Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Hồi thứ 20. CHIẾN DỊCH C81
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
Sau cái trận Takung Krao đó, chúng tôi trở về Don Thomo được một thời gian ngắn, rồi lại có lệnh hành quân. Bấy giờ đang là thời điểm giao nhau giữa hai mùa mưa nắng, mùa mưa 1981 đang kết thúc và mùa khô 1982 đang đến. Chúng tôi lại đi về hướng Nam, vượt qua một con suối sâu, nước cuồn cuộn. Tôi biết bơi chút đỉnh, nhưng chỉ là bơi trong hồ thôi, ra suối lớn nước chảy xiết, tưởng bở tôi súng đeo vai, tay trái cầm bao nylon bọc ba lô quần áo, tay phải quạt nước bơi qua suối. Vừa hụt tầm chân đứng, sức của nước đẩy tôi chới với xuống hạ lưu liền. Nhìn về phía hạ lưu dòng chảy, tôi thấy rõ một hàng đăng bằng tre, được giăng sẳn ngang dòng nước để bắt cá... đang chờ tôi.

Có hai anh lính đứng dọc theo đường dây căng ngang suối (để bộ đội phăng theo dây đó mà lội qua) không anh nào với tới tôi, dòng nước đang đẩy tôi xuống hạ nguồn, xuống cái hàng đăng đang chờ sẳn... Bỗng dưng có bàn tay tay rắn chắc của một anh nào đó, đẩy tôi vào bờ .

Chúng tôi tập kết bên kia dòng chảy, vắt đồ ướt, phơi phóng đồ đạc, nghỉ ngơi ăn uống.

Hôm đó, chúng tôi vào một điểm cách Tà-cuông Krao khá xa để ém quân, ăn uống cực khổ, thiếu thốn đủ thứ, nhất là thuốc hút. Được khoảng mười ngày thì lui quân về Don Thomo.

Sau này nghe anh em nói lại là do vướng cái suối sâu chặn đường hành quân, nên mặt trận không triển khai chiến dịch vào thời điểm đó được, tạm thời rút chúng tôi về.

Anh em nói sao biết vậy, chứ cái chiến dịch này được giữ bí mật lắm, đến cấp đại đội không hề hay biết gì.

Hôm đó là ngày 25 tết, tôi nhớ rõ... Vì hôm đó tôi dắt trung đội đi truy quét trước đội hình đóng quân của tiểu đoàn ở Don Thomo, cùng đi với chúng tôi có anh Dũng đại đội phó đi kèm. Đến trưa chúng tôi về đến nhà thì cả tiểu đoàn đã đột ngột kéo quân vào Cốp-tút rồi, hậu cứ chỉ còn lại mấy bệnh binh mất sức ở lại trông coi.

Chúng tôi vào Cốp-tút, thì tiểu đoàn đã vào Tà-cuông. Hôm sau, chúng tôi vào Tà-cuông thì tiểu đoàn đã đi vào rừng rồi.

Chúng tôi quanh quẩn ở Tà-cuông đợi lệnh, ra hồ Tà-cuông rửa ráy và đong nước vào bình toong, nước hồ vào mùa lạnh trong veo, từng đàn đĩa nghe hơi người lội tới lúc nhúc, kiểu bơi của chúng hệt như kiểu bơi của người nhái mà ta thấy trong phim...

Rửa mặt, đong nước bình xong xuôi, chúng tôi tà tà đi qua một căn lều trại dã chiến, đứng lại nhìn vào thì thấy mấy ông tướng tá mặt trận 479 đứng vây quanh bản đồ, chỉ trỏ, bàn luận hội ý ở đây. Vệ binh mang súng kè kè đứng gác xung quanh, dòm dòm, ngó ngó chúng tôi, chúng tôi thấy không tiện đứng đó lâu, làm ảnh hưởng kế hoạch hành quân của các xếp nên kéo nhau đi mà bàn tán rằng chuẩn bị có đánh lớn đây... Thực sự đến lúc đó chúng tôi cũng chưa biết là mình đang tham gia chiến dịch C81.

Trưa 27 tết chúng tôi bắt kịp tiểu đoàn của mình, anh em đang đong nước vào bi-đông và tất cả cái gì... có thể đựng được nước để ra trận.

Cả tiểu đoàn hành quân vào trận với súng đạn, gạo và nước rất nặng nề, chúng tôi mang theo nước uống rất nhiều. Bởi vì chúng tôi đang vào Nam Cao Mê-lai giữa cao điểm mùa khô khốc liệt.

Ở đây chỉ có hai mùa
Nắng không có nước, còn mưa rừng lầy...
Những câu thơ của đại tá Văn Lê, nhà văn quân đội rất đúng với hoàn cảnh của chúng tôi lúc này.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
VÀO TRẬN ĐÁNH
Đường vào trận vậy mà lại... đẹp!
Chúng tôi đang đi trên một con đường đất đỏ, sạch sẽ tinh tươm, không dấu chân người, không vết bánh xe, không bụi bặm. Những hàng tre hai bên đường đan lại với nhau thành vòm che nắng chúng tôi, bóng nắng chiếu qua vòm lá thành những hình rằn ri trên áo lính bạc màu sương gió.

Hết rừng tre chúng tôi bước vào rừng dầu, tiếng ve rừng rền vang trong tiết trời cuối đông mát mẻ. Tiếng ve rừng kêu lúc liên tu bất tận, lúc im lặng nín thinh, dường như đang tuân theo sự chỉ huy của một vị nhạc trưởng quyền uy tột đỉnh.

Dừng chân trong lòng một con suối cạn, chúng tôi ngồi đó nghe tiếng máy thông tin vô tuyến điện rè rè liên lạc về sở chỉ huy chiến dịch đóng ở Tà-cuông Krao: A lô, a lô, hai không một, hai không một...

Sáng 28 tết, cơn sốt rét đầu tiên trong đời lính quật đổ tôi trên con suối cạn Nam Mê-lai. Tôi nằm run rẩy trong lòng con suối đầy sỏi đá, nước mắt tự động ứa ra...

Cơn sốt đầu tiên đi qua rất mau, rồi chúng tôi dàn quân vào trận đánh.

Cũng như bất kỳ cuộc tấn công nào, chúng tôi bình tỉnh đợi hiệu lệnh tấn công.

Hiệu lệnh tấn công luôn luôn bắt đầu bằng pháo lệnh.

Căn cứ vào điểm nổ của loạt đạn pháo, chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào trận địa.

Chúng tôi chỉ nổ súng và hô xung phong khi nào thấy địch, thường thì địch bắn trước, vì nó yên, ta động, nên nó phát hiện ra ta trước.

Trận này chúng tôi không thấy địch nên không phải bắn và cũng chẳng phải hô xung phong...

Đám lính Pôn Pốt đã bỏ căn cứ mà tháo chạy ngay sau loạt pháo đầu tiên.

Trung đội chúng tôi từ dưới suối xông lên và đặt chân lên căn cứ địch, không nổ súng và không đổ máu. Cái chúng tôi thu được đầu tiên trên căn cứ này là quả mìn định hướng ĐH 10, nó gióng vào hướng bờ suối, ngay chổ trung đội chúng tôi mới từ đó xông lên.

Nhìn quả mìn, tôi thầm nghĩ may mà địch chạy, nếu nó tử thủ ở đây chắc chắn chúng tôi đã thương vong nặng từ quả ĐH này.

Phía sau quả ĐH là lán trại của bọn lính, chúng tôi thu được những bó cải khô, đây là một loại cải giống như cải ngọt bên mình, nhưng nấu canh ăn hơi the the. Những bó cải này được lính Pốt tăng gia sản xuất trong mùa mưa và phơi khô để ăn dần.

Chúng tôi chốt giữ cái căn cứ này suốt mấy ngày tết. Lính công binh C18 tiến hành đào giếng và chúng tôi thu được một loại nước trắng nhờ nhờ như nước vo gạo. Nhờ vậy mà chúng tôi có nước nấu cơm và nấu canh với cái đám cải khô thu được của lính Pốt.

Đại đội 13 được bố trí nằm ven trục lộ đất đỏ, đây là con đường mà chúng tôi đã theo nó xuất kích hôm nọ, tới đây nó vẫn còn chạy tiếp và đến một nơi nào đó tôi hoàn toàn không rõ.

Chúng tôi bảo vệ tuyến đường này và hàng ngày có nhiệm vụ đi thông đường lên phía trước để bắt liên lạc với một lực lượng ở phía trên, không biết đơn vị nào, nhưng chắc chắn không phải là trung đoàn 4, vì tiểu đoàn 3 là đơn vị phát triển lên cao nhất trong đội hình trung đoàn .

Tôi chỉ nhớ rằng cứ mỗi lần có tăng từ phía trên đi xuống thì tôi nghe tiếng súng họ bắn rất dữ dội vào hai bên rừng. Có một lần đi thông lộ lên phía trên bắt liên lạc được với họ rồi, lúc về ngồi trên thiết giáp M113, họ đi đội hình hai chiếc, không hiểu tại sao đại liên trên tăng vẫn cứ bắn xối xả vào hai bên rừng. Làm như vậy chắc là để trấn áp lính Pốt, không cho nó tiếp cận xạ kích chăng? Đã có một xe vận tải hậu cần bị lính Pốt phục kích bắn trúng, tài xế ráng chạy thoát thân về tới đội hình chúng tôi, sau đó anh này bị phẩu cắt mất một cái chân.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
NAM CAO MÊ-LAI
Chiều mồng 3 tết, chúng tôi được lệnh rang gạo để ăn đường, rồi hành quân truy quét suốt một loạt cao điểm dọc dãy Nam Mê-lai.

Những ngọn núi trong dãy Nam Mê-lai không cao, thường chỉ khoảng một hai trăm mét. Chúng tôi đi hàng dọc lên những cao điểm có rừng cây thưa làm vật che khuất, lên đến đỉnh nhìn sang đất Thái thấy phía dưới nhà ngói đỏ lô nhô, xe cộ di chuyển trên đường thảnh thơi, bình an vô sự.

Chúng tôi đang hành quân truy quét trên những cao điểm thuộc phía Nam phnom Mê-lai, dọc theo biên giới Thái Lan. Chúng tôi không xâm phạm vào lãnh thổ của người Thái và hình như người Thái cũng không có động tịnh gì chứng tỏ họ biết chúng tôi đang có mặt trên núi, đang nhìn ngó sang đất nước của họ. Đứng nhìn nhà cửa, xe cộ của họ chạy trên đường, tự dưng tôi có ý nghĩ đứng trên trái núi này, chỉ cần thả lỏng người, chạy một hơi là xuống đến đất Thái rồi, bên đó không có mìn, không có giặc, chỉ có nhà tường ngói đỏ, có xe chạy ung dung trong cảnh thanh bình, tự nhiên chạnh lòng tự nghĩ ở Việt Nam mình lúc này cũng còn đang tết.

Cái tết âm lịch của người Việt xa xứ rất thiêng liêng, những ngày đầu tham gia chiến dịch C81 tôi chỉ lấy chuẩn thời gian là những ngày giáp tết năm đó: 25 hành quân, 28 chiếm cứ địch, mùng 3 khởi hành đi truy quét Nam cao Mê-lai, qua rằm lại tiếp tục đi đánh cứ...

Trong thời gian này, mỗi ngày chúng tôi được tiếp tế một vắt cơm và uống mỗi ngày một bi đông nước. Cơm và nước được vận tải từ trên lưng của bộ đội vượt núi băng rừng tới đây tiếp tế cho chúng tôi.

Hành quân dài ngày trong chốn sơn lam chướng khí này, quân số hao hụt rất nhanh, lúc này trung đội của tôi chỉ còn 4 người.

Một sáng sớm, trên một cao điểm nọ, chúng tôi đang hội quân và ngồi rải rác ở tiểu đoàn bộ chờ nhận nhiệm vụ tiếp theo trong ngày. Đài thông tin vô tuyến điện đang rà sóng liên lạc với sở chỉ huy tiền phương theo giờ hẹn định kỳ.

Chúng tôi đang yên lặng chờ nghe tin từ cái đài vô tuyến nọ thì bỗng dưng nghe tiếng xoong nồi khua loảng xoảng dưới chân, nghe rõ tiếng chửi thề:

-Chuây me à Duôn (Đ.M thằng Việt)

Chúng tôi biết rõ đó là mấy thằng Pôn Pốt bị động ổ đang dời nhà đi chổ khác, tức mình nó vừa đi vừa chửi. Bình thường, nếu đang là đội hình hành quân và đang sung sức (như thời kỳ ở Sophia) thì chỉ cần hô một tiếng chúng tôi có thể đuổi theo truy kích tiêu diệt bọn này nhờ yếu tố bất ngờ.

Nhưng lúc này đang ngồi chờ lệnh và đang thiếu nước uống, thử hỏi chúng tôi thiết tha gì về chuyện đánh đấm nửa? Trong đầu tôi còn nghĩ tới viễn cảnh nếu mình bị bao vây thì chắc là chết khát, vì đây là đất địch, hậu phương ở rất xa, không thể nào chi viện kịp thời.

Tư tưởng lớn gặp nhau, chỉ huy của chúng tôi có sạn trong đầu về chuyện binh đao... Việc ai người đó làm! Chúng tôi cứ đi theo mệnh lệnh của cái đài vô tuyến mà mỗi lần đến giờ liên lạc, lính thông tin phải đeo ăng-ten leo lên cây cắm để tăng độ cao, rồi mới rà được sóng.

Một buổi chiều chạng vạng nọ, trinh sát tiểu đoàn đang cắt đường lên núi tìm chổ nghỉ thì đá phải mìn, tối đó chúng tôi qua đại một quả núi kế chia đội hình ra kiếm chổ giăng võng nằm ngũ.

Rồi chúng tôi không đi lang thang vô định theo cái đài vô tuyến nửa mà được cắm chốt trên một quả núi lớn đủ sức chứa bảy, tám chục tay súng của tiểu đoàn... Vâng, cả tiểu đoàn giờ chỉ còn bấy nhiêu đó quân.

Các đại đội bộ binh đóng ở lưng chừng núi, đại đội 13 đóng kế bên trung đội ĐKZ của đại đội 14, phía dưới là tiểu đoàn bộ... Đây là một ngọn núi đất đá xen kẻ, có nhiều tán cây lớn, lá rụng đầy. Có đêm tối trời, nghe tiếng khua loảng xoảng, loạt xoạt, anh em bảo đó là tiếng lông nhím va chạm nhau lúc chạy trên lá vàng khô.

Ở đây được một vài ngày thì thằng Pôn Pốt biết, nó bắn pháo vào đội hình chúng tôi nhưng không trúng, rơi ra phía sau lưng chúng tôi xa lắm. Tiểu đoàn hạ lệnh phản pháo, đứng gần đó tôi thấy rõ khẩu ĐKZ 82 đặt trên vai chiến sĩ hỏa lực C14 gầm lên, bay ra phía trước hồi lâu mới nổ.

Đấu pháo qua lại cho có, chứ thật ra làm gì nhau: Cò ỉa miệng chai, dễ gì mà trúng.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
VÀO TỌA ĐỘ CHẾT
Rồi một đêm nọ, vào khoảng nửa đêm về sáng, từ cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng đó, chúng tôi xuất kích đánh một căn cứ của địch. Cái cứ điểm này được chấm trên bản đồ hành quân chứ thực sự chưa ai bước chân vào.

Nghe lính tráng nói với nhau, sở dĩ chúng tôi có chiến dịch này là do vệ tinh trinh sát của Liên Xô phát hiện, họ thấy có căn cứ địch trên dãy Nam Cao Mê-lai nên cung cấp thông tin cho ta, trinh sát ta phải luồn rừng cả tháng trời để nắm địch... Đó là tin của lính, chúng tôi viết chuyện đời lính nên nghe sao nói vậy! Sau này, tôi đọc quyển hồi ký viết về cuộc chiến tranh bắt buộc của đại tá Nguyễn Văn Hồng (đăng trên quansuvn.net) thì biết rằng ông đã phát hiện ra khu căn cứ này khi ngồi trên máy bay trực thăng. Thế mới biết, thông tin của lính sáng tạo ra phong phú thật.

Kế hoạch tác chiến được vạch ra cho trận đánh này là chúng tôi sẽ dùng mìn định hướng để thổi bay mìn của địch làm cửa mở xung phong. Đơn giản như... đang giởn!

Tôi trung đội phó, phụ trách trung đội 4 người của mình, hỏa lực bao gồm 1 B40, một trung liên RPD và hai cây AK, đi đầu đội hình hành quân của tiểu đoàn. Riêng tôi, tôi đeo thêm một quả mìn ĐH 10 (chiến lợi phẩm thu được của Pôn Pốt) chúng tôi đi theo trinh sát tiểu đoàn tiến quân vào trận địa.

Chúng tôi hành quân từ lúc nửa đêm dưới ánh trăng trung tuần tháng giêng. Dù đi trong địa hình rừng núi, nhưng ánh trăng vàng rực ấm áp hôm đó vẫn đủ sức chiếu sáng đường chúng tôi đi.

Khoảng 4 giờ sáng thì đến điểm. Đội hình chiến đấu dừng lại chờ trinh sát mở đường thì mìn nổ. Không biết ai chết, nhưng tôi biết có đồng chí Nghĩa, trung đội phó trinh sát tiểu đoàn bị thương, sau đó được đưa lên cáng thương và đi tiếp.

Lần này, trinh sát mở đường từ hướng khác thì mìn lại nổ tiếp, đồng chí Nghĩa lại bị thương tiếp lần thứ hai. Sau trận đó, anh nổi tiếng khắp tiểu đoàn vì là người bị trúng mìn hai lần... mà không chết. Anh này là dân Thủ Đức, nhập ngũ tháng 3/79, hồi ở phum Sophi tôi và anh cùng trung đội của anh Thạch, tôi có nhắc tới anh trong câu chuyện nhỏ, bà mẹ cô gái anh thích thường đùa với anh: Đưa me mười cây vàng me gã con gái cho. Số bà này có con gái đẹp mà không được hưởng của, cô này do đẹp quá mà bị người yêu... bắt làm vợ. Số là cô có quen một anh trong phum (tất nhiên là người Campuchia), anh này không có mười cây vàng nộp cho bà già vợ, thế là anh và người nhà của anh canh me cô này đi ra ngoài đường trùm bao bố lên người cô, vác cô lên vai mang về làm vợ, tiền dâm hậu thú, ván đã đóng thuyền, thế là xong, thế mới đểu, không biết anh Nghĩa có buồn không? Sao lúc đó tôi thấy anh vẫn tỉnh bơ như không... Sau trận đó, do mất sức chiến đấu, anh được đồng chí tiểu đoàn trưởng ưu ái phân công là trợ lý tác chiến kiêm trực ban chuyên nghiệp.

Từ ngày anh Nghĩa lên làm trực ban chuyên nghiệp, cánh cán bộ trung đội chúng tôi khỏi phải mất công ăn cơm đại đội đánh kẻng tiểu đoàn... Nói vậy chứ tôi thấy rõ tính ưu việt của chế độ cán bộ trung đội trực ban tiểu đoàn và tuần tự như vậy mà lên cao hơn nửa, hoặc cán bộ tiểu đội trực ban đại đội .v.v... Nó có cái hay là tập cho cán bộ cấp thấp quen dần với công việc của cấp trên trong việc duy trì nề nếp sinh hoạt của đơn vị, để sau này khi hữu sự có thể lên làm lãnh đạo mà đở bị bở ngở, vì đã được tập làm chỉ huy từ trước.

Trinh sát tiểu đoàn chỉ còn duy nhất một người là đồng chí tiểu đội trưởng Lê Văn Rô, nhập ngũ tháng 3/79, nhà ở phường 4, quận 1 (phường Tân Định bây giờ). Anh này tôi nhớ rõ vì chúng tôi có nhiều duyên nợ trong trận đánh không... thành này!

Trời dần sáng, lần thứ ba trinh sát được chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh cắt rừng mở đường khác để đưa bộ binh vào trận, tôi đang ở đầu hàng quân, thứ ba từ trên xuống, nghe rõ tiếng rừng núi chuyển mình về sáng, nghe thấy đâu đây tiếng cười gằn của tử thần trong cánh rừng cây thâm u trước mặt.

Và tôi thấy rõ đồng chí Rô mặt tái mét đang từ dưới đi lên, anh xiểng niểng đi ngang qua người tôi, tôi còn né người qua để nhường chổ cho anh bước tới. Mệnh lệnh hành quân của cả một hệ thống quân giai đang ép lên anh, người lính trinh sát cuối cùng!
NGÃ BA CON VOI Hồi lý của cựu chiến binh mặt trân 479 chiến trường K
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
NGƯỜI LÍNH TRINH SÁT CUỐI CÙNG
Chúng tôi đi rất chậm, cực kỳ cảnh giác, thưa ra - cách nhau mười mét, là mệnh lệnh hành quân được nhắc đi nhắc lại từ chỉ huy ở phía sau truyền lên phía trước.

Có dấu bẻ cò
Trinh sát Rô vừa cắt rừng vạch đường đi, vừa báo về phía sau là anh phát hiện có dấu bẻ cò.

Đi trong rừng để đánh dấu đường đi, người ta thường bẻ quặt một cành lá trên đường mình đi qua, cái dấu bẻ quặt đó cánh lính chúng tôi gọi là dấu bẻ cò.

Có dấu bẻ cò
Tôi vừa truyền lại câu báo cáo đó ra phía sau thì nghe bình một tiếng chát chúa, tôi nghe một luồng hơi nóng và lá cây bay xạt qua rát mặt, hai chiến sĩ của trung đội đi phía trước bỏ chạy ngay ra phía sau nói là bị thương.

Ngay lúc đó, đại đội phó Nông Tiến Dũng đi lên kêu: Hùng lên phía trước xem sao? Tôi và anh thận trọng tiến lên phía trước.

Lê Văn Rô chết tức thì ngay sau tiếng nổ.

Nghe tiếng bình chát chúa, chúng tôi biết chắc chắn là anh đã vướng mìn KP2.

KP2 là loại mìn vướng nổ do Trung quốc chế tạo, mìn được gài bằng dây rừng hay dây gì bất kể miễn đồng màu với địa hình, hể bị vướng thì cái dây đó kéo cái chốt an toàn ra, kim hỏa đập vào hạt nổ, hạt nổ kích thích liều phóng, mìn phóng ra khỏi ống phóng, lên cao khoảng 1,2m thì phát nổ.

Với tầm nổ này người bị vướng mìn chắc chắn vỡ tim, banh ruột chết ngay lập tức. Mảnh của nó còn văng ra xa, bán kính sát thương dày đặc 10m, 20m tiếp theo vẫn còn khả năng sát thương. Hai chiến sĩ trong đội của chúng tôi đã bị thương kiểu như vậy, do chúng tôi duy trì tốt khoảng cách, nên hai anh này chỉ bị sây sát chút đỉnh, y sĩ tiểu đoàn băng bó sơ qua rồi bắt ra trận tiếp, không được về tuyến sau, vết thương ngoài da mà.

Trước mắt chúng tôi, anh Rô nằm bật ngửa, ruột đổ xuống đất. Tôi hai tay hốt ruột của anh nhét lại vào trong bụng, ruột đã đổ thì nó xổ và nở ra, nhét vào không hết. Tôi phải lấy cái nón cối của anh úp lên chổ ruột còn nằm bên ngoài ổ bụng. Anh Dũng đi chặt cây làm cáng, chúng tôi đặt anh vào võng thật gọn gàng, cột chặt dây võng vào cáng thương, để anh nằm đó chờ lệnh.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
LỐI VỀ ĐẤT MẸ
Đầu óc tôi ong ong vì hậu quả của tiếng nổ và vì căng thẳng, lúc này cả trung đội chỉ còn tôi và một đồng chí hỏa lực RPD. AK đi trước, hỏa lực đi sau là nguyên tắc hành quân trên chiến trường. Vậy nếu đi tiếp thì tôi phải đi đầu đội hình, chết là cái chắc!

Tôi đang là cái mũi nhọn duy nhất trên đầu mệnh lệnh hành quân của cả hệ thống quân giai. Tiểu đoàn chúng tôi đang chấp hành mệnh lệnh hành quân của trung đoàn. Nhận lệnh của trung đoàn thì tiểu đoàn lệnh xuống đại đội, đại đội lệnh xuống trung đội, trung đội không còn ai nhận lệnh thì tôi phải trực tiếp thi hành cái mệnh lệnh đó... Đi tiếp chắc chắn là đá phải mìn.

Cả trung đội trinh sát của tiểu đoàn 3 đã bị thương vong sạch sẽ. Vậy ai cắt đường dẩn quân vào trận? Đây là tình huống khó... Tất nhiên tình huống này theo hệ thống quân giai sẽ được báo cáo lên trên và lên trên nửa để xử lý?

Thật lâu sau đó, chúng tôi được lệnh trở về cái núi đá nơi mình xuất phát hồi nửa đêm... Tạm thời để lại cái căn cứ nằm trong bãi mìn đó cho Pôn Pốt.

Không biết thằng Pôn Pốt trong cái căn cứ đó có biết rằng những bãi mìn dày đặc của nó đã bẻ gãy một cuộc hành quân lớn của Việt Nam và loại bỏ hoàn toàn một trung đội trinh sát ra ngoài vòng chiến đấu không?

Chắc là thằng Pôn Pốt không biết. Nhưng lính tiểu đoàn 3 tham gia chiến dịch năm đó thì nhớ mãi trận đánh bất thành này.

Cuối tháng 4 năm 2005 tôi ngồi bên mộ phần của Lê Văn Rô trong nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh, thấy ghi ngày tháng năm hy sinh của anh là 31/12/1982, ghi như vậy là không đúng! Anh Rô đã hy sinh vào một buổi sáng sớm mùa xuân năm 1982, trong khoảng thời gian mới qua rằm tháng giêng âm lịch được ít hôm, vì hôm xuất kích đó, trăng giữa đêm sáng lắm, sáng mãi đến... sáng.

Trung đội 4 người của chúng tôi được phân công mang xác anh Rô. Cả tiểu đoàn về tới núi đá thì trời đổ mưa, một cơn mưa đầu năm bất chợt. Chúng tôi nhờ trận mưa này mà có nước uống giải khát, có nước nấu cơm ăn bên cạnh cái xác của đồng đội mình và đêm đó chúng tôi đã ngũ ngay bên cạnh cái xác lạnh của anh.

Nhờ uống nước cơn mưa trái mùa đó mà chúng tôi phục hồi sức lực, hôm sau chúng tôi đủ sức cáng cái xác anh Rô đi đúng một ngày đường rừng núi mấp mô để mang anh về tuyến sau làm hậu sự.

Xác của anh đã bốc mùi, chúng tôi chịu đựng cái mùi đó của anh không ghê tởm, không oán trách. Tôi còn nhớ người anh nhỏ gọn nên chúng tôi cáng anh không đến nổi è ạch lắm. Bước qua những gốc cây to đổ trong rừng, võng anh trượt trên thân cây và rồi tiếp tục lắc lư trên vai chúng tôi với cái mùi đặc trưng không lẩn đâu vào đâu được.

Trời chập tối chúng tôi mới ra tới đường cái, đây là con đường đất đỏ mà chúng tôi thường đi tuần, con đường đã lấy đi của anh lính lái xe một cái chân. Không biết cái anh thương binh cụt chân đó giờ này ở đâu? Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh qua câu chuyện lính tráng kháo nhau: Khi tỉnh dậy, anh đã tức tối - khóc lóc - kể lể như thế nào khi thấy cái chân mình bị mất.

Chúng tôi ngồi nghỉ trong một cái chốt ven đường đất đỏ của lính công binh, không biết có phải là công binh C18 trung đoàn 4 không? Điều này không quan trọng, nhưng cái tôi nhớ nhất là những chén trà và điếu thuốc mà chúng tôi được thưởng thức trong cái chốt ven đường đó.

Cái tình cảm tương thân tương ái của những người lính đối với nhau trên chiến trường tốt lắm. Anh lính đóng chốt luôn sẳn sàng chia sẽ với anh lính ngoài mặt trận, sẳn sàng đãi anh những món ngon mình có sẳn. Trà và thuốc, nhất là thuốc lá là món chúng tôi luôn luôn thiếu thốn, luôn luôn thèm thuồng trong những chuyến hành quân xa.

Chúng tôi bàn giao cái xác của anh Rô để tiếp tục chuyển về tuyến sau ngay tại cái chốt công binh đêm hôm đó.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
NHỮNG CƠN SỐT RÉT
Chiến dịch chưa kết thúc, hôm sau chúng tôi quay trở lại cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng chốt ở đó một thời gian nửa rồi mới quay ra trở về cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được hôm 28 tết.

Mấy ngày sau, từ cái căn cứ đó, chúng tôi lại tiếp tục đi truy quét. Chúng tôi đi ngược lại con đường đất đỏ, trở về hướng chúng tôi xuất phát hôm 27 tết.

Đi được một đoạn, tiểu đoàn dừng lại để trinh sát cắt đường rẽ vào rừng thì tôi lên cơn sốt mê man, tiểu đoàn để tôi nằm đó, vào rừng hành quân theo bản đồ tác chiến được giao. Tỉnh dậy, tôi quay trở về cái căn cứ của mình, đi được một đoạn thì lên cơn sốt, tôi ngã ra nằm trên con đường tôi vừa đi, trước khi mê man, tôi còn nhớ quay mũi súng về hướng đi của mình để lúc tỉnh dậy đi tiếp.

Tỉnh dậy, dù đã cẩn thận quay mũi súng chỉ đường, nhưng đầu óc tôi mê muội không biết hướng nào mà đi, tôi cứ đi đại, đi mãi thì đến chổ ngã ba mà hồi sáng tôi nằm lại trước khi tiểu đoàn rẽ vào rừng. Vậy là sai hướng rồi, uổng công tôi đi từ sáng đến giờ, mệt mõi và kiệt sức, tôi bật ra mê man bên đường...

Chính cái sức trẻ đã cứu tôi, nó dựng tôi dậy và đi một hơi trở về cái căn cứ của mình. Cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được hôm 28 tết, giờ đã là hậu cứ đông vui của cả trung đoàn 4.

Về đến hậu cứ thì trời đã về chiều, tôi ghé vào chốt của trung đội vệ binh đóng ở đầu cứ uống nước, tôi được anh em cho thuốc uống rồi tôi đi tiếp đến điểm đặt hậu cứ của tiểu đoàn, giăng võng dưới mấy bụi tre bên bờ suối cạn, lăn ra ngũ mê man mấy ngày đêm liền, tôi còn nhớ đồng chí Tý đại đội trưởng của tôi mới từ Việt Nam sang, lắc võng hỏi tôi cái gì đó, tôi cũng mê man ú ớ trả lời cái gì đó, khi tỉnh dậy thì đồng chí đã đi chiến trường rồi... Vậy mà sau đó tôi lại tỉnh dậy được, lại tiếp tục cùng tiểu đoàn đi lùng sục Nam Cao Mê-lai nửa... Và căn bệnh sốt rét mãn tính lại quật ngã tôi một lần nửa trên con đường hành quân liên tục của tiểu đoàn.


Bây giờ đang là tháng 3 năm 1982.

Có mùi cơm chín, hôi thật là hôi... Khi anh bị sốt rét nặng, anh sẽ ngửi mùi thơm của cơm chín ra mùi hôi và tất nhiên anh ăn không được!

Tôi cũng vậy, tôi ngã ra võng nằm tiếp! Ngũ cho đã, cho qua cơn sốt thì bật dậy thu võng quay về hậu cứ.

Về đến hậu cứ trung đoàn, chúng tôi do bị bỏ lại chiến trường, không có giấy giới thiệu của đơn vị chủ quản nên không được nhập viện, đồng chí nào đó đã phát cho tôi một vốc thuốc lớn để dành uống trị bệnh.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
NHỮNG NGÀY Ở SOPHI
Và với vốc thuốc đó trong túi, tôi tự động trở về hậu phương của mình, hậu phương của tôi là nhà me Lênh ở tận phum Sophi phía Bắc lộ 5... Không hiểu bằng cách nào mà tôi xoay xở về được tới phum Sophi cách đó hơn 20 cây số trong điều kiện sức khỏe tồi tệ, sốt rét mãn tính, ngũ mê, ngũ mệt.

Với vốc thuốc của đồng chí K23 tốt bụng phát cho và sự tận tâm chăm sóc của me Lênh, tôi dần khỏi bệnh.

Phum Sophi lúc đó là đơn vị hành chánh cấp xã, chính quyền mạnh, có chuyên gia kè cặp và lính tráng bảo vệ nên rất an ninh. Tất cả bệnh binh và lính trốn trận đều lần lượt kéo nhau về đây nghĩ dưỡng. Tôi có một anh bạn tên Hà Phước Tú nhập ngũ cùng đợt, làm phiên dịch cho chuyên gia, anh nói với tôi là anh được chỉ thị phải ghi chép tên tuổi lính bỏ về đây để sau này kỹ luật. Tôi nghe, nhưng mặc kệ, tôi không trốn trận, tôi bị bệnh bỏ lại chiến trường, tôi về đây vì ở đây tôi có mẹ nuôi chăm sóc, cho tôi ăn uống...

Tôi nằm dưỡng bệnh tại nhà me Lênh với mấy anh lính trẻ nửa, nhập ngũ sau tôi và không phải là lính tôi... Người đông, ăn uống tốn kém, nhà me Lênh lại nghèo, tôi nghe cô cháu nội của me Lênh nói với mấy anh lính trẻ là or ăng-co hốp (hết gạo ăn). Tôi nghe rõ câu nói đó, nhưng không phản ứng gì, đến nay tôi vẫn còn ân hận về sự vô tâm của mình.

Mấy anh lính trẻ đó chắc chắn là nghe và hiểu, rồi không biết có đi kiếm gạo cho me Lênh nấu không? Tôi bệnh hoạn nửa mơ, nửa tỉnh, chỉ biết rằng tôi đã nằm an dưỡng ở nhà me Lênh rất lâu, chắc là hơn nửa tháng trời và đến nay tôi vẫn còn ân hận gì đã kéo thêm lính về ăn tàn ăn hại nhà me. Thực ra nếu hiểu đời, lúc đó tôi có quyền đi kiếm hậu cần đòi tiêu chuẩn gạo của mình để mang về cho mẹ nấu cơm.

Lúc đó tôi có nghe anh em nói phong thanh là có cấp phát gạo cho lính nằm chờ đơn vị ở Sophi, nhưng tôi không biết là mình có đi lãnh gạo mang về cho mẹ không? Chắc là không, nếu có thì tôi đã không phải áy náy về cái câu or ăng-co hốp đó rồi!

Được tin đơn vị chuẩn bị trở về, chúng tôi lại kéo nhau vào Tà-cuông Krao. Trước khi tôi về Tà-cuông, me Lênh đã tặng tôi một tấm hình để làm kỹ niệm, đó là tấm ảnh me cạo đầu mặc bộ đồ nữ tu màu trắng. Tôi giữ tấm ảnh đó cẩn thận, mãi đến năm 1996 nhà tôi bị cháy, cháy tiêu luôn tấm ảnh, cùng tập nhật ký chiến sĩ, cả những tờ bằng khen của quân đội cấp cho tôi cũng trở thành tro tàn.

Lúc me Lênh tặng tôi tấm ảnh, tôi không hề nghĩ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của hai mẹ con tôi, tôi sẽ không còn dịp gặp lại mẹ! Nhưng mẹ là người già cả, mẹ hiểu, mẹ biết rằng tôi đã hoàn thành 3 năm nghĩa vụ quân sự, chắc chắn là tới đây tôi sẽ về nước, khó có cơ hội gặp lại mẹ, mẹ đã tặng tôi tấm ảnh để làm kỹ niệm, để còn nhớ mẹ.

Và tôi nhớ thật, nhớ mãi đến bây giờ. Cái nhớ pha lẩn bức rức, tôi nghĩ rằng đến nay mẹ không còn nửa, hoặc nếu còn thì cũng đã ngoài 90 rồi, tôi phải làm sao đây? Phải về thăm lại chiến trường xưa, thăm lại mái nhà xưa của bà mẹ nuôi của mình, như vậy mới phải đạo làm người.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
TÀN CHIẾN CUỘC
Về Tà-cuông Krao, chúng tôi nhận địa điểm bố trí của đơn vị mình, đóng cọc, trãi tăng nylon ra làm vật chứa, rồi đi xách nước trong hồ Tà-cuông đổ vào, chuẩn bị sẳn sàng để anh em về nấu cơm, nấu nước phục vụ anh em.

Quân tiền tuyến trở về từng đoàn, từng đoàn, nước hồ Ta-cuông cạn trơ đáy, bùn sình lầy lội nổi lên. Không đủ nước để sử dụng, nhiều đơn vị phải cho xe tải lên phía trước chở nước về dùng. Thế là có chuyện:

Chiều hôm đó, ra đường đất đỏ đứng ngóng đơn vị của mình thì tôi thấy một xe chở nước trờ tới, xe này vừa bị lính Pốt phục kích bắn B40, lái xe đã bình tỉnh chạy thoát về Tà-cuông.

Tôi thấy rõ ràng, hai anh lính đứng trong thùng xe tải, cong lưng, vận sức kéo từ phuy nước ra... một xác lính bị gãy gập làm đôi và bị nhấn lọt thỏm vào phuy nước. Anh này đã lãnh nguyên một trái B40 vào người và sức đẩy của trái đạn này đã nhận thẳng cánh anh vào thùng phuy chứa nước luôn (loại phuy xăng 220 lit).

Tổn thất nhân mạng của chiến dịch C81 tạm gọi là kết thúc ở đây, sau cái chết của người chiến sĩ đi lấy nước lúc tàn chiến cuộc!

Tiểu đoàn của chúng tôi cũng về Tà-cuông Krao ngày hôm đó chỉ với mấy mươi tay súng tàn tạ vì thiếu ăn, thiếu uống, bệnh hoạn!

Các đơn vị tham gia chiến dịch C81 lần lượt rút khỏi Tà-cuông, riêng tiểu đoàn tôi thì còn nán lại tại đó một thời gian để bảo vệ cái phum này.

Đầu mùa mưa 1982 Tà-cuông Krao đã trở thành một căn cứ hậu cần lớn của trung đoàn 4... Trước đó, tôi thấy từng đoàn xe tải lần lượt chở gạo, chở đạn đến chất đầy có ngọn trong chùa Tà-cuông, riêng đạn được chất tràn cả ra khoảng đất trống phía sau chùa. Đợt vận tải kết thúc thì mùa mưa 1982 cũng chính thức bắt đầu.
 
Hạng D
26/5/12
4.117
123
48
Hồi thứ 22: XÂY DỰNG CĂN CỨ HÀNH QUÂN NĂM-SẤP
Đầu mùa mưa 1982 tiểu đoàn 3 lại được bố trí về Sophia, xóm làng bây giờ hoàn toàn vắng lặng vì dân đã bị di dời ra hai bên lộ 5. Đại đội bộ đóng gần hồ nước giữa phum, tôi còn nhớ mùa mưa năm đó, tại cái hồ này chú Thái liên lạc bắt được một con cá lóc, nó đang lóc ngược giòng nước chảy vào hồ, mới đầu mùa mưa mà cái hồ này đã đầy nước.

Thời gian này quân số đơn vị đã hồi phục lại, mỗi trung đội được 7, 8 người. Trung đội của chúng tôi được bố trí ở phía đông phum, trước mặt là một con mương nhỏ, bên kia là một cánh đồng rộng mênh mông, trơ trọi vài cây độc mộc giữa đồng, chim trời về đậu trên những cành cây đó. Có lúc rảnh rổi tôi xách súng đi bắn chim cải thiện, nhưng giữa đồng trống không tiếp cận được nó, thấy tôi lội ruộng bì bỏm vào, nó đập cánh bay đi.

Giai đoạn này chúng tôi luyện tập chiến thuật phòng ngự trận địa, vận động tấn công trên chiến trường từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn .v.v. Riêng khoa mục tiểu đoàn bộ binh vận động tấn công trên chiến trường thì ban chỉ huy tiểu đoàn đích thân dàn quân diễn tập, có ban chỉ huy trung đoàn xuống kiểm tra và đánh giá kết quả học tập. Việc huấn luyện này theo tôi là rất quan trọng để cán bộ các cấp trong tiểu đoàn hiểu ý nhau hơn trong phối hợp tác chiến và các xử lý tình huống xãy ra trong chiến đấu.

Giai đoạn cũng cố và huấn luyện mùa mưa 1982 trôi qua rất mau, giữa mùa mưa 1982 chúng tôi lại trở về Tà-cuông Krao với nhiệm vụ mới nghe lần đầu là... xây dựng căn cứ hành quân.

Trở về Tà-cuông, thời gian đầu chúng tôi ban đêm ngũ ở Tà-cuông, ban ngày kéo nhau vào Năm-sấp xây dựng căn cứ hành quân. Trong thời gian này đơn vị tôi có nhiều thay đổi, anh Tý đại đội trưởng được lên chức qua tiểu đoàn 1 làm tiểu đoàn phó, anh Nông Tiến Dũng lên làm quyền đại đội trưởng, anh Thạch được điều qua tiểu đoàn 2 làm đại đội phó. Riêng trung đội tôi, anh Thư trung đội trưởng (sĩ quan) đi phép về nắm lại trung đội, anh là dân Củ Chi, giỏi nghề mây tre lá. Anh chỉ huy trung đội xây cất lán trại, đan tranh lợp nhà, chẻ tre làm giường .v.v. Nhờ vậy chúng tôi tuy ở trong rừng sâu nhưng cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, tươm tất. Tôi lui về vị trí trung đội phó của mình với tâm niệm cấp phó lúc có, lúc không. Đây là lúc tôi thảnh thơi, tối tối nằm nghe mưa rơi tí tách trên mái lá, thỉnh thoảng đốt đèn dầu, nằm giường tre viết thư gởi về nhà hoặc ghi hồi ký chơi.

Tôi đã từng dẩn trung đội vào rừng tuần tra khu rừng rậm phía trước đội hình (tất nhiên là có trinh sát dẩn đường, vì rừng rậm khó đi, không có la bàn thì lạc mất đường về). Phía trước đội hình đóng quân của chúng tôi là rừng tre dày đặc, chen chân không lọt.

Với cái địa hình này không thể nào dàn quân hàng ngang tấn công được, giỏi lắm là anh chỉ len lách được trong rừng tre theo hàng dọc mà thôi... Vậy là êm, với cái rừng này lính Pôn Pốt khó mà làm gì được chúng tôi.

Phía trước chúng tôi là rừng tre, còn chổ chúng tôi đóng lại là rừng tạp, tức là có cây dầu, cây bằng lăng, cây tre, cây mây, dây leo... đủ loại.

Lần đầu tiên tôi bứt cái dây mây, tôi nắm nó mà kéo, cái võ lụa gai tua tủa của nó bị vướng vít trong cành lá nên tuột ra, để lộ cái dây mây trắng ngà sạch đẹp. Khi tôi bứt dây, cả rừng cành lá phía trên bị nó lôi theo mà chuyển động.

Người ta nói bứt dây động rừng là vì vậy.

Dây mây già tới tuổi rất dẻo dai, đu không đứt, bứt không rời, chỉ có cách kéo dây xuống tới chừng nào căng quá thì thôi, thì kê cái dây đó vô thân cây, lấy dao đi rừng phập một cái là xong.
 
  • Like
Reactions: rangnhon