trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, quân Tây Sơn đã tiêu diệt toàn bộ quân Thanh và bộ chỉ huy của chúng tại cứ điểm then chốt nhất, đập tan hệ thống phòng ngự của địch và mở toang cửa ngõ tiến vào thành Thăng Long.

Cũng vào mờ sáng ngày 30 tháng 1, đạo quân của đô đốc Long bất ngờ bao vây, tiêu diệt đồn Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội) ở phía Tây Nam thành Thăng Long. Quân Tây Sơn bí mật bao vây vào lúc trời còn tối, rồi tiến công dữ dội vào đồn giặc. Người dân tại đây nổi dậy cùng trực tiếp tham gia chiến đấu. Họ dùng rơm rạ bện thành con củi, tẩm dầu đốt lửa, tạo thành một vòng vây lửa uy hiếp quân địch. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt nhanh chóng. Tướng chỉ huy là đề đốc Sầm Nghi Đống khiếp sợ phải thắt cổ tự tử. Hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp chiến trường.

Tại đại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đang lo lắng theo dõi mặt trận phía Nam để sẵn sàng điều quân đi cứu viện. Bỗng nhiên, hắn được tin cấp báo đồn Khương Thượng bị tiêu diệt. Hắn đang hoảng hốt chưa kịp đối phó thì đạo quân của Đô đốc Long đã tràn vào thành Thăng Long và như một mũi dao nhọn, đang lao thẳng về phía đại bản doanh của hắn. Hắn khiếp sợ đến nỗi không kịp mặc áo giáp và đóng yên ngựa, vội vàng cùng với toán kỵ binh hầu cận vượt cầu phao tháo chạy trước hết. Quân Thanh tan vỡ, tranh nhau tìm đường trốn chạy. Tôn Sĩ Nghị ra lịnh cắt cầu phao để cản đường truy kích của quân Tây Sơn. Do hành động tàn nhẫn của hắn, hàng vạn quân Thanh bị bỏ xác dưới sông Hồng.

Sáng ngày 30 tháng 1, đạo quân của đô đốc Long tiến vào thành Thăng Long. Trưa hôm đó, Quang Trung và đạo quân chủ lực tiến vào kinh thành giữa sự hoan hô đón chào của dân. Chiếc áo chiến bào của người anh hùng "áo vải" hôm đó đã nhuốm đen khói súng của những ngày đêm chiến đấu ác liệt. Lá cờ đã từng giương cao từ những ngày đầu khởi nghĩa, tung bay theo bước đường thắng lợi của nghĩa quân, nay lại dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tiến vào kinh thành.

Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ:

"Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng.
Quân vua một giận oai bốn phương.
Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống dám ai đương.
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
Mây tạnh mù tan trời lại sáng.
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"

Trong lúc đó, Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân đang chạy trốn một cách thảm hại. Khắp nơi, trên con đường chạy trốn, chúng bị chận đánh tơi bời và bị tiêu diệt gần hết. Số sống sót phải luồn rừng, lội suối theo đường tắt trốn về nước. Bại tướng Tôn Sĩ Nghị cũng phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân.

Một tên quan chạy theo Tôn Sĩ Nghị đã thú nhận: "Tôi với Chế Hiến (tức Tôn Sĩ Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được thức ăn thức uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan".

Đạo quân Thanh đóng ở Hải Dương, cũng bị đánh bại. Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy quân ta không tiến công nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước."
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
couto nói:
tonyhao nói:
<span style=""color: #ff0000;"">mẹ ơi, té lộn cổ luôn</span>
TKM nói:
Em có đọc 1 số thông tin ko chính thức là Pháp cũng sẽ xâm lược VN cho dù cụ Gia Long có ký hiệp ước với nó ko. Lúc cụ Gia Long ký là với vua Pháp, nhưng bọn xâm lược ta là tư sản Pháp (sau khi lật đổ vua) và Pháp chưa hề viện trợ gì cho ta nói chính xác hơn là linh mục người Pháp đó tự thân vận động để viện trợ cho Gia Long? Em cũng nghe đồn là <span style=""color: #ff0000;"">cụ Gia Long cũng từng cứu cụ Nguyễn Huệ</span> trong trận đánh quân Xiêm phải ko các bác?

ĐÚng mà bác, dưới đường gươm của cụ Huệ, họ hàng nhà cụ Ánh gần như bị xóa sổ, nên cụ Ánh chịu ơn đó nên khi đánh Tâ Sơn xong thì cũng xóa sổ sạch dòng giống nhà cụ Huệ vì cái ơn tri ngộ năm xưa

Gia Long trả thù Tây Sơn


Năm 1802,sau khj chjếm đựơc kinh đô Phú xuân,một trong những việc làm đầu tiên của Gia long là làm lễ"HIẾN PHÙ",Tức là cho dẫn vua tôi Tây sơn đã bắt làm tù binh đến trứơc bàn thờ tổ tiên để báo cáo chjến thắng.
Vin vào tục lệ ngàn xưa ấy và nhằm uy hjếp vào tinh thần đông đảo quần chúng còn luyến tiếc phong trào"áo vải cờ đào". Gia Long đã hành hình vua quan Tây sơn còn sống sót và gia đình họ vô cùng dã man.
Giáo sĩ De la Bissachèrđ có viết về vụ trả thù ấy mà sau đây là bản dịch những nét chính:
"Vua Gia Long sau khi về kinh đô Đàng Trong và nghỉ ngơi tầm 2 tháng đã ra tay trừng phạt tù binh của mình.
Nguyên tôi có một môn đồ ra Huế gặp nhà vua để xin cho tôi một việc. Phái viên ấy đã xin đựơc ghi tên vào danh sách những ngừơi đựơc phép ra vào hoàng thành và có mặt ở đấy trong những ngày hành hình tù nhân Tây sơn,nên đã theo dõi vụ này từ đầu tới cuối và đã kể rằng:
trứơc hết bắt buộc vua Quang Toản tự mắt mình nhìn một hoạt cảnh gồm 5 hành động:
1. Phơi bày thi thể của bố mẹ Quang toảng và ngừơi thân cận nhất của nhà vua một cách nguyên xi như lúc vừa ở dứơi mộ lên chiều hôm trứơc.
2. Lắp lại thành từng bộ phận hoặc toàn thân hài cốt của Quang trung và bố mẹ Người để gây cảm xúc rùng rợn thương tâm.
3. Tập trung những hài cốt đã lắp cùng những hài cốt rời rạc vào một cái giỏ lớn.
4. Bắt buộc tất cả lính tráng và những ngừơi có mặt phải đi tiểu vào cái giỏ hài cốt ấy.
5. Giã nát tất cả hài cốt thành bột và bỏ vào cái giỏ khác đặt sát tận mắt vua Quang Toản để gây thêm đau khổ cho nhà vua.
Sau khi khủng bố tinh thần như vậy, Quang toản đựơc cho ăn tại chỗ một bữa cơm khá ngon rồi bịt miệng bằng giẻ rách,tất cả gia quyến nhà vua có mặt đều bị bịt mồm để ngăn cản họ khỏi kêu la chửi rủa.
Sau đó,ngừơi ta dẫn tới 4 con voi. Căng tay chân Quang toản ra và trói một tay hoặc một chân vảo một chân sau của voi. Rồi,cho 4 tựơng bjnh điều khjển vog về 4 hứơng để xé thân nhà vua thành 4mảnh. Từ 4 mảnh xác ấy ngừơi ta lột da,róc thịt,lấy xương để riêng một nơi. Còn da thịt thì chja làm 5phần bằng nhau đem phơi ở 5 chợ đông ngừơi nhất thành phố trên những cột rất cao để cho quạ,diều cắt bay tới rỉa xác trog qúa trình thịt thối rữa.
Thật vô cùng dã man
Sau vua Quang tỏan ,tới lựơt thái phó Trần Quang Diệu. Ông này nổi tiếng là ngứời có hiếu với mẹ hơn 80tuổi,nên đựơc Gia Long miễn cho hình voi xé nhưng cũng đựơc hửơng hình chặt đầu.
Nhưng con gái ông mới 15 tuổi,xinh đẹp dễ thương phải chịu hiǹh voi xé. Khi thấy một con voi ra quấn lấy mình,cô bé kêu lên vô cùng thê thảm"mẹ ơi! Cứu con với" -nhưng con ơi,- bà mẹ trả lời: con nên chết với bố mẹ hơn là sống với lũ lang sói kia.....lời nói ấy vừa chấm dứt thì con voi đưa vòi quấn lấy cô bé tung lên cao rùi cho rơi xuống đúng vào cặp ngà của nó...sau haj lần voi làm như thế thì cô bé chết.
Sau khi mục kích cái chết của chồng con,nữ tứơng BÙI THỊ XUÂN hiên ngang đi thẳng tới con voi thì có tiếng hô to: "quì xuống cho voi dễ nắm bắt" . Song bà không quỳ mà cứ ung dung tiến sát tới cạnh con voi. Thấy voi vẫn đứng yên,ngừơi quản tựơng phải thúc giục nó bằng nhiều cách nó mới chịu quấn bà tung lên như nó đã làm với con bà,tuy nhiên phải tung tới lần thứ ba thì bà mới tắc thở.
Người ta nói: " có lẽ khi nữ tứơng Bùi Thị Xuân hiên ngang đi tới,con voi đã nhận ra là một trong những ngừơi chủ của nó ."
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
couto nói:
tonyhao nói:
<span style=""color: #ff0000;"">mẹ ơi, té lộn cổ luôn</span>
TKM nói:
Em có đọc 1 số thông tin ko chính thức là Pháp cũng sẽ xâm lược VN cho dù cụ Gia Long có ký hiệp ước với nó ko. Lúc cụ Gia Long ký là với vua Pháp, nhưng bọn xâm lược ta là tư sản Pháp (sau khi lật đổ vua) và Pháp chưa hề viện trợ gì cho ta nói chính xác hơn là linh mục người Pháp đó tự thân vận động để viện trợ cho Gia Long? Em cũng nghe đồn là <span style=""color: #ff0000;"">cụ Gia Long cũng từng cứu cụ Nguyễn Huệ</span> trong trận đánh quân Xiêm phải ko các bác?

ĐÚng mà bác, dưới đường gươm của cụ Huệ, họ hàng nhà cụ Ánh gần như bị xóa sổ, nên cụ Ánh chịu ơn đó nên khi đánh Tâ Sơn xong thì cũng xóa sổ sạch dòng giống nhà cụ Huệ vì cái ơn tri ngộ năm xưa

Lý do như bác Cuto nói là do Tây sơn Nguyễn Huệ đã quật mồ họ hàng của họ Nguyễn Phúc lên đổ xuống sông nên Gia Long sau khi lên ngôi trả thù man rợ như trên.
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Ph%C3%BAc_Lu%C3%A2n#L.C4.83ng_m.E1.BB.99
 
Hạng C
19/5/08
546
208
43
Tuy Hòa
Quỳnh Rùa nói:
Gia Long trả thù Tây Sơn
Năm 1802,sau khj chjếm đựơc kinh đô Phú xuân,một trong những việc làm đầu tiên của Gia long là làm lễ"HIẾN PHÙ",Tức là cho dẫn vua tôi Tây sơn đã bắt làm tù binh đến trứơc bàn thờ tổ tiên để báo cáo chjến thắng.
Vin vào tục lệ ngàn xưa ấy và nhằm uy hjếp vào tinh thần đông đảo quần chúng còn luyến tiếc phong trào"áo vải cờ đào". Gia Long đã hành hình vua quan Tây sơn còn sống sót và gia đình họ vô cùng dã man.
Giáo sĩ De la Bissachèrđ có viết về vụ trả thù ấy mà sau đây là bản dịch những nét chính:
"Vua Gia Long sau khi về kinh đô Đàng Trong và nghỉ ngơi tầm 2 tháng đã ra tay trừng phạt tù binh của mình.
Nguyên tôi có một môn đồ ra Huế gặp nhà vua để xin cho tôi một việc. Phái viên ấy đã xin đựơc ghi tên vào danh sách những ngừơi đựơc phép ra vào hoàng thành và có mặt ở đấy trong những ngày hành hình tù nhân Tây sơn,nên đã theo dõi vụ này từ đầu tới cuối và đã kể rằng:
trứơc hết bắt buộc vua Quang Toản tự mắt mình nhìn một hoạt cảnh gồm 5 hành động:
1. Phơi bày thi thể của bố mẹ Quang toảng và ngừơi thân cận nhất của nhà vua một cách nguyên xi như lúc vừa ở dứơi mộ lên chiều hôm trứơc.
2. Lắp lại thành từng bộ phận hoặc toàn thân hài cốt của Quang trung và bố mẹ Người để gây cảm xúc rùng rợn thương tâm.
3. Tập trung những hài cốt đã lắp cùng những hài cốt rời rạc vào một cái giỏ lớn.
4. Bắt buộc tất cả lính tráng và những ngừơi có mặt phải đi tiểu vào cái giỏ hài cốt ấy.
5. Giã nát tất cả hài cốt thành bột và bỏ vào cái giỏ khác đặt sát tận mắt vua Quang Toản để gây thêm đau khổ cho nhà vua.
Sau khi khủng bố tinh thần như vậy, Quang toản đựơc cho ăn tại chỗ một bữa cơm khá ngon rồi bịt miệng bằng giẻ rách,tất cả gia quyến nhà vua có mặt đều bị bịt mồm để ngăn cản họ khỏi kêu la chửi rủa.
Sau đó,ngừơi ta dẫn tới 4 con voi. Căng tay chân Quang toản ra và trói một tay hoặc một chân vảo một chân sau của voi. Rồi,cho 4 tựơng bjnh điều khjển vog về 4 hứơng để xé thân nhà vua thành 4mảnh. Từ 4 mảnh xác ấy ngừơi ta lột da,róc thịt,lấy xương để riêng một nơi. Còn da thịt thì chja làm 5phần bằng nhau đem phơi ở 5 chợ đông ngừơi nhất thành phố trên những cột rất cao để cho quạ,diều cắt bay tới rỉa xác trog qúa trình thịt thối rữa.
Thật vô cùng dã man
Sau vua Quang tỏan ,tới lựơt thái phó Trần Quang Diệu. Ông này nổi tiếng là ngứời có hiếu với mẹ hơn 80tuổi,nên đựơc Gia Long miễn cho hình voi xé nhưng cũng đựơc hửơng hình chặt đầu.
Nhưng con gái ông mới 15 tuổi,xinh đẹp dễ thương phải chịu hiǹh voi xé. Khi thấy một con voi ra quấn lấy mình,cô bé kêu lên vô cùng thê thảm"mẹ ơi! Cứu con với" -nhưng con ơi,- bà mẹ trả lời: con nên chết với bố mẹ hơn là sống với lũ lang sói kia.....lời nói ấy vừa chấm dứt thì con voi đưa vòi quấn lấy cô bé tung lên cao rùi cho rơi xuống đúng vào cặp ngà của nó...sau haj lần voi làm như thế thì cô bé chết.
Sau khi mục kích cái chết của chồng con,nữ tứơng BÙI THỊ XUÂN hiên ngang đi thẳng tới con voi thì có tiếng hô to: "quì xuống cho voi dễ nắm bắt" . Song bà không quỳ mà cứ ung dung tiến sát tới cạnh con voi. Thấy voi vẫn đứng yên,ngừơi quản tựơng phải thúc giục nó bằng nhiều cách nó mới chịu quấn bà tung lên như nó đã làm với con bà,tuy nhiên phải tung tới lần thứ ba thì bà mới tắc thở.
Người ta nói: " có lẽ khi nữ tứơng Bùi Thị Xuân hiên ngang đi tới,con voi đã nhận ra là một trong những ngừơi chủ của nó ."
Quá tàn nhẫn... :confused:, QT làm thì chỉ trả thù gia đình QT thôi chứ ta!
 
Last edited by a moderator:
TKM confirmed
Hạng D
24/2/08
2.139
18.402
113
Theo em biết vua Gia Long phải làm như vậy để ko ai dám nổi dậy.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
Trước khi đại phá hơn 20 vạn quân Thanh năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ đã dẹp tan quân Xiêm La (Tiêm-Thái Lan) ở phía nam do Nguyễn Ánh Gia Long "cõng rắn cắn gà nhà". Xin trích kể lại như sau:

"Trên bán đảo Ðông Dương, Ðại Việt và Xiêm La là hai con cọp, lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với hai nước yếu nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng chạm giữa hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị bại trước sự dũng mãnh phi thường của nước Việt.

Tuy nhiên người Xiêm đã thật sự sợ dân Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), tiêu diệt hơn 2 vạn quân, đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền, tại Vàm Rạch Gầm-Xoài Mút, tỉnh Ðịnh Tường, vào những ngày sắp Tết năm 1785.

1- NƯỚC XIÊM LA:

Xiêm La hay Thái Lan ngày nay có diện tích 512.998 km2, dân số tính tới năm 2004 là 55.448.000 người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các). 95% người Thái theo Phât giáo tiểu thừa.

Thật ra Xiêm không phải là quốc hiệu của người Thái. Ðó là cái tên mà người Cao Mên và Chiêm Thành dùng để gọi họ. Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất hiện trên các văn bía của người Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người Syam, thì đầy rẩy nơi các di tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên từ thế kỷ thứ XII sau TL.

Người VN theo cách gọi của Miên và Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối phát âm Bắc Kinh, đọc là Tiêm, rồi ghép với tên của nước La Hộc, tức là vùng Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam, thành nước Tiêm-La. Còn người Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa Từ Ðiển của Ý Ðại Lợi (Enciclopedia Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp khi dùng tiếng Siam để chỉ người Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người Miến Ðiện dùng để chỉ người Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.

Nhưng căn cứ vào sử liệu, ta thấy từ ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là Thay, còn người Shan là Nghiện. Riêng danh từ Siam chỉ mới xuất hiện gần đây. Do trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường Thay hay Prathet Thay. Ðời vua Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939, tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái. Từ 1945-1948, tên nước trở lại là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là Thái. Với người Anh, họ phiên âm Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau này gọi nước Xiêm là Thailand. Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn VN thì đọc là Thái Lan.

2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ÐẠI VIỆT VÀ THÁI LAN:

Từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã tới khai hoang tại vùng Ðồng-Nai và Mỏi-Xùy (nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước đến nay, nên quốc vương nước này là Chey Chetia II sang cầu thân với Chúa Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó, Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho dân Ðại Việt tới làm ăn tại Chân Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường bộ từ Phú Yên vào Ðồng Nai, vì lúc đó nước Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La đả kết thù với Ðại Việt, vì cả hai đều muốn giành giựt ảnh hưởng tới Lào và Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu kém, do nội loạn thường trực.

Năm 1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và dắt quân Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn, chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi giết người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Ðồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về biên giới Miên-Thái, giết vua Nặc Ông Ðài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân Lạp, đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp, tại Sài Gòn. Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.

Năm 1687, quân Xiêm lại vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền, xin thần phục Nam Hà, nên được Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng binh.

Năm 1717, quân Xiêm tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.

Năm 1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại bác trên núi Tô Châu bắn vào thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh Mạc Thiên Tứ vì binh ít và không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên... lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn thủ Long-Hồ và Ðông Khấu là Tống Phước Hợp và Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải bỏ Hà Tiên, chạy về cố thủ thành Nam Vang.

Năm 1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Ðàm, thống suất hai đạo Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền. Quân Nguyễn chiếm lại Hà Tiên và Chân Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp.

Năm 1780, vì tàu buôn bị cướp ở Hà Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên cùng sứ thần của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Xuân... đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đày lên tận biên giới Miến-Thái.

Năm 1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy, đồng thời giao hảo với chúa Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận tuyệt

Năm 1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn Ánh, vua Rama 1, sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp thuyèn, do hai người cháu là Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần. Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Ðéc... đồng thời cướp của giết người, không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng phải bó tay ví không còn binh lực để kềm chế giặc.

Cuối tháng chạp cùng năm, được tin quân Xiêm đã tới Ðịnh Tường, nên Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ, từ Qui Nhơn đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm-Xoài Mút. Từ đó người Xiêm sợ Ðại Việt như sợ cọp.

Năm 1817, sau khi chiếm được Stung Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang chiếm một phần cao nguyên Trung Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã man. Tình trạng kéo dài tới thời Pháp thuộc mới chấm dứt.
(còn tiếp)
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.525
113
3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI ÐỊNH TƯỜNG:

+ Ðịa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho):

Ðất Ðịnh Tường thuộc dinh Phiên Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm 1731. Vào năm 1772 Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Ðạo Trường Ðồn, rồi thành Huyện Kiến An vào năm Gia Long nguyên niên 1801.

Năm 1802 lại cải thành Dinh Trấn Ðịnh, phiên trấn Ðịnh Tường. Ðời vua Minh Mang (1820-1840), chính thức chia đất Nam Kỳ, thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Ðịnh Tường. Danh xưng này tồn tại tới ngày 30-4-1975 thì mất

Riêng hai địa danh "RẠCH GẦM-XOÀI MÚT’ nằm trong tỉnh Ðịnh Tường. Theo các tài liệu cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Ðó là một con rạch dài chừng 15km, phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các thôn xóm trù phú thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên.rồi đổ vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang) tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo chân các Chúa Nguyễn vào đây khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm cây cao, đầy các loại dã thú như voi, cọp, trăn-rắn, heo rừng, cá sấu. Nói chung chỗ nào đêm ngày cũng có tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh hồn, sởn óc, nhiều người vô phước bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng. Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên vùng này là "Rạch Cọp Gầm’. Về sau để dễ nhớ, nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần mọc gie ra khỏi con rạch. Ðúng là một vị trí chiến lược lý tưởng, để các nhà quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích, phản kích và nhất là hỏa công trận.

Vàm Rạch Gầm có bề ngang chừng 100m, thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy các loại thổ sản miệt vườn như cam, quít, ổi, chuối... Nhưng chợ Rạch Gầm nổi tiếng xưa nay vẫn là Vú Sửa, món đặc sản bản địa, ngon-ngọt hơn bất cứ nơi nào khác. Ðặc biệt, vú sữa lại đơm bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên Ðán. Cũng theo tài liệu, thì xã Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Ðịnh Tường, vào đầu thế kỷ thứ XVIII, do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn được dân chúng điạ phượng thờ kính cho tới ngày nay.

Xoài Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh, rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài trái nhỏ, hột to, cơm ít, nên muốn ăn phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại. Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình Ðức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7km và thành phố Mỹ Tho chừng 14 km.


+ Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn:

Từ năm 1627-1672, Trịnh Nguyễn đã đánh nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay), nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy quân rất quan trọng. Theo tài liệu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600 chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ biển VN, trong đó đặt nặng việc trang bị vũ lực trên tàu thuyền.

Theo sử liệu, thủy quân Tây Sơn có nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng trên 1000 chiếc. Một du khách người Anh tên John Barraw, tới thăm Ðàng Trong vào thế kỷ XVIII, đã viết: ’Người Việt ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ thuật đóng tàu đi biển". Theo tác giả, thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài từ 50-80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.

Theo Jean Baptiste Chaigeau, một võ quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh, cho biết thủy quân Tây Sơn gồm có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9 tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại bác loại đường kính 24. Có thủy đội chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới 40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có 300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng cánh buồm hình chữ nhật.

Về thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số trên 700 người. Quân Tây Sơn được trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo mác, còn có súng điểm thương nhưng lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi là "Hoả Hổ’ khi hai bên cận chiến. Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương, mà người Việt gọi là Tháp thuyền. Ðây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có pháo tháp trí súng đại bác. Các thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà chèo.

(còn tiếp)