Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Xin gởi tiếp các bạn xem một đoạn hồi ký về cái mỏ vẹt của Thái Lan, cách ngã ba con voi vài cây số trên đường đi Poipet.

16. MỎ VẸT
Cuối năm 1980 đại đội 13 lại chuyển về Don Thomo, sau đó chúng tôi nhận lệnh đi truy quét sâu trong khu vực mỏ vẹt ở phía Nam phum Viêng, nơi đặt bản doanh của trung đoàn bộ. Chúng tôi đi theo con đường đê bị vỡ - do lính Pôn Pốt gài mìn phá hoại trước đó - để vào mỏ vẹt.

Mỏ vẹt là một mũi đất của Thái Lan (có hình dạng giống như cái mỏ của con vẹt) thọc sâu vào nội địa của Campuchia, tàn quân Pôn Pốt ẩn náo ở đó và thường hay tập kính hỏa lực vào các đơn vị trực thuộc trung đoàn bộ.

Có lần, chúng tôi ra thế chốt cho một đại đội trực thuộc của trung đoàn 4 đi làm nhiệm vụ. Đơn vị này đóng ở phía Bắc lộ 5, gần chổ mà đại đội chúng tôi đã từng chốt hồi mới đến phum Diêng tháng 4/79, nơi có bộ xương khô mặc đồ bà ba đen nằm nhe răng nhát ma bộ đội.

Đêm đó thằng Pôn Pốt từ trong mỏ vẹt ra tập kích chúng tôi. Đầu tiên nghe bùng bình một tiếng, sau đó là tiếng tiểu liên AK, rồi tiếp tục nửa là tiếng cối nổ oành, oành. Tôi và đồng chí Hạn, lính nhập ngũ 3/79 nằm úp người trên nền đất ẩm ướt mà chịu trận, mà nghe tiếng đạn bay, cối nổ...

Mấy thằng này bắn dở, đạn AK thì bay quá nóc nhà, cối toong thì trật hướng, chúng tôi nằm kế bên cái công sự hình chữ U đầy nước... nhưng chẳng thèm nhảy vào đó làm chi cho thêm dơ dáy, vì hỏa lực của Pôn Pốt giả không trúng đội hình của mình, có trúng chăng thì trúng cái sân... chào cờ của đại đội ở phía trước.

Các đại đội cối pháo của trung đoàn lập tức lên tiếng, hỏa lực của ta rót trả ngay vào cái mỏ vẹt đó. Chuyện này xãy ra như cơm bửa, riết rồi cũng nhàm, hình như những cuộc tập kích kiểu này chỉ gây căng thẳng chứ khó gây thương vong cho ai.

Chắc chắn là mấy anh Thái biết chúng tôi vào mỏ vẹt (làm gì không có quân báo Thái Lan nằm ở ngã ba con voi này), anh lấy làm khó chịu, anh cho máy bay trinh sát L19 bay tuần tra cái mỏ vẹt, tất nhiên là trên phần đất nhà anh. Anh bay vè vè trên đầu chúng tôi, anh dòm dòm, ngó ngó.

Chúng tôi phát hiện L19 ngay bởi tiếng kêu è è của nó. Chúng tôi dừng đội hình hành quân tại chổ, ẩn vào các gốc cây rừng. Có rừng cây che khuất, dễ gì anh thấy tôi, anh bay khuất tầm thì chúng tôi đi tiếp.

Từ Mỏ Vẹt chúng tôi đi dọc theo đường biên giới, truy quét sâu vào khu vực Cao Mê-lai, rồi vòng lại, cho đến một hôm ra đến chân một cây cầu cháy bắt qua một con suối lớn ở sâu trong hướng đuôi con voi Nimith thì dừng chân.
Tại cầu cháy, chúng tôi nhận được thư nhà và nhu yếu phẩm. Những điếu thuốc lá Đà Lạt lúc đó sao mà đậm đà thơm ngon đến như vậy, hút chỉ một điếu mà cảm thấy đầu mình lâng lâng như say thuốc. Chúng tôi nghỉ ngơi tắm giặt ở đây sau nhiều ngày chịu khô hạn ở trong rừng.

Cũng tại cây cầu cháy này tôi lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là đĩa đeo, tôi thấy trong bẹn mình ướt ướt, lạnh lạnh, nhớt nhớt rờ vô thì thấy chảy máu, loãng thôi, định thần nhìn kỹ thì ra tôi bị đĩa đeo trong lúc tắm suối, tôi nắm lấy con đĩa từ từ lôi ra, máu chảy ra theo nó tức thì, sẳn gói thuốc lá Đà Lạt mới lãnh đang hút dở trong túi, tôi xé ra nửa điếu lấy sợi thuốc đắp lên vết cắn, mãi hồi lâu vết cắn mới khô miệng, kéo mài.

Sau đó chúng tôi được lệnh quay về, khoảng nửa đêm hôm đó chúng tôi mới về đến Don Thomo. Đợt hành quân này kết thúc năm 1980 nhiều kỷ niệm.

Gió bấc lạnh từng cơn thổi về, chúng tôi đang đóng quân ở Don Thomo, cực Tây Bắc của lãnh thổ Campuchia, tại một địa điểm có độ vĩ Bắc là 13 độ 40 phút, ngang với ranh giới tỉnh Phú Yên và Bình Định của Việt Nam. Hình như ở vĩ độ này (cao hơn hẳn thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long) thời tiết cuối năm lạnh hơn thì phải?

Những đêm giáp tết âm lịch năm đó trời lạnh lắm! Chúng tôi khuân về từng gốc cây dầu khô đường kính cở bắp vế, đốt lên và ngồi quanh lửa hồng sưởi ấm, anh nào đi ngũ thì xách một thùng than cây cháy đỏ vào lán của mình, để dưới vạt giường mà nằm cho ấm.

Tình hình Don Thomo yên tỉnh nên chúng tôi mới dám đốt lửa sưởi ấm kiểu này, chứ ở Đăng-cum thì không dám đâu, ăn đạn B40 liền!

Hàng ngày chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức đi truy quét ra phía trước đội hình, có lần cả đại đội chúng tôi đi xa lắm, qua khỏi rừng cây xanh, đến một con đường lớn và trống trãi (không phải đường bò, vì nó bằng phẳng, trong khi đường bò thì nó hằn vết bánh xe bò). Con đường này ăn sâu trong cánh rừng thưa trụi lá, thấy dấu vết của lính tráng phía bên kia để lại trên đường, nó vẽ chữ giun nghệch ngoạc cái gì đó...

Chúng tôi đi đến đó là muốn hết tấm bản đồ hành quân của đại đội, chiều chúng tôi lên họp giao ban, cùng các anh chỉ huy đại đội lật bản đồ ra xem mà cứ thắc mắc mãi về những cái dấu vết địch để lại trên cái con đường này...

Và chúng tôi đã ăn cái tết đầu năm 1981 tại cái Giếng Đá đó một cách êm thắm.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
video mỏ vẹt 1991
[youtube]http://youtu.be/PaqmXH_etRQ[/youtube]
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Hồ thứ 17. MỘT TRẬN TẬP KÍCH ĐIỂN HÌNH
Cuối tháng 2/1981 tiểu đoàn chúng tôi được lệnh xuất quân tập kích căn cứ Ang-sa-la-tức của lực lượng Sơ-rây-ca, nằm ở hướng Bắc lộ 5, chắc gần phum Đăng-cum của tiểu đoàn 2.

Căn cứ này đã bị cấp trên chúng tôi ngắm nghía từ lâu, trinh sát kỹ lắm, chỉ huy đại đội đều được dắt đi điều nghiên thực địa trước. Tôi biết điều này qua 1 sự kiện sau: Sáng sớm một hôm nọ, trung đội tôi được điều đi cáng xác tử sĩ về, anh này tên Thao, trinh sát tiểu đoàn, nghe nói mới 17 tuổi, trong khi thi hành nhiệm vụ thì đá phải mìn, chết ngay tại trận. Các anh chỉ huy lấp xác trong bụi, rồi tiếp tục trinh sát trận địa địch, sáng ra kêu trung đội tôi đi lấy xác về.

Chúng tôi hành quân vào lúc nửa đêm, ưu tiên trang bị hỏa lực mạnh, tôi là tiểu đội trưởng vẫn phải mang B40 với 6 trái đạn. Cuộc hành quân được chỉ huy rất bài bản, trước khi lên đường, lính tráng phải chạy khởi động tại chổ xem có va chạm, phát ra tiếng động không. Chúng tôi đang đóng quân ở Don Thomo, sâu trong cánh rừng dầu phía Bắc phum Viêng, trận ra quân đầu năm này hoàn toàn bí mật, một yếu tố cực kỳ quan trọng trong chiến đấu.

Đang vào đầu con trăng hạ tuần tháng giêng, chúng tôi lặng lẽ đi trong gió mát, trăng thanh, không mang gạo, chỉ mang đúng 1 cơ số đạn nên hành quân rất thoải mái, đi chừng 2 tiếng là đến điểm phân chia đội hình, từng đơn vị được trinh sát dẩn vào vị trí xuất kích của mình.

Đây là một trận tập kích cấp tiểu đoàn có tăng cường hỏa lực cực kỳ bài bản, như một buổi diễn tập chiến thuật, sau đây là diển tiến trận đánh:

4 giờ sáng, nằm trên hướng xuất kích của mình, bên hông ụ mối, dưới ánh trăng hạ tuần, nhìn lên phía trước, tôi thấy rõ thằng lính gác ngồi hút thuốc lá đỏ rực. Đã gần hết đêm, đây là thời điểm người ta chủ quan nhất.

Đến giờ G (đúng 4 giờ sáng), cối pháo các loại đi theo bộ binh khai hỏa đồng loạt mở màn trận tập kích, theo kế hoạch hợp đồng tác chiến, hỏa lực bộ binh cùng tham gia bắn hủy diệt trận địa địch... Tôi nằm trên mặt đất mát lạnh, gióng khẩu B40 vào hướng thằng lính hút thuốc khi nãy, thổi liền cho nó một phát.

Hỏa lực tập kích vẫn còn vang dội, tôi bình tỉnh nạp thêm một quả B40 nửa vào nòng nhắm vào hướng địch mà mình đã canh me sẳn, bồi thêm phát nửa. Đạn không nổ! Đúng theo bài bản được huấn luyện, tôi bình tỉnh đợi một chút, sợ hạt nổ bị ẩm phát hỏa chậm... Không động tỉnh gì, vậy là hạt nổ bị lép! Tôi lôi nó ra, xoay quả mới vào, bắn tiếp một phát, thì có lệnh xung phong.

Cả đoàn quân bật dậy hò nhau xung phong mãnh liệt, chúng tôi dàn hàng ngang, hướng lên phía trước, theo tiếng gọi bầy đàn mà chạy, vừa chạy vừa hô, thở hào hển vì vận động quá sức.

Rồi chúng tôi dừng lại bên một bờ đất thấp, khói súng mù mịt che khuất tầm nhìn. Quì xuống, lấy bờ đất làm vật che đở, thở lấy hơi, tiếp tục gióng súng bắn thẳng vào những khối vật chất hiện ra đen đen trước mặt. Lại một đợt hò nhau xung phong vang dội, chúng tôi ào lên chiếm lĩnh trận địa.

Chiếm được trận địa, chưa kịp lục soát, theo sự phân công từ trước, đại đội chúng tôi lập tức triển khai đội hình phòng ngự, đề phòng địch phản kích... Trên hướng phòng ngự của mình, tôi thấy rõ ràng trước mắt có cái gì đó đang phát sáng. Trời tranh tối, tranh sáng, mấy cái đốm sáng này chập chờn, ẩn hiện ánh lân tinh ma quái, tôi đứng đó, nghỉ mệt trong khí trời mát dịu, mồ hôi đang từ từ khô trên người.

Và những vật phát sáng đó từ từ hiện rõ trước mặt tôi, đó là mấy cái đầu lâu... của bộ đội ta bị Pa-ra bắn chết, chặt đầu đem về lấy thưởng. Và chỉ huy của chúng đã cắm những cái đầu đó lên cọc để thị uy thiên hạ, để xác định số má trên chốn giang hồ miền biên viễn này.

Ngay lúc đó tôi chỉ biết là đầu lâu xương sọ thôi, nhưng sau này xâu chuổi lại các sự kiện tôi khẳng định rằng: Tôi biết chủ nhân những cái đầu lâu này... vì trung đội tôi đã từng cáng trên vai 3 cái xác cụt đầu của lính D2 chết trên một con đường bò, gần suối cạn, phía Bắc phum Sophia. Buổi trưa hôm đó, được tin dân báo là có xác chết của bộ đội chết trên đường buôn, trung đội chúng tôi lập tức được lệnh xuất kích và chúng tôi đã gặp xác đồng đội mình nằm ven con đường bò đó...

Lính Pa-ra đã tập kích bất ngờ, bắn chết 3 anh lính này, cắt đầu mang đi. Chúng tôi đã cáng 3 cái xác không đầu đó về phẩu trung đoàn, 3 cái xác cụt ngủn, gọn lỏn nằm trong cáng, chảy hết máu nên người nhẹ tênh, Cứ hai người lính mang 1 cái cáng, không cần xoay tua, chúng tôi đi một hơi về bàn giao cho ban chánh sách trung đoàn làm hậu sự.

Chúng tôi đã trả thù cho các anh tử sĩ D2 hôm nọ bằng một trận tập kích tuyệt vời, quá sức đẹp, quá bài bản, không thương binh, không tử sĩ. Toàn bộ quân địch trong cái căn cứ này đã bị chúng tôi đánh tan tác, chết ngổn ngang trên trận địa, số còn lại dông tuốt vào rừng.

Như một buổi diển tập hợp đồng tác chiến, đoàn quân thắng trận trở về theo đội hình cuốn chiếu, trung đội của tôi rút ra sau cùng, trời đang dần sáng... Mấy thằng Pa-ra chạy thoát vào rừng lúc nãy, bây giờ tỉnh hồn, quay lại, thấy chúng tôi lui quân, tưởng ngon ăn, dí theo bắn liền mấy loạt đạn, miệng hô chô chô. Đại đội trưởng Tý đi cùng trung đội, lệnh cho tôi bắn liền. Tôi căn khẩu B40 gióng theo ánh lửa đầu nòng của đối phương, đang tiến rất gần, bắn găm một phát bùng bình đinh tai điếc óc, rồi chạy theo đội hình của mình, để lại sau lưng mấy thằng lính nín khe, sống chết ra sao không biết... Chắc là tiêu, vì không nghe chô chô, mà cũng chẳng có tiếng súng bắn vét đuôi nửa.

Uy lực của B40 (và B41) rất mãnh liệt, dù anh có nấp sau ụ mối, vẫn chết vì sức chấn động. Đã có hai thằng lính Pa-ra bị đồng chí Long, xạ thủ B41 bắn chết như vậy trên con đường Nimith Đăng-cum, đoạn đường bình độ 25m phía Bắc phum Sophia.

Trận này tôi mang 6 trái B40, bắn hết 5 (trong đó lép 1), còn 1 trái nằm trong nòng súng ung dung vác vai trở về nhà. Đến khi tắm rửa giặt đồ, thấy cháy sém hết một bên quần... thì ra hơn 1 năm nay làm A trưởng sử dụng AK quen nằm bắn góc 30 độ, nay dùng B40 cũng nằm góc 30 độ (đúng ra súng với người nằm bắn thành một góc 45 độ), bị lửa phản lực phà cháy sém một bên quần.

Đại đội trưởng Tý là người khen thưởng công minh, anh đề bạt sư đoàn cấp bằng khen cho tôi về thành tích chiến đấu trong trận thắng oanh liệt (nhưng dễ dàng) này.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Đầu mùa mưa 1981, tiểu đoàn chúng tôi chuyển hướng vào phía Nam Con Voi. Xin giã từ những trận đánh giòn giã ở hướng Bắc lộ 5, kể từ đây trở đi bạn sẽ không gặp kiểu chiến tranh thông thường để tiểu đoàn 3 phát huy sở trường vận động tấn công nửa, mà bạn sẽ gặp những trận đánh nhỏ lẻ kiểu chiến tranh du kích trong rừng già cực kỳ hiệu quả của Pôn Pốt. Tôi xin gởi các bạn xem hồi thứ 18: Những trận đánh ở phum không tên. Hồi này dài, tôi xin trích ra làm 4 đoạn nhỏ để các bạn tiện theo dõi:

Hồi thứ 18. PHUM KHÔNG TÊN

MỘT TRẬN PHỦ ĐẦU
Vào đầu mùa mưa 1981 tiểu đoàn lại nhận mệnh lệnh hành quân, đại đội tôi có sự thay đổi nhân sự, đại đội trưởng Tý về nước, chỉ huy đại đội là đồng chí Ánh, chính trị viên, người miền Bắc và đồng chí Ma Văn Thảo, người dân tộc Tày, đại đội phó quân sự. Hai anh chỉ huy đại đội đi đánh trận này, trung đội trưởng của tôi là đồng chí Thạch, còn tôi là tiểu đội trưởng với vỏn vẹn cả tiểu đội chỉ gồm có 3 người.

Cũng như bất kỳ cuộc hành quân dài ngày nào, quản lý đại đội nhồi gạo vào ruột tượng cấp cho các trung đội, mỗi ruột tượng nặng khoảng mười kg, anh nào vác AK thì mang gạo, những anh vác hỏa lực như trung liên RDP, B40, B41 thì miễn.

Mỗi khẩu AK mang 400 viên đạn (có khi 600 viên) gồm 1 băng đạn 30 viên trong súng, 3 băng đạn trong bao-xe mang trước ngực, còn 4 cái túi cóc thì nhét thêm được 6 hộp đạn 20 viên nửa, số còn lại chúng tôi cho vào ruột tượng, cột ngang thắt lưng, dây thắt lưng thì đeo bi đông nước và... hai cục cơm vắt để ăn hai ngày đường.

Không như trong phim ảnh mà chúng ta thường thấy cảnh lính tráng hành quân ca hát yêu đời. Chúng tôi khoát tất cả súng đạn, cơm nước vào người, ruột tượng gạo vắt lên vai è cổ, cảm thấy rõ sức nặng trên đôi vai của mình. Tâm trạng chúng tôi khi đó rất nặng nề, cảm thấy mình như con trâu đeo ách vào cổ, trâu cày còn có thời gian nằm nhai lại cỏ, chúng tôi đã vác súng lên vai thì cực ghê gớm, di chuyển liên tục, liên tục.

Chúng tôi đi đánh Cao Mê-lai từ hướng đít con voi. Hành quân xa, mang vác nặng, chúng tôi đi rất thận trọng.

- Thưa ra, cách nhau 10m.

Đó là lệnh của chỉ huy luôn luôn được truyền lên phía trên để duy trì cự ly hành quân.

Máy bay L19 của Thái Lan bay vè vè trên đầu, chúng tôi phải thường xuyên dừng lại, ẩn vào cây để tránh tầm nhìn của nó.

Xế trưa hôm đó, trinh sát đi đầu phát hiện phía trước có một đoàn quân Pôn Pốt mặc đồng phục màu xanh quân đội nghiêm chỉnh đang di chuyển cắt mặt đội hình hành quân của chúng tôi. Nằm trong toán quân đi đầu, nên tôi cũng tận mắt nhìn thấy đám tàn quân này, đông lắm, ước cả trăm tên.

Sau này có đồng chí chỉ huy trong đơn vị tiếc, phải chi hôm đó mình giá súng 12 ly 8, rồi dàn quân đánh úp cái đám quân Pôn Pốt này thì chắc thắng lớn vì có yếu tố bất ngờ, đở phải di hại về sau!

Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi lần này là đi đánh phum không tên, chứ không phải đi truy quét, nên cái mục tiêu di động đó đã bị bỏ qua một cách quá đáng tiếc.

Chúng tôi hành quân rất chậm, trưa hôm sau khi chúng tôi đang trên đường hành tiến thì thằng địch phát hiện và tập kích chúng tôi liền... Chúng tôi đang hành quân và thực tình là chưa xác định được hướng địch. Trung đội tôi nằm trong một cánh rừng thưa xen lẩn các bụi tre, bờ đất. Tôi dán người sát đất, chúi đầu vào một bờ đất thấp, nằm đó chịu trận.

Bị tấn công bất ngờ, chưa biết hướng địch, chưa có lệnh xung phong, nên chúng tôi nằm trụ tại đó đợi lệnh. Anh Tý liên lạc đại đội chạy tới nói nằm yên tại chổ, giữ vững đội hình, rồi chạy đi B khác... Bổng dưng oành một tiếng, một quả đạn cối đã rơi trúng anh liên lạc, anh kêu la thảm thiết, gãy cả hai chân, chết ngay tại trận.
Chúng tôi nằm sát đất, nghe tiếng đạn nhọn veo véo bay trên đầu nhưng khinh, chúng tôi có cái bờ đất che chở, không sợ đạn nhọn, chỉ sợ cối pháo rơi trúng lưng mình. Địch đang toong cối về phía chúng tôi, cối của nó bay vo vo trên đầu, rồi xé gió rớt xuống đất nổ oành, oành. Địch đã canh tầm hơi bị xa, đạn rơi ra phía sau lưng chúng tôi, trùng hướng di chuyển của anh Tý liên lạc, khiến anh phải hy sinh đau đớn.

Đã từng nằm chịu trận cho đạn cối Pôn Pốt nện, tôi rút ra kinh nghiệm là nghe cối bay vo vo trên đầu là nó còn tầm, nó bay tiếp và nổ ở sau lưng. Khi nào nó xé gió lao xuống là tới số rồi đó...

Trời tự dưng đổ mưa, không thấy chuyển, mà trời lại mưa, mưa lất phất thôi, chỉ vừa tưới ướt thân người và cây cỏ. Đám lính Pôn Pốt này hỏa lực còn xung, nó cối chúng tôi lâu lắm, may mà nó canh chệch hướng, đạn rơi phía sau nên trung đội tôi không hề hấn gì.

Hết đợt pháo kích của địch thì có lệnh xung phong, chúng tôi súng lăm lăm trong tay, dàn hàng ngang chạy lên và không phát hiện ra phòng tuyến của địch.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
MỘT TRẬN ĐÔI CÔNG
Mưa không đủ giải nhiệt nên trời hầm hập nóng, vận động nhiều khát khô cả cổ! Chúng tôi đang chiếm lĩnh một khu rừng chuối, khát quá, chúng tôi chặt những cây chuối non, ăn cái lõi của nó cho đã cơn khát, bất chấp cái vị chát của nó. Thực ra nước trong bi đông còn chút đỉnh, nhưng chúng tôi không dám uống hết phần nước trong ngày của mình, sợ hết nước sẽ chết khát. Cơn mưa hồi nảy chẳng ra gì, chỉ làm ướt chút đỉnh những thân cây chuối non bằng bắp chân mà chúng tôi đang ngã ra làm thịt.

Lại tiếp tục hành tiến, đến tối cả tiểu đoàn dừng lại bên một con đường đất đỏ, ăn cơm vắt nghỉ qua đêm. Cầm nửa nắm cơm vắt khô cứng trên tay, tôi thực sự không muốn ăn tí nào, bẻ bỏ cái vỏ cứng của nó, tôi nhắm nháp cái ruột còn mềm mềm nhai cho qua bửa, rồi xung phong đi lấy nước cho trung đội.

Đeo một xâu bi đông lủng lẳng bên hông, tay xách súng, tôi và nhiều đồng chí nửa cùng kéo nhau đi lấy nước. Theo con đường đất đỏ đi về phía sau, đi lâu lắm, mấy tiếng đồng hồ mới tới được một cái bàu nước.

Chúng tôi đi ra giữa bàu, ngâm mình dưới nước, vừa nhận bình toong xuống lấy nước, vừa hụp mặt xuống uống nước, vừa ngâm mình vào nước mà nghe da thịt mình nở ra thấm từng giọt, từng giọt nước mát. Bù lại mấy ngày hành quân mất nước thì nhiều mà chỉ được tiếp tế một ngày một bình toong nước, chẳng đủ đâu vào đâu!

Đong đầy các bình toong và uống nước đã đời rồi chúng tôi hăm hở trở về. Về đến nơi thì trời mờ sáng, chúng tôi lại chuẩn bị lên đường đi đánh cái phum không tên.

Xế chiều hôm đó, trong cơn mưa nhẹ, tiểu đoàn chúng tôi chiếm được mục tiêu của mình một cách dễ dàng, không cần phải nổ súng... Địch đã nhường cho chúng tôi cái phum này và nó sẽ tặng lại cho chúng tôi những loạt đạn cối và những trận tập kích dai dẳng... Chúng tôi đang đối diện với một địch thủ quá sức lợi hại, nó đang chống lại chúng tôi bằng một cuộc chiến tranh du kích, lấy ít đánh nhiều!

Đồng chí Ánh chính trị viên vừa bố trí đội hình cho các trung đội phòng ngự xong, anh giữ lại tiểu đội 3 người của tôi để làm công tác liên lạc (thay cho anh Tý liên lạc tử thương hôm qua), đồng thời kiêm luôn công tác tiếp thương, tải đạn cho tuyến phòng thủ phía trên.

Ba trung đội dàn quân theo hình vòng cung trong cánh rừng dày phía trước, đại đội bộ chiếm lĩnh một ụ mối lớn phía sau các trung đội chừng mấy chục mét đường rừng dày đặc, tiếp sau là khẩu đội cối, và sau nửa là tiểu đội của chúng tôi cũng nấp trong một ụ mối nhỏ có khoét sẳn hố cá nhân dã chiến.

Ngồi trong hố nhỏ tôi đã chứng kiến tận mắt trận đấu cối của đại đội tôi với kẻ địch trong cái phum không tên này... Đầu tiên là các trung đội phía trên chạm súng mãnh liệt với địch, khẩu đội cối 60 của đồng chí Đinh Văn được lệnh bắn, cối của anh bắn ra cấp tập nhưng trái được, trái thất, có trái bay lẹt đẹt vì liều phóng bị ẩm, tôi thấy nó mới bay qua khỏi ngọn cây thì hết tầm rớt lại xuống đất, may là không trúng đầu bộ binh... Trong khi đó cối địch thì khác, thằng địch đã để cho chúng tôi chiếm lĩnh trận địa đúng vào cái bẫy mà nó đã dành sẳn, nó đã kéo thước đo cự ly sẳn, bây giờ ta lọt vô rồi thì nó xách cối ra nó bắn, nó cũng chơi cối 60 như mình.

Loạt cối đầu tiên của nó giã trúng ngay chóc cái khẩu đội của đồng chí Văn, cả khẩu đội đều bị trúng mảnh, may mà không có anh nào chết.

Khẩu đội cối của anh Văn im tiếng rồi mà nó vẫn còn toong, và tôi thấy rõ cái ụ mối của đồng chí Ánh cùng với anh lính thông tin bộ đàm đang bị nó dộng cối nẩy cà tưng, cà tưng... từng phát cối chắc nịch dộng vào cái ụ mối nổ oành, oành... Hôm đó đồng chí Ánh và anh thông tin được thần Dớt che chở nên không ai trúng cái mảnh cối nào, quả là phước lớn, mạng lớn. Tôi cũng được thần Dớt che chở, không trái cối nào kiếm cái ụ mối nhỏ nhoi của tôi mà nện.
 
Hạng F
22/10/09
8.170
32.430
113
quân số trung đội 7-8 người là đúng, em có ông xếp cũ, hồi xưa đi Kam, nói 1 tiểu đội chỉ có 3 người. Trung đội cỡ 8-9 người
 
  • Like
Reactions: Kirinman
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Xin gởi các bạn 2 đoạn tiếp theo về trận đánh phum không tên, phía Nam con voi Nimith:

MỘT TRẬN TẬP KÍCH
Tiểu đội 3 người của chúng tôi chạy như con thoi từ đại đội xuống các trung đội, đồng chí Ánh luôn miệng nhắc nhở tiết kiệm đạn, còn các trung đội thì cứ kêu thêm đạn.

Ngưng tiếng súng thì chúng tôi chạy lên tiếp đạn, thằng địch phía trước thỉnh thoảng lại nổ súng tấn công vào các trung đội của chúng tôi phía trên... Đêm đó tuy hai bên không đấu súng với nhau, nhưng chiến sự căng như sợi dây đàn, hai phe ghìm nhau, trắng đêm.

Tình hình hôm sau cũng như vậy, địch ở ngoài bắn vô, ta ở trong bắn ra, dai dẳng, tốn kém đạn dược không biết bao nhiêu mà kể. Tiểu đoàn tải đạn lên không kịp, chúng tôi phải chạy về tiểu đoàn bộ đóng trong cái phum chúng tôi vừa chiếm được để lấy thêm đạn về cung cấp cho các trung đội phía trên.

Đánh hoài coi bộ mệt, tối đó thằng Pôn Pốt ngưng bắn, tôi mệt quá, hết phiên gát, ngã lưng ra nằm trên công sự lộ thiên lấp xấp nước, mang cả giày, quấn nylon đội mưa mà ngũ, như chết... Không biết các trung đội phía trước có ngũ được không, hay phải lỏ mắt canh gát suốt đêm.

Rồi tình hình bắt đầu yên tỉnh, sáng hôm sau đồng chí Ánh kêu chúng tôi lên đào công sự chiến đấu trên một ụ mối tiếp giáp giữa 2 trung đội, chúng tôi tuân lệnh, vác AK đi... Đang đào, thì tôi nghe tiếng chạm súng kịch liệt ở hướng sau lưng mình, rồi tôi thấy đồng chí Ánh chạy lên, mặt cắt không còn chút máu kêu B9 xuống cứu nguy đại đội! Anh Thạch cùng chúng tôi xách súng chạy xuống, đến đại đội bộ thì thằng địch đã bỏ chạy.

Đến hầm ban chỉ huy đại đội, tôi thấy một cái xác chết gục trên miệng hầm chữ U, nóc hầm xổ ra một đống óc bầy nhầy như tàu hủ. Phải... giống như tàu hủ, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy óc người nên ấn tượng rất sâu đậm!

Tôi chưng hửng:
- Ai vậy cà?
Anh Thạch nhìn ra ngay:
- Thằng Thảo chứ ai.

Trận này đại đội phó Ma Văn Thảo anh dũng hy sinh ngay trận địa, với vết thương khủng khiếp, văng mất đỉnh đầu và phọt óc ngay trên nóc công sự.

Tôi và anh Thạch khiêng xác anh Thảo ra đặt nằm trên mặt đất, rồi chui xuống hầm kéo anh Cường y tá đại đội lên... anh đang kêu la thảm thiết vì vết thương quá nặng!

Thằng Pôn Pốt đã quăng một trái lựu đạn vào hầm làm cánh tay phải của anh đứt tiện lòi xương, còn chân thì gãy lặt lìa... Chúng tôi lôi anh lên, đặt anh nằm yên trên mặt đất, kéo cái chân gãy xuôi theo đúng tư thế anh nằm. Anh đang dãy chết, tay phải của anh bị mảnh lựu đạn tiện đứt ngang, tuốt thịt gần tới khủy, trơ ra hai cẳng xương cánh tay một lớn một nhỏ đang co giật nhấp nhấp, như níu kéo một cái gì... Cái túi thuốc y tá cứu thương của anh luôn mang bên mình đã bị thằng Pôn Pốt giật mất!

Chúng tôi đang chiếm giữ cái phum của thằng Pôn Pốt bỏ. Nó thuộc lòng nằm lòng địa hình, nó cho một tốp lính nhỏ, vận động xuyên qua khoảng hở chổ tiếp giáp giữa hai đại đội. Rồi nó thọc sâu vào đại đội bộ của C13, nơi đồng chí Thảo đang trấn giữ, chỉ một mình đồng chí đứng trong công sự, làm sao chống nổi hỏa lực một tốp lính thiện chiến.

Chúng tôi đang chiến đấu với một đội quân thiện chiến của Khơme đỏ, không ô hợp như cái đám lính Pa-ra ở hướng Bắc Nimith đâu! Tụi này ăn miếng trả miếng với chúng tôi sòng phẳng và đang chiếm thế thượng phong vì địa lợi. Chúng tôi đang bất lợi hoàn toàn, ngay cả cái phum này không ai biết tên của nó là gì, gọi nó là phum không tên!

Rồi thằng Pôn Pốt không tập kích chúng tôi nửa, thấy tình hình yên tỉnh, đồng chí Ánh kéo chúng tôi luồn ra phía trước xem xét địch tình. Địch đã ra đi, để lại những hố cá nhân đối diện tuyến phòng thủ của chúng tôi.

Chúng tôi cũng rời bỏ cái phum đó đi luôn, một đi không trở lại. Trận này chúng tôi tổn thất nặng, chỉ riêng đại đội bộ hy sinh 3 và bị thương nguyên khẩu đội cối. Xong trận, toàn khối đại đội bộ chỉ còn trơ trọi duy nhất một đồng chí Ánh chính trị viên.

MỘT CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
Giống như mọi chuyến hành quân từ Cao Mê-lai trở về, chúng tôi lại tấp vô con voi, hạ vũ khí nghĩ mệt, anh nào có đồng hương quanh đó thì tấp vô kiếm đồng hương - đồng khói. Riêng tôi, tôi đứng đó, tại bức tượng con voi, sờ mình voi, vỗ đít voi rất đổi thân tình, con voi này lúc đó dân dã lắm, đen thui, mốc thích, xù xì, quạu quọ... rất hạp với mấy thằng lính chúng tôi, đầu bù tóc rối, thất tha thất thểu, ngồi núp nắng dưới bóng con voi, rồi lại hò nhau đi về, để lại con voi bê tông... trơ gan cùng tuế nguyệt.

Chào voi, tao sẽ trở lại thăm mày. Mày lúc này ấm rồi, được o bế, sơn phết để làm du lịch, có nhớ mấy thằng bạn Việt Nam thưở hàn vi vẫn thường hay ngồi mình voi và vuốt... đuôi voi không?

Bạn bè thưở xa xưa lâu ngày gặp nhau mới quí, chúng tao sẽ lặn lội đường xa về thăm mầy, chắc là mày mừng lắm! Hôm qua nhờ bác bichuoi gởi hình lên mạng mà tao thấy lại mặt mầy, tao cảm động lắm, phải chi mà mày đen thui mốc thích như ngày xưa thì chắc là tao khóc rồi... vì nó gợi lại nổi niềm gian khổ lúc xa xưa của chúng tao với mày, mày đã bỏ Phnom Melai mà đi, trong khi đó chúng tao lại phải đâm đầu vào, mày biết hết, mày là chứng nhân lịch sử mà! Mày phải thương tao, cũng như tao đã thương mày. Mày là linh vật, chúng tao nói ngoa cho mày bẻ cổ.

Nói thật, tao vẫn thích mày đen thủi, đen thui, xù xì, ốc mít như xưa, vì mày là voi rừng Phnom Melai mà, đâu phải voi kiểng trong sở thú.

Mấy thằng chủ sau này của mày hình như đánh giá trị tinh thần của mày thấp quá!
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Đây là bia mộ liệt sĩ Ma Đình Thảo hy sinh trong trận Phum không tên trên hướng Cao Mê-lai. Hài cốt anh hiện được chôn cất tại nghĩa trang liệt sỹ tỉnh Bình Dương (xã Thuận Giao, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương).

NGÃ BA CON VOI Hồi lý của cựu chiến binh mặt trân 479 chiến trường K



Những năm tháng đó d3 chúng tôi hy sinh nhiều lắm: tháng 3/79 tại Amleang, tháng 5/79 tại Phum không tên. Qua mùa mưa 79 mới đở hy sinh vì hết mùa chiến dịch!
 
  • Like
Reactions: rangnhon
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Hồi thứ 19. TAKUNG KRAO
Sau trận phum không tên, tiểu đoàn trở về Don Thomo làm công tác cũng cố và huấn luyện quân sự hàng năm theo chương trình của Bộ quốc phòng, thời gian này không có những cuộc đụng độ quân sự nào đáng kể. Tháng 8/1981 tôi nhận quyết định bổ nhiệm chức vụ trung đội phó, cũng trong thời điểm đó chúng tôi lại kéo nhau đi đánh Tà-cuông Krao.

Tiểu đoàn xuất kích lần này có một đại đội quân K (chúng tôi gọi là lính Hunsen, do trung đoàn đào tạo) phối thuộc với chúng tôi. Lần xuất quân này không phải mang vác nặng vì chúng tôi được cấp phát cơm sấy mang theo ăn đường. Tà-cuông Krao là chổ quen biết cũ, nhiều duyên nợ với tiểu đoàn 3 từ năm 1980, nay chúng tôi nhận được tin Pôn Pốt chiếm Tà-cuông nên kéo quân đi đánh.

Chúng tôi cắt rừng, lội nước bì bõm trên những cánh đồng rộng lớn, hoang hóa của đồng bằng Battambang để tiến vào Tà-cuông. Xế trưa hôm đó, cái mục tiêu tấn công hiện ra ngay phía trước, chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào... Có tiếng nổ súng, ngay lập tức cả tiểu đoàn hô xung phong, trọng liên 12 ly 8 đi theo đại đội chúng tôi lập tức triển khai bắn chéo cánh sẻ yểm trợ cho chúng tôi băng băng từ đồng ruộng lao vào, khí thế hung hãn.

Mỗi khi chúng ta hô xung phong, theo tiếng gọi bầy đàn, cả một đoàn quân cùng hô đáp ứng, tạo khí thế cho chúng tôi xông pha mãnh liệt, súng nẩy trong tay, lửa đạn khạt ra, mồ hôi dầm dề, chân chạy băng băng, tiến lên phía trước... Đến một bờ ruộng có thể núp được, chúng tôi dừng lại thay băng đạn, thở muốn đứt hơi. Chúng tôi điều hòa nhịp thở, rồi lại tiếp tục hò nhau xung phong, tiếp tục chạy tới, thở hào hển trên chiến trường, hít lấy mùi cay nồng của thuốc súng, rồi như say máu lại hô xung phong, chạy lên phía trước, bắn găm, bắn gần, chiếm lĩnh trận địa... Với khí thế như vậy, chúng tôi giải quyết xong trận đánh chỉ trong vòng năm phút, đám lính Pôn Pốt giữ Tà-cuông yếu thế bỏ chạy.

Hoàn thành nhiệm vụ, tiểu đoàn được lệnh rút quân, ra khỏi Tà-cuông một đoạn thì thằng Pôn Pốt nổ súng bắn đuổi vào đội hình, nhưng đạn ăn lên trời nên chẳng chết ai.

Đang giữa mùa mưa, nước mênh mông trên cái đồng bằng rộng lớn này, hoàn toàn không có chổ để ngồi nghỉ. Chúng tôi phải đi liên tục, trời đã về chiều, anh nào đói thì moi cơm sấy ra nhai, uống nước sống trừ bửa.

Phải đến tối, mới đến một địa hình có thể nghỉ, chúng tôi trải nylon ra ụ mối mà trú qua đêm hôm đó. Nằm ụ mối rất khó ngũ, độ dốc làm chúng tôi cứ bị tụt xuống. Tụt xuống đến khi chạm nước lạnh chân thì tự động trồi lên, vậy mà ngũ cũng được. Cái ưu việt của sức trẻ là dễ ăn, dễ ngũ, sức đề kháng tốt, không đau lưng, nhức mõi.

Chúng tôi đi xa vác nặng, đổ nhiều mồ hôi nên phải uống bù nước. Mùa mưa trên đường hành quân nước có sẳn dưới chân. Khát thì cứ lấy nón cối, bước ra vài bước, lựa chổ nước trong, múc một nón uống tại trận, rồi đi tiếp, không biết đau bụng, ỉa chảy là gì? Bây giờ tuổi bắt đầu cao, sức bắt đầu yếu, uống nước nấu không chín là muốn có chuyện rồi, chưa kể phong thấp, nhức mõi tay chân, đau lưng, đau bao tử...

Sáng sớm hôm sau chúng tôi đi tiếp, càng ra đến gần Cốp-tút thì địa hình càng cao, có những đoạn chúng tôi đi thong dong, nước ngang đầu gối. Không như chiều hôm qua, khi ra khỏi Tà-cuông nước sâu ngang hông, có chổ ngang ngực. Chúng tôi cứ gióng la bàn cắt đường mà đi, không theo lối mòn, sợ mìn Pôn Pốt.

Vậy mà không thoát, vào đến Cốp-tút, chúng tôi đang đi phía trước, chợt nghe ành một tiếng khô khốc ở phía sau... một anh lính Campuchia đã dẫm phải một trái mìn đạp nổ.

Đây là mìn K58 do Trung quốc chế tạo, nó lớn hơn hộp hồ dán giấy của học trò một chút. Tiếng nổ đanh gọn, uy lực không cao (nguời nào đạp người đó chịu) nhưng tác hại thì lớn, Việt Nam mình sau này có nhiều anh thương binh cụt chân, chống tó là tại cái mìn này.

Anh lính Campuchia đạp phải mìn, cái mu giày của anh bay lên trời ngay, nhìn lên cây... tôi thấy cái mu giày của anh đang máng trên cành, ở độ cao chừng 3m.

Do đại đội lính K này là con đẻ của trung đoàn, nên hôm đó chúng tôi được điều xe lên ngã ba Cốp-tut lần lượt chở quân về nhà.

Mấy ngày sau lên trận địa pháo 105 (nằm gần trung đoàn bộ ở phum Diêng) thăm đồng hương Bình Thạnh, anh bạn pháo binh tên Tâm cho biết, sau cuộc hành quân đạp mìn này, lính K dông tuốt... chỉ còn lại mỗi bộ khung của đại đội.

Tôi nói ra điều này để những người ngoài cuộc biết tại sao quân tình nguyện Việt Nam phải ở lại Campuchia mãi đến cuối năm 1989 mới rút hết về nước được... Vì lính nghĩa vụ của chính phủ Campuchia những năm đó tinh thần chiến đấu kém, không phải là đối thủ của tàn quân Pôn Pốt.

Nói là tàn quân, nhưng nhờ nhận được viện trợ thường xuyên của quan thầy, nên nó hồi phục lại, cũng có quân chủ lực mặc đồ bar-ba-din Trung quốc mới cáu, cũng có súng đạn, mìn trái đầy đủ, bày bố thiên la địa võng, giăng bẫy mìn sẳn sàng tiêu diệt đối phương... Những bãi mìn mà Pôn Pốt cài đặt đã gây tổn thất biết bao nhiêu nhân mạng của chúng tôi trong thời điểm cuối chiến dịch C81.