Xin gởi tiếp các bạn xem một đoạn hồi ký về cái mỏ vẹt của Thái Lan, cách ngã ba con voi vài cây số trên đường đi Poipet.
16. MỎ VẸT
Cuối năm 1980 đại đội 13 lại chuyển về Don Thomo, sau đó chúng tôi nhận lệnh đi truy quét sâu trong khu vực mỏ vẹt ở phía Nam phum Viêng, nơi đặt bản doanh của trung đoàn bộ. Chúng tôi đi theo con đường đê bị vỡ - do lính Pôn Pốt gài mìn phá hoại trước đó - để vào mỏ vẹt.
Mỏ vẹt là một mũi đất của Thái Lan (có hình dạng giống như cái mỏ của con vẹt) thọc sâu vào nội địa của Campuchia, tàn quân Pôn Pốt ẩn náo ở đó và thường hay tập kính hỏa lực vào các đơn vị trực thuộc trung đoàn bộ.
Có lần, chúng tôi ra thế chốt cho một đại đội trực thuộc của trung đoàn 4 đi làm nhiệm vụ. Đơn vị này đóng ở phía Bắc lộ 5, gần chổ mà đại đội chúng tôi đã từng chốt hồi mới đến phum Diêng tháng 4/79, nơi có bộ xương khô mặc đồ bà ba đen nằm nhe răng nhát ma bộ đội.
Đêm đó thằng Pôn Pốt từ trong mỏ vẹt ra tập kích chúng tôi. Đầu tiên nghe bùng bình một tiếng, sau đó là tiếng tiểu liên AK, rồi tiếp tục nửa là tiếng cối nổ oành, oành. Tôi và đồng chí Hạn, lính nhập ngũ 3/79 nằm úp người trên nền đất ẩm ướt mà chịu trận, mà nghe tiếng đạn bay, cối nổ...
Mấy thằng này bắn dở, đạn AK thì bay quá nóc nhà, cối toong thì trật hướng, chúng tôi nằm kế bên cái công sự hình chữ U đầy nước... nhưng chẳng thèm nhảy vào đó làm chi cho thêm dơ dáy, vì hỏa lực của Pôn Pốt giả không trúng đội hình của mình, có trúng chăng thì trúng cái sân... chào cờ của đại đội ở phía trước.
Các đại đội cối pháo của trung đoàn lập tức lên tiếng, hỏa lực của ta rót trả ngay vào cái mỏ vẹt đó. Chuyện này xãy ra như cơm bửa, riết rồi cũng nhàm, hình như những cuộc tập kích kiểu này chỉ gây căng thẳng chứ khó gây thương vong cho ai.
Chắc chắn là mấy anh Thái biết chúng tôi vào mỏ vẹt (làm gì không có quân báo Thái Lan nằm ở ngã ba con voi này), anh lấy làm khó chịu, anh cho máy bay trinh sát L19 bay tuần tra cái mỏ vẹt, tất nhiên là trên phần đất nhà anh. Anh bay vè vè trên đầu chúng tôi, anh dòm dòm, ngó ngó.
Chúng tôi phát hiện L19 ngay bởi tiếng kêu è è của nó. Chúng tôi dừng đội hình hành quân tại chổ, ẩn vào các gốc cây rừng. Có rừng cây che khuất, dễ gì anh thấy tôi, anh bay khuất tầm thì chúng tôi đi tiếp.
Từ Mỏ Vẹt chúng tôi đi dọc theo đường biên giới, truy quét sâu vào khu vực Cao Mê-lai, rồi vòng lại, cho đến một hôm ra đến chân một cây cầu cháy bắt qua một con suối lớn ở sâu trong hướng đuôi con voi Nimith thì dừng chân.
Tại cầu cháy, chúng tôi nhận được thư nhà và nhu yếu phẩm. Những điếu thuốc lá Đà Lạt lúc đó sao mà đậm đà thơm ngon đến như vậy, hút chỉ một điếu mà cảm thấy đầu mình lâng lâng như say thuốc. Chúng tôi nghỉ ngơi tắm giặt ở đây sau nhiều ngày chịu khô hạn ở trong rừng.
Cũng tại cây cầu cháy này tôi lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là đĩa đeo, tôi thấy trong bẹn mình ướt ướt, lạnh lạnh, nhớt nhớt rờ vô thì thấy chảy máu, loãng thôi, định thần nhìn kỹ thì ra tôi bị đĩa đeo trong lúc tắm suối, tôi nắm lấy con đĩa từ từ lôi ra, máu chảy ra theo nó tức thì, sẳn gói thuốc lá Đà Lạt mới lãnh đang hút dở trong túi, tôi xé ra nửa điếu lấy sợi thuốc đắp lên vết cắn, mãi hồi lâu vết cắn mới khô miệng, kéo mài.
Sau đó chúng tôi được lệnh quay về, khoảng nửa đêm hôm đó chúng tôi mới về đến Don Thomo. Đợt hành quân này kết thúc năm 1980 nhiều kỷ niệm.
Gió bấc lạnh từng cơn thổi về, chúng tôi đang đóng quân ở Don Thomo, cực Tây Bắc của lãnh thổ Campuchia, tại một địa điểm có độ vĩ Bắc là 13 độ 40 phút, ngang với ranh giới tỉnh Phú Yên và Bình Định của Việt Nam. Hình như ở vĩ độ này (cao hơn hẳn thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long) thời tiết cuối năm lạnh hơn thì phải?
Những đêm giáp tết âm lịch năm đó trời lạnh lắm! Chúng tôi khuân về từng gốc cây dầu khô đường kính cở bắp vế, đốt lên và ngồi quanh lửa hồng sưởi ấm, anh nào đi ngũ thì xách một thùng than cây cháy đỏ vào lán của mình, để dưới vạt giường mà nằm cho ấm.
Tình hình Don Thomo yên tỉnh nên chúng tôi mới dám đốt lửa sưởi ấm kiểu này, chứ ở Đăng-cum thì không dám đâu, ăn đạn B40 liền!
Hàng ngày chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức đi truy quét ra phía trước đội hình, có lần cả đại đội chúng tôi đi xa lắm, qua khỏi rừng cây xanh, đến một con đường lớn và trống trãi (không phải đường bò, vì nó bằng phẳng, trong khi đường bò thì nó hằn vết bánh xe bò). Con đường này ăn sâu trong cánh rừng thưa trụi lá, thấy dấu vết của lính tráng phía bên kia để lại trên đường, nó vẽ chữ giun nghệch ngoạc cái gì đó...
Chúng tôi đi đến đó là muốn hết tấm bản đồ hành quân của đại đội, chiều chúng tôi lên họp giao ban, cùng các anh chỉ huy đại đội lật bản đồ ra xem mà cứ thắc mắc mãi về những cái dấu vết địch để lại trên cái con đường này...
Và chúng tôi đã ăn cái tết đầu năm 1981 tại cái Giếng Đá đó một cách êm thắm.
16. MỎ VẸT
Cuối năm 1980 đại đội 13 lại chuyển về Don Thomo, sau đó chúng tôi nhận lệnh đi truy quét sâu trong khu vực mỏ vẹt ở phía Nam phum Viêng, nơi đặt bản doanh của trung đoàn bộ. Chúng tôi đi theo con đường đê bị vỡ - do lính Pôn Pốt gài mìn phá hoại trước đó - để vào mỏ vẹt.
Mỏ vẹt là một mũi đất của Thái Lan (có hình dạng giống như cái mỏ của con vẹt) thọc sâu vào nội địa của Campuchia, tàn quân Pôn Pốt ẩn náo ở đó và thường hay tập kính hỏa lực vào các đơn vị trực thuộc trung đoàn bộ.
Có lần, chúng tôi ra thế chốt cho một đại đội trực thuộc của trung đoàn 4 đi làm nhiệm vụ. Đơn vị này đóng ở phía Bắc lộ 5, gần chổ mà đại đội chúng tôi đã từng chốt hồi mới đến phum Diêng tháng 4/79, nơi có bộ xương khô mặc đồ bà ba đen nằm nhe răng nhát ma bộ đội.
Đêm đó thằng Pôn Pốt từ trong mỏ vẹt ra tập kích chúng tôi. Đầu tiên nghe bùng bình một tiếng, sau đó là tiếng tiểu liên AK, rồi tiếp tục nửa là tiếng cối nổ oành, oành. Tôi và đồng chí Hạn, lính nhập ngũ 3/79 nằm úp người trên nền đất ẩm ướt mà chịu trận, mà nghe tiếng đạn bay, cối nổ...
Mấy thằng này bắn dở, đạn AK thì bay quá nóc nhà, cối toong thì trật hướng, chúng tôi nằm kế bên cái công sự hình chữ U đầy nước... nhưng chẳng thèm nhảy vào đó làm chi cho thêm dơ dáy, vì hỏa lực của Pôn Pốt giả không trúng đội hình của mình, có trúng chăng thì trúng cái sân... chào cờ của đại đội ở phía trước.
Các đại đội cối pháo của trung đoàn lập tức lên tiếng, hỏa lực của ta rót trả ngay vào cái mỏ vẹt đó. Chuyện này xãy ra như cơm bửa, riết rồi cũng nhàm, hình như những cuộc tập kích kiểu này chỉ gây căng thẳng chứ khó gây thương vong cho ai.
Chắc chắn là mấy anh Thái biết chúng tôi vào mỏ vẹt (làm gì không có quân báo Thái Lan nằm ở ngã ba con voi này), anh lấy làm khó chịu, anh cho máy bay trinh sát L19 bay tuần tra cái mỏ vẹt, tất nhiên là trên phần đất nhà anh. Anh bay vè vè trên đầu chúng tôi, anh dòm dòm, ngó ngó.
Chúng tôi phát hiện L19 ngay bởi tiếng kêu è è của nó. Chúng tôi dừng đội hình hành quân tại chổ, ẩn vào các gốc cây rừng. Có rừng cây che khuất, dễ gì anh thấy tôi, anh bay khuất tầm thì chúng tôi đi tiếp.
Từ Mỏ Vẹt chúng tôi đi dọc theo đường biên giới, truy quét sâu vào khu vực Cao Mê-lai, rồi vòng lại, cho đến một hôm ra đến chân một cây cầu cháy bắt qua một con suối lớn ở sâu trong hướng đuôi con voi Nimith thì dừng chân.
Tại cầu cháy, chúng tôi nhận được thư nhà và nhu yếu phẩm. Những điếu thuốc lá Đà Lạt lúc đó sao mà đậm đà thơm ngon đến như vậy, hút chỉ một điếu mà cảm thấy đầu mình lâng lâng như say thuốc. Chúng tôi nghỉ ngơi tắm giặt ở đây sau nhiều ngày chịu khô hạn ở trong rừng.
Cũng tại cây cầu cháy này tôi lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là đĩa đeo, tôi thấy trong bẹn mình ướt ướt, lạnh lạnh, nhớt nhớt rờ vô thì thấy chảy máu, loãng thôi, định thần nhìn kỹ thì ra tôi bị đĩa đeo trong lúc tắm suối, tôi nắm lấy con đĩa từ từ lôi ra, máu chảy ra theo nó tức thì, sẳn gói thuốc lá Đà Lạt mới lãnh đang hút dở trong túi, tôi xé ra nửa điếu lấy sợi thuốc đắp lên vết cắn, mãi hồi lâu vết cắn mới khô miệng, kéo mài.
Sau đó chúng tôi được lệnh quay về, khoảng nửa đêm hôm đó chúng tôi mới về đến Don Thomo. Đợt hành quân này kết thúc năm 1980 nhiều kỷ niệm.
Gió bấc lạnh từng cơn thổi về, chúng tôi đang đóng quân ở Don Thomo, cực Tây Bắc của lãnh thổ Campuchia, tại một địa điểm có độ vĩ Bắc là 13 độ 40 phút, ngang với ranh giới tỉnh Phú Yên và Bình Định của Việt Nam. Hình như ở vĩ độ này (cao hơn hẳn thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long) thời tiết cuối năm lạnh hơn thì phải?
Những đêm giáp tết âm lịch năm đó trời lạnh lắm! Chúng tôi khuân về từng gốc cây dầu khô đường kính cở bắp vế, đốt lên và ngồi quanh lửa hồng sưởi ấm, anh nào đi ngũ thì xách một thùng than cây cháy đỏ vào lán của mình, để dưới vạt giường mà nằm cho ấm.
Tình hình Don Thomo yên tỉnh nên chúng tôi mới dám đốt lửa sưởi ấm kiểu này, chứ ở Đăng-cum thì không dám đâu, ăn đạn B40 liền!
Hàng ngày chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức đi truy quét ra phía trước đội hình, có lần cả đại đội chúng tôi đi xa lắm, qua khỏi rừng cây xanh, đến một con đường lớn và trống trãi (không phải đường bò, vì nó bằng phẳng, trong khi đường bò thì nó hằn vết bánh xe bò). Con đường này ăn sâu trong cánh rừng thưa trụi lá, thấy dấu vết của lính tráng phía bên kia để lại trên đường, nó vẽ chữ giun nghệch ngoạc cái gì đó...
Chúng tôi đi đến đó là muốn hết tấm bản đồ hành quân của đại đội, chiều chúng tôi lên họp giao ban, cùng các anh chỉ huy đại đội lật bản đồ ra xem mà cứ thắc mắc mãi về những cái dấu vết địch để lại trên cái con đường này...
Và chúng tôi đã ăn cái tết đầu năm 1981 tại cái Giếng Đá đó một cách êm thắm.