Ngọc hồi [1], mở cánh xung phong đánh thẳng vào phía trước đồn Ngọc Hồi. Cánh quân xung phong này gồm những binh sĩ khỏe mạnh, thiện chiến, chia thành nhiều toán. Mỗi toán có mười người, mình giắt đoản đao, khiêng một mộc gỗ làm bằng ba tấm ván ghép lại, ngoài có phủ rơm ướt, và hai mươi người cầm vũ khí tiến theo sau bức mộc gỗ.
Toàn bộ cánh quân xung phong có sáu trăm người, chia làm hai mươi toán, dàn thành trận thế chữ nhất [2], ngang nhiên tiến vào trận địa. Đại bác trong đồn Ngọc Hồi bắn ra mất hiệu lực. Quân Thanh vội vàng bắn hỏa mù khiến trận địa tối tăm, hòng làm rối loạn hàng ngũ quân Tây Sơn [3]. Nhưng hỏa hổ của quân Tây Sơn tung lửa cháy sáng rực trời. Quân Tây Sơn vẫn ào ạt tiến lên, bất chấp cả đại bác, cung tên [4] và hỏa mù của giặc. Đoàn quân xung phong Tây Sơn tiến sát mặt đồn Ngọc Hồi, quẳng mộc gỗ xuống đất, phá tan cửa lũy [5] xông thẳng vào đại doanh của địch ở trong đồn. Quân Thanh liều mạng chống lại [6]. Quân xung kích Tây Sơn rút đoản đao ra hỗn chiến [7]. Quân chủ lực Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, tiến vào đồn chi viện cho đoàn quân xung kích. "Quân đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như nước thủy triều đang lên" [8]. Quân Thanh địch không nổi chạy trốn ra khắp bốn phía, nhưng lại chạm phải địa lôi của chúng đã đặt từ trước nên bị chết rất nhiều [9]. Trong khi đó các đội voi chiến đã từ hai bên sườn đồn tiến vào đốt phá đồn lũy. Đại doanh của địch cũng bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi nằm trong một cơn bão lửa, vì trên lưng một con
==========================================
1, 2, 3. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 363.
4. Viết sử thông giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX,
5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
6, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.
7, 9. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
voi chiến của Tây Sơn đều có ba, bốn chiến sĩ Tây Sơn quấn khăn đỏ, ngồi ném "hỏa cầu lưu hoàng" (tức hỏa hổ) ra khắp nơi, đốt cháy mọi vật, đốt cháy cả người [1].
Đồn Ngọc Hồi bị hoàn toàn tiêu diệt [2]. Tàn quân Thanh tìm đường theo hướng đông trốn chạy về Tây Long. Nhưng chạy tới gần đê Yên Duyên [3] thì đã thấy quân Tây Sơn đóng kín, quân kỳ phấp phới, quân nhạc vang lừng, chặn mất lối về, tàn quân Thanh hoảng sợ, vội chạy tạt ngang về phía tây, định theo đường Vịnh Kiều [4] trốn về Thăng Long. Nhưng chúng chưa chạy được bao lâu thì đạo tượng binh do đô đốc Bảo chỉ huy đã từ phía làng Đại áng xông tới. Tàn quân Thanh không còn hồn vía, vội chạy lên làng Quỳnh Đô [5] địch trốn vào đầm Mực ở làng này đã ẩn náu.
==================================
1. Trần Nguyên Nhiếp, Tài 1iệu đã dẫn, tr.134.
2. Nay ở gần thôn Ngọc Hồi, về phía đông, còn có vết tích
3. Yên Duyên, có tài liệu chú thích là Yên Kiện. Chú thích này có thể chưa đúng lắm, vì Yên Kiện ở phía tây Ngọc Hồi, không phải phía đông. Yên Kiện và Ngọc Hồi đều giáp sông Tô Lịch, mà sông Tô Lịch thì không có đê. Cho nên có ý kiến cho rằng: đê Yên Duyên có thể là khúc đê sông Hồng ở phía đông Ngọc Hồi, chạy thẳng lên phía Tây Long, đi qua địa phận mấy làng Yên Duyên sở thượng, sở hạ mà ngày nay vẫn còn tên cũ. Chúng tôi thấy ý kiến này có phần hợp lý.
4. Vịnh Kiều: nay là thôn ích Vịnh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. ích Vịnh tục gọi là làng Viềng. Tại đây, có một cầu bắc qua sông Tô Lịch nên gọi và Vịnh Kiều, tức cầu Vịnh hoặc cầu Viềng.
5. Đầm Mực là một đầm lớn rộng khoảng 70 - 80 mẫu, thuộc thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh. Tương truyền khi xưa tại giữa đầm có một cái gò rộng, gọi là gò Đầm, là nơi chôn xác quân Thanh chết trong trận Đầm Mực. Gò này đã bị lở sau nạn lụt năm Quí Tỵ (1893). (Về chú thích 4, 5, xem thêm: Vũ Tuấn Sán, tài liệu đã dẫn, tr. 19 - 20).
================================================
Đây là bước đường cùng và cũng là bước đường chịu chết của tàn quân Thanh. Đạo quân voi của đô đốc Bảo ào ạt tiến vào đầm Mực, giày đạp lên quân cướp nước. Tàn quân Thanh chết hàng vạn [1]. Không một tên nào chạy thoát. Có tên nào tìm đường trốn vào các làng xóm chung quanh thì đều bị nhân dân đón bắt, giết chết [2]. Như thế là toàn bộ quân Thanh ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, toàn bộ hệ thống đồn lũy kiên cố của chúng ở mặt trận này đều bị phá tan, các tướng Thanh chỉ huy mặt trận phía nam, như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng [3] đều tử trận. Quân Tây Sơn đã chiến thắng rực rỡ ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long. Nhân dân địa phương vô cùng phân khởi, sung sướng, đem cơm nước, rượu thịt ra tận mặt trận để khao thưởng các chiến sĩ cứu nước anh hùng, đã chiến thắng oanh liệt, giành lại tự do, độc lập cho dân tộc [4]. Quân dân tay bắt mặt mừng, ân tình thắm thiết.
==================================
1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 364.
2. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương.
3. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34. Việl sử thông giám cương mục, chính biên, q. 47, tờ 41.
4. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương. Theo Đào Khê nhàn thoại, Hoa Bằng dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc, thì khi ở Ngọc Hồi, quân đội Nguyễn Huệ được nhân dân địa phương nhiệt liệt hoan nghênh, đem cỗ bàn bánh trái ra khao quân và viết 4 chữ lớn để chào mừng nghĩa quân "Hậu lai kỳ tô", có nghĩa là "vua đến thì dân sống lại". Nguyễn Huệ cảm ơn nhân dân, không dám làm phiền dân, chỉ xin nhận một ít bánh chưng, thứ quà tiêu biểu của ngày Tết. Câu chuyện này nói lên tình cảm của nhân dân Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ và thái độ liêm chính của Nguyễn Huệ, nhất là sự quan tâm của Nguyễn Huệ đối với tình hình đói kém của nhân dân Bắc Hà lúc đó.
=========================================