Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Huynh Couto hỏi thế này khó trả lời thật, vì nếu trả lời ngắn gọn sẽ không thấy được hết tài năng quân sự thiên bẩm của Nguyễn Huệ-Quang Trung, mà đầy đủ chỉ còn cách trích nguyên văn phân tích của các "bậc lão thành" mà thôi. Mấy ngày nay e định tóm mà chả biết tóm thế nào cho hay cả. Nhức đầu thiệt.
Thôi thì xin trích nguyên văn tả trận Ngọc Hồi trong sách Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ do thiếu tướng Hoàng Minh Thảo chấp bút và tác giả Nguyễn Lương Bích biên soạn vậy.
Nguồn: http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=12541
 
Last edited by a moderator:
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
................Ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tức ngày 29 tháng 1 năm 1789, Nguyễn Huệ tiến quân lên Ngọc Hồi [1], một đồn quân kiên cố nhất, tập trung tất cả các tướng lĩnh cao cấp của quân Thanh, để chỉ huy mặt trận phía nam thành Thăng Long. Cũng ngày hôm ấy, đồn Ngọc Hồi phải cho quân về cấp báo với Tôn Sĩ Nghị:

"Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đấy cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới" [2].

Tất cả bọn quân ấy đều hoảng sợ trước sự tiến quân thần tốc của Tây Sơn và đều nói:

"Thật là tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên" [3

Tôn Sĩ Nghị được cấp báo rất hoảng sợ, vội cho lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng viên hàng tướng Phan Khải Đức đem quân cần vương của Lê Chiêu Thống tới tiếp viện cho đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị lại sai hai mươi kỵ binh hầu cận mình đi cùng Thang Hùng Nghiệp, với mệnh lệnh là cứ trong chốc lát phải phi ngựa về báo tin và báo tin liên tiếp cho Tôn Sĩ Nghị.

Nhưng tới Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ không đánh địch ngay, ông chờ cho đạo quân của đô đốc Long đánh vào Khương Thượng rồi ông mới đánh. Cả ngày mồng 4, ông chỉ chuẩn bị cho chiến đấu sắp tới và phô trương thanh thế uy hiếp tinh thần địch, đồng thời thu hút tất cả sự chú ý và đề phòng của địch vào mặt trận Ngọc Hồi mà không lo phòng thủ nơi khác, ông nắm chắc địch đang rất hoang mang lo sợ. Địch hoang mang trước cuộc tiến quân thần tốc của quân dội Tây Sơn, và càng hoang mang lo sợ không hiểu quân đội Tây Sơn lớn mạnh như thế nào mà đã tiêu diệt nhanh gọn tất cả những lực lượng và căn cứ phòng thủ của chúng trên chặng đường từ Gián Khẩu lên Hà Hồi. Cũng không hiểu tại sao quân đội Tây Sơn đã tới Ngọc Hồi mà chưa đánh và sẽ đánh vào lúc nào, địch càng sợ.

Với những hoang mang lo sợ như thế và không hiểu nổi hành động của quân đội Tây Sơn, địch ở Ngọc Hồi không dám chủ động tiến công, đành chờ đối phương đánh rồi sẽ tùy liệu đối phó lại.

Đúng như những tính toán của nghĩa quân, cả ngày mồng 4, địch ở Ngọc Hồi, không dám tiến ra khỏi đồn để đánh nghĩa quân. Và cả ngày mồng 4, Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long lúc nào cũng nơm nớp lo, nhưng chỉ lo một mặt trận phía nam, mà không ngờ rằng lại có một mặt trận khác diễn ra ngay bên cạnh sườn Tôn Sĩ Nghị. Và chính cái mặt trận bất ngờ ấy đã là một yếu tố góp phần làm cho quân Thanh tan rã mau chóng.

Cũng trong ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi Nguyễn Huệ tiến lên Ngọc Hồi, thì đạo quân của đô đốc Long cũng tiến tới làng Nhân Mục [1]. Và ngay quá nửa đêm hôm ấy, đạo quân của đô đốc Long, hàng ngũ chỉnh tề, các đội voi chiến đều mang đại bác trên lưng [2], tiến sang đánh đồn Khương Thượng [3] của quân Thanh. Quả nhiên, quân Thanh ở đây đều là quân ô hợp, và tướng chỉ huy cũng không phải là tướng cao cấp, đã quen chiến đấu, nên bị đánh bất ngờ, đồn Khương Thượng đã tan vỡ nhanh chóng. Trong đêm tối dày đặc [4], quân Thanh chạy tán loạn, vừa bị tên đạn, vừa giày xéo lên nhau mà chết, nhiều vô kể. Đô đốc Long cho quân xung phong vào đồn, chém giết như vào chỗ không người. Sầm Nghi Đống đã phải tự tử chết ngay tại đài chỉ huy của hắn ở Loa Sơn [5]. Diệt xong đồn quân lớn gồm mấy vạn người của Sầm Nghi Đống [6], đô đốc Long
==================================
1. Nhân Mục tức là khu vực hai xã Nhân Chính, Khương Đình bây giờ, trên con đường Hà Nội vào Hà Đông.
2. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 36, 37.
3. Đồn Khương Thượng và Loa Sơn đều thuộc khu vục chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).
4. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký ... q. 6. tờ 36, 37.
5. Đồn Loa Sơn thuộc khu vực chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).
6. Xác mấy vạn quân địch chết đầy khắp trận địa. Khi chiến tranh kết thúc, nghĩa quân và nhân dân đã thu nhặt xác địch xếp thành 12 đống lớn đắp đất chôn cất. Lối chôn nổi, xếp xác giặc đắp đất lên trên làm thành những gò đống lớn là một lối cổ truyền ở các nước phương Đông. Những đống xác giặc đó, chữ Hán gọi là Kình nghê kinh quán tức là gò đống chôn xác những tên giặc hung dữ như loại cá kình, cá nghê ngoài biển. Một nhà thơ đương thời là Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ để ca ngợi chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở mặt trận Khươngg Thượng, trong có câu:
Thánh nam thập nhị kình nghê quán
Chiến diệu anh hùng đại võ công
(Thánh nam xác giặc mười hai đống,
Ngời sáng anh hùng đại võ công).
Tại 12 gò này, về sau đa mọc um tùm, nên gọi là Khu Đống Đa. Khoảng giữa thế kỷ XIX, có việc đào đất làm đường, mở chợ ở gần khu vực này, nhặt dược rất nhiều xác giặc nữa, lại tập trung đắp thành một đống thứ 13, tức là đống đa có đền Trung Liệt hiện nay. Từ cuối thế kỷ XIX trở về sau, 13 đống đa ấy đã bị phá hủy gần hết. Bây giờ chỉ còn lại hai đống. Một là Đống Đa có đền Trung Liệt, hai là Đống thiêng ở trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải.
 
Last edited by a moderator:
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
đưa quân ập đến đồn Nam Đồng [1] của địch, diệt đồn Nam Đồng và tiến nhanh về phía cửa tây thành Thăng Long, bắn phá rất dữ dội. Phối hợp chiến đấu với nghĩa quân, nhân dân chín xã ngoại thành đem rồng cỏ tẩm dầu tới đánh hỏa công, thiêu đốt khắp đó đây. Trận đánh càng thêm ác liệt. Lúc ấy mới là canh tư đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 (âm lịch).

Tôn Sĩ Nghị tại dại bản doanh ở bờ sông Hồng, nghe tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt, vội sai thám tử chạy ngựa đi tìm hiểu tình hình. Thám tử về báo đồn quân Điền Châu ở Khương Thượng đã bị tiêu diệt, quân Tây Sơn đã vào cửa tây thành Thăng Long, đang bắn phá thiêu đốt rất kịch liệt, khói lửa rực trời. Nhưng tin ấy tới được Tôn Sĩ Nghị thì quân Tây Sơn đã vào thành Thăng Long và đô đốc Long đang tiến quân về phía đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

Tôn Sĩ Nghị vội lên ngựa không kịp đóng yên, mình không kịp mặc áo giáp, đem toán kỵ binh hầu cận lẻn qua cầu phao, nhằm hướng bắc mà chạy [2]. Về việc Tôn Sĩ Nghị
========================================
1. Đồn Nam Đồng ở trên đường Khương Thượng vào cửa tây thành Thăng Long. Chỉ có Việt sử thông giám cương mục nói đến việc quân Tây Sơn đánh đồn này, nhưng Cương mục trình bày rất lộn xộn, khiến người đọc tưởng như Nguyễn Huệ sau khi diệt xong đồn Ngọc Hồi mới tiến đánh đồn Nam Đồng. Như thế thì không hợp lý.
2. Trong việc quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, có một câu chuyện về viên đề lĩnh họ Đinh, bầy tôi của Lê Chiêu Thống đã làm nội ứng cho Tây Sơn đốt phá các kho lương thực khí giới của quân Thanh. Câu chuyện này được thuật lại, theo sách Đào khê nhàn thoại, trong số báo Trung bắc số xuân Kỷ Mậu 1939. Ông Hoa Bằng trong quyển Quang Trung anh hùng dân tộc, xuất bản năm 1944, đã nhấn mạnh nhiều lần về câu chuyện này coi đó như một việc quan trọng giúp cho Tây Sơn vào Thăng Long được dễ dàng và góp phần quyết định rất lớn sự tan rã của đại quân Tôn Sĩ Nghị. Đến lần tái bản năm 1951, ông Hoa Bằng chỉ đưa câu chuyện này xuống chú thích mà thôi. Chúng tôi không được đọc Đào khê nhàn thoại và cũng chưa có dịp xem lại số báo Xuân Trung bắc năm 1939. Nhưng, theo cuốn Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bàng kể lại thì câu chuyện đại khái như sau:
Viên đề lĩnh họ Đinh và một toán quân già yếu của Lê Chiêu Thống đã được Tôn Sĩ Nghị trao cho trách nhiệm canh giữ các kho khí giới, lương thực của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống thì La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã giúp Nguyễn Huệ, đi từ Nghệ An ra Thăng Long để vận động viên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Tây Sơn, vì khi xưa Nguyễn Thiếp đã ngồi dạy học ở nhà đề lĩnh họ Đinh. Ngày 3 Tết Ký Dậu, Nguyễn Thiếp tới Thăng Long, đem biếu đề lĩnh họ Đinh một chiếc bánh chưng, trong nhân bánh có để tờ mật dụ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Đề lĩnh họ Đinh đã theo lời mật dụ, nhận làm nội ứng cho Tây Sơn và ngay đêm 4 rạng ngày 5, đề lĩnh họ Đinh đã ngầm đốt các kho khí giới, lương thực và súy phủ, tức đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, do đấy quân Thanh ở Thăng Long tan rã, Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy. Theo chúng tôi, câu chuyện này không chắc đã có thật, vì nhiều lẽ. Một là Tôn Sĩ Nghị không đóng quân trong thành Thăng Long, không làm gì có các kho khí giới, lương thực và súy phủ của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Hai là khí giới và lương thực là vận mệnh của cả 20 vạn quân Thanh, không khi nào chúng lại giao cho một toán quân già và một viên tướng già của bù nhìn Lê Chiêu Thống canh giữ. Ba là thái độ hết sức tiêu cực của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp không thể nào cho phép ông ta có được một hành động tích cực giúp Nguyễn Huệ chống lại vua Lê mà trước sau ông ta vẫn giữ một dạ trung trinh.
Nguyễn Thiếp sống ở Nghệ An, trong phạm vi thế lực của Nguyễn Huệ, mà bao lần Nguyễn Huệ mời ra giúp việc, ông ta vẫn khăng khăng từ chối. Chỉ đến khi Chiêu Thống trốn đi, ở chết bên nước ngoài, nhà Lê không còn nữa, Nguyễn Thiếp mới chịu ra làm một vài việc với nhà Tây Sơn mà thôi. Với thái độ "trung thần" với bọn bù nhìn Lê Chiêu Thống như vậy, Nguyễn Thiếp làm sao lại có thể hết lòng giúp Nguyễn Huệ, lặn lội từ Nghệ An ra Thăng Long để khuyên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Nguyễn Huệ, đánh lại quân Thanh, đánh lại vua Lê Chiêu Thống của ông ta?

Cho nên theo chúng tôi, câu chuyện này không thể có thật. Theo Minh đô sử của Lê Trọng Hàm mà H. K. sao lục một đoạn đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 46, trang 21 thì không phải đề lĩnh họ Đinh đốt kho thuốc súng mà là một viên tổng tư (?) nhà Thanh có trách nhiệm giữ hòm thuốc súng ở đầu cầu phao, đương hút thuốc, thấy Tôn Sĩ Nghị chạy qua, hoảng hốtt để rơi tàn lửa vào hòm thuốc súng. Thuốc nổ, lửa cháy, tiếng nổ rầm trời. Câu chuyện này còn có thể nghe được, nhưng cũng không phải là một sự kiện quan trọng khiến quân Thanh đại bại và Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
cùng mấy tên quan hầu cận đưa mẹ chạy ra Tây Long với Tôn Sĩ Nghị. Nhưng ra tới bờ sông thì Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, quân Thanh đương tan tác, cầu phao đã gãy, thuyền bè qua sông không có, bọn Lê Chiêu Thống, hoảng sợ, vội men theo bờ sông, chạy miết lên phía Nghi Tàm, cướp được một chiếc thuyền đánh cá, chèo sang bờ bắc, tìm đường chạy theo Tôn Sĩ Nghị lên ải Nam Quan [1].

Em ruột Lê Chiêu Thống là Lê Duy Chi làm nhiệm vụ chỉ huy quân Lê đóng giữ ở cửa ô Yên Hoa [2] tức cửa bắc thành Thăng Long, khi thấy chiến tranh đã diễn ra ở cửa tây cũng hoảng sợ, vội đem quân vào nội điện, tính cùng Lê Chiêu Thống tìm đường chạy trốn. Nhưng vào tới nội điện thì Lê Chiêu Thống đã bỏ trốn rồi, chỉ còn lại lũ vợ con của y. Lê Duy Chi không dám nghĩ đến việc đi tìm bọn Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị, vội cùng lũ vợ con Lê Chiêu Thống tìm lối thoát ra ngoài thành Thăng Long, rồi chạy thẳng lên phía Tuyên Quang [3].

Cũng sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Dậu tức ngày 30 tháng 1 năm 1789 trong khi đô đốc Long phá tan đồn Khương Thượng, tiến vào Thăng Long và hàng vạn quân Thanh ở bờ sông Hồng bị tiêu diệt, Tôn Sĩ Nghị phải
chạy trốn, thì Nguyễn Huệ cũng đưa đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long. Ngọc Hồi là một đồn kiên cố nhất ở mặt trận phía nam Thăng Long, quân đông, tướng giỏi, hỏa lực mạnh, xung quanh đồn đều đặt địa lôi [4] và cắm chông sắt [5]. Cho nên đánh đồn này, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị tương đối kỹ.
==================================
1 . Ngô gia văn phái, Tàí liệu đã dẫn, tr. 366.
2. Sau đổi là cửa ô Yên Phụ.
3. Nguyễn Thu, Tài liệu đã dẫn, tờ 47. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 378.
4. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
5. Việt sử thống giám cương mục, Bản dịch của Viện sử học, t. XX, tr. 62.

==================================

Để phá hỏa lực của địch, Nguyễn Huệ cho làm sẵn hai mươi cái mộc đỡ đạn khá lớn, cứ ba tấm ván ghép thành một cái mộc, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.

Mờ sáng ngày mồng 5 tháng Giêng, Nguyễn Huệ hạ lệnh xung phong đánh đồn, tự mình buộc khăn vàng vào cổ tỏ ý quyết chiến [1] và cưỡi voi ra trận đốc chiến [2]. Đội tượng binh của Nguyên Huệ, gồm hơn một trăm voi chiến rầm rộ xông lên [3]. Quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi cho toán kỳ binh tinh nhuệ vun vút xông ra chặn bước tiến của đoàn voi chiến [4]. Quân hai bên gần nhau, ngựa quân Thanh trông thấy voi Tây Sơn hoảng sợ, lồng lên chạy về, chà đạp lẫn nhau. Quân Tây Sơn thúc voi tiến lên bắn giết.

Kỳ binh Thanh cắm cổ chạy về đồn [5]. Quân Thanh không dám ra ngoài nghênh chiến, phải ở trong đồn cố thủ [6] và bắn đại bác ra rất dữ đội để cản xung phong của đội voi chiến Tây Sơn [7]. Nguyễn Huệ hạ lệnh cho đội voi chiến chia ra làm hai cánh tả hữu, đánh vào hai bên sườn địch [8], và bộ binh cũng chia ra làm hai: một cánh đi vòng qua phía sau đồn Ngọc Hồi, đóng ở phía đông đê Yên Duyên để chặn đường rút chạy về Tây Long của quân Thanh ở
=====================================
1. Lê Kỷ (dã sử) dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng. Nhà xuất bản Bốn phương, Hà Nội, 1951, tr .191.
2. Có tài liệu đưa ra việc Nguyễn Huệ đốt hết quân lương trước khi đánh Ngọc Hồi, để tỏ ý quyết chiến. Chúng tôi cho rằng việc ấy không thể có thật. Đốt quân lương vừa là một việc không cần thiết, vừa là một hành động phi quân sự và cũng rất vô chính trị. Trong chiến tranh, quân lương là vấn đề rất hệ trọng. Đốt quân lương của mình để tỏ ý quyết chiến đánh dịch là một việc hết sức liều lĩnh không thể có được trong khi nghệ thuật quân sự của Tây Sơn đã ở trình độ phát triển. Nguyễn Huệ cũng không thể đem đốt lương ăn của quân trong khi người dân Bắc Hà đương bị nạn đói nghiêm trọng.
3, 4, 5, 6. Nguyễn Thu, Lê quí kỷ sự, tờ 47. Việt sử thong giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX., tr. 62.
7, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Ngọc hồi [1], mở cánh xung phong đánh thẳng vào phía trước đồn Ngọc Hồi. Cánh quân xung phong này gồm những binh sĩ khỏe mạnh, thiện chiến, chia thành nhiều toán. Mỗi toán có mười người, mình giắt đoản đao, khiêng một mộc gỗ làm bằng ba tấm ván ghép lại, ngoài có phủ rơm ướt, và hai mươi người cầm vũ khí tiến theo sau bức mộc gỗ.

Toàn bộ cánh quân xung phong có sáu trăm người, chia làm hai mươi toán, dàn thành trận thế chữ nhất [2], ngang nhiên tiến vào trận địa. Đại bác trong đồn Ngọc Hồi bắn ra mất hiệu lực. Quân Thanh vội vàng bắn hỏa mù khiến trận địa tối tăm, hòng làm rối loạn hàng ngũ quân Tây Sơn [3]. Nhưng hỏa hổ của quân Tây Sơn tung lửa cháy sáng rực trời. Quân Tây Sơn vẫn ào ạt tiến lên, bất chấp cả đại bác, cung tên [4] và hỏa mù của giặc. Đoàn quân xung phong Tây Sơn tiến sát mặt đồn Ngọc Hồi, quẳng mộc gỗ xuống đất, phá tan cửa lũy [5] xông thẳng vào đại doanh của địch ở trong đồn. Quân Thanh liều mạng chống lại [6]. Quân xung kích Tây Sơn rút đoản đao ra hỗn chiến [7]. Quân chủ lực Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, tiến vào đồn chi viện cho đoàn quân xung kích. "Quân đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như nước thủy triều đang lên" [8]. Quân Thanh địch không nổi chạy trốn ra khắp bốn phía, nhưng lại chạm phải địa lôi của chúng đã đặt từ trước nên bị chết rất nhiều [9]. Trong khi đó các đội voi chiến đã từ hai bên sườn đồn tiến vào đốt phá đồn lũy. Đại doanh của địch cũng bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi nằm trong một cơn bão lửa, vì trên lưng một con
==========================================
1, 2, 3. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 363.
4. Viết sử thông giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX,
5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
6, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.
7, 9. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.


voi chiến của Tây Sơn đều có ba, bốn chiến sĩ Tây Sơn quấn khăn đỏ, ngồi ném "hỏa cầu lưu hoàng" (tức hỏa hổ) ra khắp nơi, đốt cháy mọi vật, đốt cháy cả người [1].

Đồn Ngọc Hồi bị hoàn toàn tiêu diệt [2]. Tàn quân Thanh tìm đường theo hướng đông trốn chạy về Tây Long. Nhưng chạy tới gần đê Yên Duyên [3] thì đã thấy quân Tây Sơn đóng kín, quân kỳ phấp phới, quân nhạc vang lừng, chặn mất lối về, tàn quân Thanh hoảng sợ, vội chạy tạt ngang về phía tây, định theo đường Vịnh Kiều [4] trốn về Thăng Long. Nhưng chúng chưa chạy được bao lâu thì đạo tượng binh do đô đốc Bảo chỉ huy đã từ phía làng Đại áng xông tới. Tàn quân Thanh không còn hồn vía, vội chạy lên làng Quỳnh Đô [5] địch trốn vào đầm Mực ở làng này đã ẩn náu.
==================================
1. Trần Nguyên Nhiếp, Tài 1iệu đã dẫn, tr.134.
2. Nay ở gần thôn Ngọc Hồi, về phía đông, còn có vết tích
3. Yên Duyên, có tài liệu chú thích là Yên Kiện. Chú thích này có thể chưa đúng lắm, vì Yên Kiện ở phía tây Ngọc Hồi, không phải phía đông. Yên Kiện và Ngọc Hồi đều giáp sông Tô Lịch, mà sông Tô Lịch thì không có đê. Cho nên có ý kiến cho rằng: đê Yên Duyên có thể là khúc đê sông Hồng ở phía đông Ngọc Hồi, chạy thẳng lên phía Tây Long, đi qua địa phận mấy làng Yên Duyên sở thượng, sở hạ mà ngày nay vẫn còn tên cũ. Chúng tôi thấy ý kiến này có phần hợp lý.
4. Vịnh Kiều: nay là thôn ích Vịnh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. ích Vịnh tục gọi là làng Viềng. Tại đây, có một cầu bắc qua sông Tô Lịch nên gọi và Vịnh Kiều, tức cầu Vịnh hoặc cầu Viềng.
5. Đầm Mực là một đầm lớn rộng khoảng 70 - 80 mẫu, thuộc thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh. Tương truyền khi xưa tại giữa đầm có một cái gò rộng, gọi là gò Đầm, là nơi chôn xác quân Thanh chết trong trận Đầm Mực. Gò này đã bị lở sau nạn lụt năm Quí Tỵ (1893). (Về chú thích 4, 5, xem thêm: Vũ Tuấn Sán, tài liệu đã dẫn, tr. 19 - 20).

================================================

Đây là bước đường cùng và cũng là bước đường chịu chết của tàn quân Thanh. Đạo quân voi của đô đốc Bảo ào ạt tiến vào đầm Mực, giày đạp lên quân cướp nước. Tàn quân Thanh chết hàng vạn [1]. Không một tên nào chạy thoát. Có tên nào tìm đường trốn vào các làng xóm chung quanh thì đều bị nhân dân đón bắt, giết chết [2]. Như thế là toàn bộ quân Thanh ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, toàn bộ hệ thống đồn lũy kiên cố của chúng ở mặt trận này đều bị phá tan, các tướng Thanh chỉ huy mặt trận phía nam, như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng [3] đều tử trận. Quân Tây Sơn đã chiến thắng rực rỡ ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long. Nhân dân địa phương vô cùng phân khởi, sung sướng, đem cơm nước, rượu thịt ra tận mặt trận để khao thưởng các chiến sĩ cứu nước anh hùng, đã chiến thắng oanh liệt, giành lại tự do, độc lập cho dân tộc [4]. Quân dân tay bắt mặt mừng, ân tình thắm thiết.


==================================
1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 364.
2. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương.
3. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34. Việl sử thông giám cương mục, chính biên, q. 47, tờ 41.
4. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương. Theo Đào Khê nhàn thoại, Hoa Bằng dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc, thì khi ở Ngọc Hồi, quân đội Nguyễn Huệ được nhân dân địa phương nhiệt liệt hoan nghênh, đem cỗ bàn bánh trái ra khao quân và viết 4 chữ lớn để chào mừng nghĩa quân "Hậu lai kỳ tô", có nghĩa là "vua đến thì dân sống lại". Nguyễn Huệ cảm ơn nhân dân, không dám làm phiền dân, chỉ xin nhận một ít bánh chưng, thứ quà tiêu biểu của ngày Tết. Câu chuyện này nói lên tình cảm của nhân dân Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ và thái độ liêm chính của Nguyễn Huệ, nhất là sự quan tâm của Nguyễn Huệ đối với tình hình đói kém của nhân dân Bắc Hà lúc đó.

=========================================
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
5/4/07
1.809
5.379
113
Quỳnh Rùa nói:
đưa quân ập đến đồn Nam Đồng [1] của địch, diệt đồn Nam Đồng và tiến nhanh về phía cửa tây thành Thăng Long, bắn phá rất dữ dội. Phối hợp chiến đấu với nghĩa quân, nhân dân chín xã ngoại thành đem rồng cỏ tẩm dầu tới đánh hỏa công, thiêu đốt khắp đó đây. Trận đánh càng thêm ác liệt. Lúc ấy mới là canh tư đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 (âm lịch).

Tôn Sĩ Nghị tại dại bản doanh ở bờ sông Hồng, nghe tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt, vội sai thám tử chạy ngựa đi tìm hiểu tình hình. Thám tử về báo đồn quân Điền Châu ở Khương Thượng đã bị tiêu diệt, quân Tây Sơn đã vào cửa tây thành Thăng Long, đang bắn phá thiêu đốt rất kịch liệt, khói lửa rực trời. Nhưng tin ấy tới được Tôn Sĩ Nghị thì quân Tây Sơn đã vào thành Thăng Long và đô đốc Long đang tiến quân về phía đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

Tôn Sĩ Nghị vội lên ngựa không kịp đóng yên, mình không kịp mặc áo giáp, đem toán kỵ binh hầu cận lẻn qua cầu phao, nhằm hướng bắc mà chạy [2]. Về việc Tôn Sĩ Nghị
========================================
1. Đồn Nam Đồng ở trên đường Khương Thượng vào cửa tây thành Thăng Long. Chỉ có Việt sử thông giám cương mục nói đến việc quân Tây Sơn đánh đồn này, nhưng Cương mục trình bày rất lộn xộn, khiến người đọc tưởng như Nguyễn Huệ sau khi diệt xong đồn Ngọc Hồi mới tiến đánh đồn Nam Đồng. Như thế thì không hợp lý.
2. Trong việc quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, có một câu chuyện về viên đề lĩnh họ Đinh, bầy tôi của Lê Chiêu Thống đã làm nội ứng cho Tây Sơn đốt phá các kho lương thực khí giới của quân Thanh. Câu chuyện này được thuật lại, theo sách Đào khê nhàn thoại, trong số báo Trung bắc số xuân Kỷ Mậu 1939. Ông Hoa Bằng trong quyển Quang Trung anh hùng dân tộc, xuất bản năm 1944, đã nhấn mạnh nhiều lần về câu chuyện này coi đó như một việc quan trọng giúp cho Tây Sơn vào Thăng Long được dễ dàng và góp phần quyết định rất lớn sự tan rã của đại quân Tôn Sĩ Nghị. Đến lần tái bản năm 1951, ông Hoa Bằng chỉ đưa câu chuyện này xuống chú thích mà thôi. Chúng tôi không được đọc Đào khê nhàn thoại và cũng chưa có dịp xem lại số báo Xuân Trung bắc năm 1939. Nhưng, theo cuốn Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bàng kể lại thì câu chuyện đại khái như sau:
Viên đề lĩnh họ Đinh và một toán quân già yếu của Lê Chiêu Thống đã được Tôn Sĩ Nghị trao cho trách nhiệm canh giữ các kho khí giới, lương thực của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống thì La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã giúp Nguyễn Huệ, đi từ Nghệ An ra Thăng Long để vận động viên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Tây Sơn, vì khi xưa Nguyễn Thiếp đã ngồi dạy học ở nhà đề lĩnh họ Đinh. Ngày 3 Tết Ký Dậu, Nguyễn Thiếp tới Thăng Long, đem biếu đề lĩnh họ Đinh một chiếc bánh chưng, trong nhân bánh có để tờ mật dụ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Đề lĩnh họ Đinh đã theo lời mật dụ, nhận làm nội ứng cho Tây Sơn và ngay đêm 4 rạng ngày 5, đề lĩnh họ Đinh đã ngầm đốt các kho khí giới, lương thực và súy phủ, tức đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, do đấy quân Thanh ở Thăng Long tan rã, Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy. Theo chúng tôi, câu chuyện này không chắc đã có thật, vì nhiều lẽ. Một là Tôn Sĩ Nghị không đóng quân trong thành Thăng Long, không làm gì có các kho khí giới, lương thực và súy phủ của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Hai là khí giới và lương thực là vận mệnh của cả 20 vạn quân Thanh, không khi nào chúng lại giao cho một toán quân già và một viên tướng già của bù nhìn Lê Chiêu Thống canh giữ. Ba là thái độ hết sức tiêu cực của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp không thể nào cho phép ông ta có được một hành động tích cực giúp Nguyễn Huệ chống lại vua Lê mà trước sau ông ta vẫn giữ một dạ trung trinh.
Nguyễn Thiếp sống ở Nghệ An, trong phạm vi thế lực của Nguyễn Huệ, mà bao lần Nguyễn Huệ mời ra giúp việc, ông ta vẫn khăng khăng từ chối. Chỉ đến khi Chiêu Thống trốn đi, ở chết bên nước ngoài, nhà Lê không còn nữa, Nguyễn Thiếp mới chịu ra làm một vài việc với nhà Tây Sơn mà thôi. <span style=""color: #ff0000;"">Với thái độ "trung thần" với bọn bù nhìn Lê Chiêu Thống như vậy, Nguyễn Thiếp làm sao lại có thể hết lòng giúp Nguyễn Huệ, lặn lội từ Nghệ An ra Thăng Long để khuyên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Nguyễn Huệ, đánh lại quân Thanh, đánh lại vua Lê Chiêu Thống của ông ta? </span>

Cho nên theo chúng tôi, câu chuyện này không thể có thật. Theo Minh đô sử của Lê Trọng Hàm mà H. K. sao lục một đoạn đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 46, trang 21 thì không phải đề lĩnh họ Đinh đốt kho thuốc súng mà là một viên tổng tư (?) nhà Thanh có trách nhiệm giữ hòm thuốc súng ở đầu cầu phao, đương hút thuốc, thấy Tôn Sĩ Nghị chạy qua, hoảng hốtt để rơi tàn lửa vào hòm thuốc súng. Thuốc nổ, lửa cháy, tiếng nổ rầm trời. Câu chuyện này còn có thể nghe được, nhưng cũng không phải là một sự kiện quan trọng khiến quân Thanh đại bại và Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn.
Cái này là sai nhá
La Sơn Phu Tử ko chịu giúp Nguyễn Huệ đánh chúa Trịnh và việc giúp nhà vua đánh lại quân Mãn thanh là chuyện khác.
Nguyễn Thiếp trung với nhà Lê, nhưng trước tiên ông là dân Việt và khi nhà vua đến Nghệ an thì ông đã sẵn sàng chống lưng cho việc đánh bọn Mãn Thanh nên nói chuyện Nguyễn Thiếp ko giup vua dẹp giặc là ko đúng
 
Hạng D
5/4/07
1.809
5.379
113
vậy e nghĩ có 2 lý do mà nhà vua đã thắng trận Ngọc Hồi:
1. Sở hữu "hỏa hổ" và đàn voi chiến để áp đảo về công nghệ
2. QUân đông, dùng chiến dịch biển người, có thêm nhà vua đích thân chỉ huy nên nhuệ khí lên cực cao
Còn yếu tố binh mã thiện chiến thì chắc là ko có bởi vì binh mã có dc chủ yếu là bắt lính ở Nghệ an và Thanh hóa nên ko thể nói là thiện chiến dc khi chỉ có vài ngày huấn luyện.
mà hình như sở trường của nhà vua là tài "bắt lính"???
 
Hạng D
5/4/07
1.809
5.379
113
Một điều băn khoăn nữa là
theo sử chép lại thì quân Mãn có 20 vạn
chốt 4 điểm:
1.Nội đô thăng long là do Tôn Sĩ Nghị
2. Đồn Khương Thượng
3. Đồn Hạ Hồi
4. Đồn Ngọc Hồi.

Khi nổ ra trận Ngọc hồi thì quân thanh có 3 vạn quân, mà đồn Ngọc Hồi là yết hầu của kinh đô Thăng Long nên quân số đồn trú phải nhiều nhất bởi Tôn Sỹ Nghị ko phải là kẻ tay mơ,
Vậy e cứ xông xênh: 3x4 = 12 vạn quân tất cả
Ô hô, vậy thì 8 vạn quân còn lại chả lẽ là do Phúc Khang An kê khống lên để ăn chênh lệch thanh toán với Hoàng Lịch sao?
Bác Rùa vào giải thích giúp e cái
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
couto nói:
Một điều băn khoăn nữa là
theo sử chép lại thì quân Mãn có 20 vạn
chốt 4 điểm:
1.Nội đô thăng long là do Tôn Sĩ Nghị
2. Đồn Khương Thượng
3. Đồn Hạ Hồi
4. Đồn Ngọc Hồi.

Khi nổ ra trận Ngọc hồi thì quân thanh có 3 vạn quân, mà đồn Ngọc Hồi là yết hầu của kinh đô Thăng Long nên quân số đồn trú phải nhiều nhất bởi Tôn Sỹ Nghị ko phải là kẻ tay mơ,
Vậy e cứ xông xênh: 3x4 = 12 vạn quân tất cả
Ô hô, vậy thì 8 vạn quân còn lại chả lẽ là do Phúc Khang An kê khống lên để ăn chênh lệch thanh toán với Hoàng Lịch sao?
Bác Rùa vào giải thích giúp e cái
Việc này có lần e đã giải thích rồi. Thật ra quân Thanh qua lần này khoảng 29 vạn, bao gồm quân tinh nhuệ 4 tỉnh Quảng Đông - Quảng Tây-Vân Nam- Quý Châu, trong đó có thể quân tinh nhuệ là 12 vạn (như bác Cuto nói), số còn lại là quân nhu-dân phu gồm phu xe va bốc vác, các lính theo hầu khác chia ra làm các việc như: tải lương, nấu nướng, khiêng vác, cứu thương, chữa bệnh, giao liên, lấp đường, dựng cầu............. tóm lại là các việc lặt vặt khác. Theo "tám điều quân luật" thì 1 quân lính có 1-3 dân phu theo phụ. Như vậy chỉ cần 12 vạn quân tinh và 17 vạn dân phu thì tổng cộng 29 vạn cũng không có gì là quá cả.
Nguyên do Tôn Sĩ Nghĩ xuất thân là tướng văn nên gọi ông ấy tay mơ cũng không sai. Thế nhưng thực sự lần này do quá chủ quan vào tài năng của Sầm Nghi Đống và Thang Hùng Nghiệp, Hứa Thế Hanh, Ô Đại Kinh và bị tấn công bất ngờ vào Tết Nguyên Đán nên thực sự là khó trở tay kịp.
May cho Nguyễn Huệ Quang Trung là Ngô Thì Nhậm có tài "khoa môi múa mép" với Càn Long, chứ không thì 50 vạn quân Mãn tràn ngập Đại Việt lúc đó, e rằng máu đổ thành suối, thây chất đầy đồng........
Quang Trung tuy thắng nhưng cũng rất hạ mình. Lập tức làm đền thờ Sầm nghi Đống để xoa dịu nỗi nhục của Càn Long, rồi giả lả xin là rể nhà Thanh, xin quyền "quản lý" 2 tỉnh Lưỡng Quảng, đúng là người mưu mẹo.... vô cùng khó lường!
Nội việc không nghỉ Tết Nguyên Đán theo thông lệ mà vẫn tiến công đại phá quân Thanh đang no say nghĩ ngơi ăn Tết cũng đã thấy được điều đó!

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n_S%C4%A9_Ngh%E1%BB%8B
 
Last edited by a moderator:
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Các ý kiến khác nhau về số quân Thanh

Số quân Thanh sang Đại Việt được ghi chép trong các sử sách của Việt Nam, của Trung Quốc, cũng như của phương Tây có những điểm khác biệt rất lớn. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng đã có những tổng hợp về các nguồn tài liệu liên quan tới vấn đề này; nguồn tài liệu do các nhà nghiên cứu Việt Nam dẫn ra khá tương đồng[30][/sup]:
<h3>Việt Nam</h3>
  • Sử sách của Việt Nam như Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Lê Quý Kỷ Sự, Tây Sơn Thuật Lược... không ghi chép rõ số quân Thanh.
  • Hoàng Lê nhất thống chí có chép lại "Tám điều quân luật" và "Bài hịch" của Tôn Sĩ Nghị. Trong "Bài hịch", Tôn Sĩ Nghị tuyên bố số quân Thanh có 50 vạn. Theo "Tám điều quân luật" thì "mỗi người lính được cấp một tên phu" (điều 8). Vậy số quân Thanh 50 vạn thì số phu cũng 50 vạn và toàn bộ lên đến 1 triệu người.
Hầu hết các nhà sử học đều cho con số đó có tính chất khoa trương lực lượng. Nhưng nó cũng cho ta biết rằng 1 người lính chính quy sẽ có 1 người phu đi theo.
  • "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập" (Q.30) và "Nguyễn Thị Tây Sơn Ký" chép số quân là 20 vạn, nhưng không xác định con số đó có bao gồm lực lượng thổ binh, nghĩa dũng và dân phu hay không.
  • Tỷ lệ giữa binh lính và dân phu trong các tài liệu cũng không thống nhất. Điều 8 trong "Quân luật" của Tôn Sĩ Nghị quy định 1 lính được cấp 1 phu, trong lúc "Lê Sử Toản Yếu" và "Minh Đô Sử" của Việt Nam lại chép 1 chiến binh có 3 lương binh phục vụ.
  • Bài "Chiếu phát phối hàng binh, binh nội địa" của Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết, là tài liệu được công bố ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu. Bài chiếu có đoạn viết:
"Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết dụng binh, vô cớ động binh đem hai mươi chín vạn quân ra ngoài cửa ải, vượt suối trèo non vào nơi hiểm nguy, xua các ngươi, một lũ dân đen vô tội vào chốn mũi tên ngọn giáo. Đó là tội của tổng đốc của các ngươi". Theo bài chiếu, tổng số quân Thanh là 29 vạn. Theo ý kiến một nhà nghiên cứu Việt NamNguyễn Phan Quang, bài "Chiếu phát phối hàng binh nội địa" của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương thời, đáng tin cậy.[31][/sup] còn theo ý kiến của 1 người Việt Nam khác là Giáo sư Trần Gia Phụng thì 29 vạn quân tuy do Ngô Thời Nhậm là người trong cuộc viết nhưng đây là một văn thư có tính tuyên truyền nên cũng chưa hẳn sát với thực tế.[32][/sup] <h3> Phương Tây</h3> Một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến Đại Việt vào khoảng thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 có ghi lại trong hồi ký và thư từ, một ít tư liệu về chiến thắng Kỷ Dậu 1789.
  • Một thương nhân Anh là J. Barrow đến Đại Việt năm 1792 lại ghi nhận một số liệu khác, số quân Thanh là 10 vạn.
  • Một nguồn thông tin thư từ của một số người nước ngoài sống ở vùng Thăng Long ngay trong thời gian xảy ra trận chiến này. Số thư từ này còn được ghi lại trong tập "Nhật Ký của hội truyền giáo Bắc Kỳ" lưu trữ tại Nha văn khố quốc gia Paris. Một bức thư gửi từ Thăng Long đề ngày 25/10/1788 phản ánh một "tin đồn" về 30 vạn quân Thanh sắp kéo sang cứu viện cho Lê Chiêu Thống.
  • Bức thư của một linh mục trông coi giáo dân ở vùng Thăng Long đề ngày 26-12-1788 cho biết rõ:
"Viện binh Trung Hoa gồm độ 28 vạn người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông". Theo nhận định của Giáo sư Trần Gia Phụng thì: Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, thì thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, trốn chạy thì con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng vũ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong "Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa".[33][/sup] Theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường thì:
Còn về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đã phóng đại ra... Một tài liệu khác trong hồi ký của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 cho biết rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40.000 người và bị giết tại trận khoảng 20.000 người. Do ông De la Bissachère tới Đàng Ngoài năm 1790-chỉ 1 năm sau trận chiến và ở lại cho đến năm 1798 nên Giáo sư Trần Gia Phụng cho rằng "có thể ông (de la Bissachère) thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt"[34][/sup].
<h3>Trung Quốc</h3>
  • Đại Thanh Thực Lục, bộ sử chính thức của nhà Thanh, ghi chép đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết toàn bộ quân Thanh được lệnh sang đánh Đại Việt là 18.000, trong đó số quân Lưỡng Quảng do Tôn sĩ Nghị trực tiếp thống lãnh là 1 vạn và số quân Vân Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy là 8.000. Đó chỉ mới là số quân chủ lực tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam, chưa kể số "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu chuyển vận lương thực. Theo tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh thì số dân phu phục vụ cho đạo quân Lưỡng Quảng đã hơn 10 vạn.
  • Theo bài An Nam Ký Sự của Càn Long thì "số quan quân có hơn một vạn, số phu đài tải lương thực đến hơn 10 vạn".[cần dẫn nguồn][/sup]
  • Trong "Càn Long chinh vũ An Nam Ký", Ngụy Nguyên đời Thanh khoảng vài chục năm sau có chép: số quân Thanh là 18.000, trong đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10.000 và đạo quân Vân Quý là 8.000. Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm: "bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn". Như vậy, số quân chủ lực có khoảng 2 vạn chưa tính số "nghĩa binh", "nghĩa dũng" và dân phu vận chuyển có vài chục vạn người. Dù vậy như Ngụy Nguyễn cũng nói, đây chỉ là "tiếng đồn".
Theo các nhà nghiên cứu Tạ Trí Đại Trường[35][/sup], Phan Huy Lê[36][/sup], Hồ Bạch Thảo[37][/sup] và Trần Gia Phụng, sử sách nhà Thanh hạ thấp số quân viễn chinh để giảm bớt sự thất bại trầm trọng của triều Thanh. Các sử gia Trung Quốc đó không ghi chép đầy đủ các lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn: Số quân vài vạn mà Đại Thanh Thực Lục ghi không tính đến "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu[38][/sup]. Hơn nữa, với đạo quân vài vạn thì triều đình nhà Thanh chỉ cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái và dưới trướng gồm một loạt võ quan cao cấp như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kinh, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng Hình Đôn Hạnh; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa Long cùng nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v... Nếu chỉ điều 1 vài vạn quân, Càn Long không phải quan tâm tới mức vài ngày lại ra một chỉ dụ[39][/sup].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính của Đại học Irvine, Hoa Kỳ thì sổ trả lương và kế toán của nhà Thanh ghi rằng ở phía Đông (vùng Bắc Việt Nam) họ có 10.000 quân, phía Tây có 8.000 và cộng thêm số theo những nguồn tài liệu khác, cũng không quá 30.000 quân chính quy[40][/sup]. Và cũng trong phân tích này, tiến sĩ có dẫn lại sử gia Ba Lan tên là Wieslaw Olszewski ghi quân Thanh có 200.000 quân (không ghi rõ là loại quân gì) sang nước Việt nhưng không rõ số đánh nhau với Tây Sơn là bao nhiêu[41][/sup].
Theo tính toán của Giáo sư Trần Gia Phụng thì theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ NghịÔ Đại Kinh khi cộng lại có 15.000 người; mỗi quân nhân được quyền đem theo một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị) thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 30.000, thêm đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩ Thanh không dưới 10.000 người nên khi cộng lại đã được 40.000 người. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế theo ông, phải cao hơn nữa do các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn mỗi người đem theo hơn một người phu và trước đó để đánh một bộ lạc 150.000 người nhà Thanh huy động đến 8 vạn quân, đại Việt thì dân đông hơn rất nhiều nên con số 1 vạn quân là quá ít[42][/sup] Tài liệu này khá khớp với tài liệu của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère khi ông cũng ghi lại rằng quân chính quy của nhà Thanh sang Việt Nam năm đó có tối thiểu (đã bị chính sử Trung Quốc ghi chép giảm bớt) 40.000 người. Giáo sư Phụng tin rằng con số quân Thanh có thể còn cao hơn nữa chút ít, tuy nhiên có thể tạm tin được con số 40.000 quân chính quy[43][/sup].

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_th%E1%BA%AFng_K%E1%BB%B7_D%E1%BA%ADu#C.C3.A1c_.C3.BD_ki.E1.BA.BFn_kh.C3.A1c_nhau_v.E1.BB.81_s.E1.BB.91_qu.C3.A2n_Thanh