Giữa mùa mưa năm 1982, chúng tôi có một đợt bổ sung quân lớn. Đợt bổ sung quân này lấy lính từ miền Tây, quân khu 9. Đất miền Tây dễ sống nên lính miền Tây hay trốn... Lính miền Tây trốn rất dữ, qua Campuchia 10 em, cuối cùng chắc chỉ còn lại 7 em, còn 3 em chém vè về nước đủ cách: trốn trên đường chuyển quân, trên đường hành quân ra mặt trận, thậm chí vào tới tuyến đầu rồi... vẫn trốn.
Tiểu đoàn tôi phân công người đi đón tân binh tới cấp trung đội, tức là mỗi trung đội có một anh tham gia đi nhận quân. Chúng tôi đi Sisophon đón quân cẩn thận như vậy, đưa vào tới tận Tà-cuông Krao an toàn rồi, cho các em ngũ đêm tại đó, vậy mà sáng hôm sau lại có thêm một số em tự động rời bỏ chúng tôi... không một lời từ giả.
Tôi có một chuyện ở Tà-cuông xin nói luôn ra đây cho đủ bộ: Chúng tôi đi nhận quân, cấp trên trực tiếp của chúng tôi thì có anh Nông Tiến Dũng (trung đội trưởng lúc tôi mới vào đơn vị, nay anh quyền đại đội trưởng). Đêm đó tại Tà-cuông, anh rủ tôi nằm võng nói chuyện, tôi căng võng nằm bên cạnh anh... anh không dông dài gì cả, anh kêu tôi ở lại để chi bộ kết nạp Đảng cho tôi. Tôi thành thật trả lời anh là tôi cám ơn anh, nhưng thôi, tôi muốn ra quân, tôi muốn trở về Việt Nam.
Là người dân tộc chân chất, anh không nói gì thêm và tôi cũng vậy! Về Việt Nam là niềm mong muốn tột cùng cháy bỏng trong tâm khảm mỗi người lính chúng tôi, thực lòng anh cũng như tôi, ai cũng muốn về Việt Nam cả! Anh thông cảm với tôi và không muốn lôi kéo tôi chi thêm vướng bận ở cái đất nước... không phải của mình này.
Tôi lúc đó thực sự muốn trở về Việt Nam, luật 3 năm nghĩa vụ quân sự đã có, tôi đã dư thời gian phục vụ trong quân đội, còn chần chừ gì nửa mà không về? Tôi thực sự thương yêu và tự hào với màu áo lính, tôi thích làm sĩ quan quân đội vì bản chất con người tôi luôn luôn muốn ngoi lên phía trước, không bao giờ muốn dừng chân tại chổ. Nhưng tôi không thể đánh đổi tất cả những cái đó bằng mạng sống của mình, nhất là tôi đang nhớ nhà, kinh khủng... vì các đồng đội nhập ngũ 77, 78 đã và đang lần lượt phục viên trở về địa phương.
Tôi đã ba lần bị địch bắn vào người mà không chết, lần thứ nhất bị trúng một trái cối, lần thứ hai trên đường đi lấy nước gần Phnom Melai bị Pôn Pốt bắn cho một loạt đạn, lần thứ ba bị một viên đạn bắn tỉa tại Công-xi-lốp. Bất quá tam, đối diện tử thần ba lần như vậy là đủ rồi, xin giã từ vũ khí...
Thực ra nguyên nhân sâu xa khiến tôi giã từ vũ khí không phải vì ba lần chết hụt đó! Mà thú thật, cái tôi sợ nhất là mìn! Nếu đánh trận tay đôi, thời điểm đó đám tàn quân Pôn Pốt không làm chúng tôi sợ, nhưng còn mìn thì miễn bàn, nó giết người từ tốn, nhưng tốn hoài, chịu sao cho thấu? Nhớ tới cái trận tôi chỉ huy trung đội đi đầu hàng quân, tận mắt chứng kiến cảnh trung đội trinh sát ba lần tiến lên, ba lần đạp mìn, hy sinh đến anh trinh sát cuối cùng thì quá đáng lắm rồi! Tôi không muốn hy sinh như vậy!
Sau này ra quân, đi làm kiếm tiền vất vả, tôi vẫn thường nhớ tới thời kỳ đi lính tuy gian khổ nhưng oai hùng của mình, tung hoành ngang dọc khắp chiến trường, đánh đuổi Pôn Pốt chạy cùng trời cuối đất, được chỉ huy và đồng đội tin cậy, được nhân dân nước bạn thương yêu và đùm bọc...
Nếu địa điểm tôi và anh Dũng nằm võng tâm sự trong cái đêm nhận quân đó xãy ra tại Việt Nam thì chắc chắn tôi sẽ ở lại để vào Đảng và tất nhiên sẽ được thăng chức, thăng quân hàm sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội theo như đề bạt của đồng chí chỉ huy trực tiếp của mình, người anh em - đồng chí - đồng đội của tôi từ lúc tôi chân ướt, chân ráo bước chân vào đơn vị.
Lính miền Tây về bổ sung cho đơn vị tuy hao hụt, dù dọt dọc đường vậy chứ vẫn còn đông. Trung đội tôi nhận được tới 6, 7 em. Nâng quân số trung đội lên trên 15 người. Người đông thế mạnh, chúng tôi đóng thêm bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng, hàng ngày phân công anh em vào rừng đốn măng mang về cải thiện. Lính miền Tây sành việc ruộng đồng, đi rừng đốn măng mỗi ngày mấy ba lô, luộc ăn không hết, chúng tôi ngâm chua để dành...
Những người lính mới bổ sung đợt này do đã được tự động sàng lọc, anh nào không chấp nhận gian nan nguy hiểm thì đã trốn chạy, anh nào xác định tốt tư tưởng ở lại quân đội thì nhiệt tình công tác, hòa đồng mau, ý thức tự giác tốt. Làm chỉ huy cũng... khỏe, không phải hầm hừ kiểm điểm lẩn nhau.
Cuối tháng 9/1982 tôi được phát lý lịch kê khai để làm thủ tục ra quân, sau đó tôi được ở lại Tà-cuông Krao chờ ngày về. Anh em tiểu đoàn 3 ở Năm-sắp lại được điều động lên phía trước tham gia với công binh đi ngăn suối đắp đập chứa nước dự trữ mùa khô.
Anh em hành quân lên phía trên, mùa khô thiếu nước, tôi để cả cái bi đông nước nhiều kỷ niệm lại cho anh em, không còn lại gì ngoài chăn màn trong ba lô và hai bộ đồ dính da, võng cũng đã bỏ vì mục rách.
Tôi tay không qua Campuchia và cũng tay không trở về Việt Nam, đó là hình ảnh chung nhất của những người lính tình nguyện Việt Nam trở về sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Tiểu đoàn tôi phân công người đi đón tân binh tới cấp trung đội, tức là mỗi trung đội có một anh tham gia đi nhận quân. Chúng tôi đi Sisophon đón quân cẩn thận như vậy, đưa vào tới tận Tà-cuông Krao an toàn rồi, cho các em ngũ đêm tại đó, vậy mà sáng hôm sau lại có thêm một số em tự động rời bỏ chúng tôi... không một lời từ giả.
Tôi có một chuyện ở Tà-cuông xin nói luôn ra đây cho đủ bộ: Chúng tôi đi nhận quân, cấp trên trực tiếp của chúng tôi thì có anh Nông Tiến Dũng (trung đội trưởng lúc tôi mới vào đơn vị, nay anh quyền đại đội trưởng). Đêm đó tại Tà-cuông, anh rủ tôi nằm võng nói chuyện, tôi căng võng nằm bên cạnh anh... anh không dông dài gì cả, anh kêu tôi ở lại để chi bộ kết nạp Đảng cho tôi. Tôi thành thật trả lời anh là tôi cám ơn anh, nhưng thôi, tôi muốn ra quân, tôi muốn trở về Việt Nam.
Là người dân tộc chân chất, anh không nói gì thêm và tôi cũng vậy! Về Việt Nam là niềm mong muốn tột cùng cháy bỏng trong tâm khảm mỗi người lính chúng tôi, thực lòng anh cũng như tôi, ai cũng muốn về Việt Nam cả! Anh thông cảm với tôi và không muốn lôi kéo tôi chi thêm vướng bận ở cái đất nước... không phải của mình này.
Tôi lúc đó thực sự muốn trở về Việt Nam, luật 3 năm nghĩa vụ quân sự đã có, tôi đã dư thời gian phục vụ trong quân đội, còn chần chừ gì nửa mà không về? Tôi thực sự thương yêu và tự hào với màu áo lính, tôi thích làm sĩ quan quân đội vì bản chất con người tôi luôn luôn muốn ngoi lên phía trước, không bao giờ muốn dừng chân tại chổ. Nhưng tôi không thể đánh đổi tất cả những cái đó bằng mạng sống của mình, nhất là tôi đang nhớ nhà, kinh khủng... vì các đồng đội nhập ngũ 77, 78 đã và đang lần lượt phục viên trở về địa phương.
Tôi đã ba lần bị địch bắn vào người mà không chết, lần thứ nhất bị trúng một trái cối, lần thứ hai trên đường đi lấy nước gần Phnom Melai bị Pôn Pốt bắn cho một loạt đạn, lần thứ ba bị một viên đạn bắn tỉa tại Công-xi-lốp. Bất quá tam, đối diện tử thần ba lần như vậy là đủ rồi, xin giã từ vũ khí...
Thực ra nguyên nhân sâu xa khiến tôi giã từ vũ khí không phải vì ba lần chết hụt đó! Mà thú thật, cái tôi sợ nhất là mìn! Nếu đánh trận tay đôi, thời điểm đó đám tàn quân Pôn Pốt không làm chúng tôi sợ, nhưng còn mìn thì miễn bàn, nó giết người từ tốn, nhưng tốn hoài, chịu sao cho thấu? Nhớ tới cái trận tôi chỉ huy trung đội đi đầu hàng quân, tận mắt chứng kiến cảnh trung đội trinh sát ba lần tiến lên, ba lần đạp mìn, hy sinh đến anh trinh sát cuối cùng thì quá đáng lắm rồi! Tôi không muốn hy sinh như vậy!
Sau này ra quân, đi làm kiếm tiền vất vả, tôi vẫn thường nhớ tới thời kỳ đi lính tuy gian khổ nhưng oai hùng của mình, tung hoành ngang dọc khắp chiến trường, đánh đuổi Pôn Pốt chạy cùng trời cuối đất, được chỉ huy và đồng đội tin cậy, được nhân dân nước bạn thương yêu và đùm bọc...
Nếu địa điểm tôi và anh Dũng nằm võng tâm sự trong cái đêm nhận quân đó xãy ra tại Việt Nam thì chắc chắn tôi sẽ ở lại để vào Đảng và tất nhiên sẽ được thăng chức, thăng quân hàm sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội theo như đề bạt của đồng chí chỉ huy trực tiếp của mình, người anh em - đồng chí - đồng đội của tôi từ lúc tôi chân ướt, chân ráo bước chân vào đơn vị.
Lính miền Tây về bổ sung cho đơn vị tuy hao hụt, dù dọt dọc đường vậy chứ vẫn còn đông. Trung đội tôi nhận được tới 6, 7 em. Nâng quân số trung đội lên trên 15 người. Người đông thế mạnh, chúng tôi đóng thêm bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng, hàng ngày phân công anh em vào rừng đốn măng mang về cải thiện. Lính miền Tây sành việc ruộng đồng, đi rừng đốn măng mỗi ngày mấy ba lô, luộc ăn không hết, chúng tôi ngâm chua để dành...
Những người lính mới bổ sung đợt này do đã được tự động sàng lọc, anh nào không chấp nhận gian nan nguy hiểm thì đã trốn chạy, anh nào xác định tốt tư tưởng ở lại quân đội thì nhiệt tình công tác, hòa đồng mau, ý thức tự giác tốt. Làm chỉ huy cũng... khỏe, không phải hầm hừ kiểm điểm lẩn nhau.
Cuối tháng 9/1982 tôi được phát lý lịch kê khai để làm thủ tục ra quân, sau đó tôi được ở lại Tà-cuông Krao chờ ngày về. Anh em tiểu đoàn 3 ở Năm-sắp lại được điều động lên phía trước tham gia với công binh đi ngăn suối đắp đập chứa nước dự trữ mùa khô.
Anh em hành quân lên phía trên, mùa khô thiếu nước, tôi để cả cái bi đông nước nhiều kỷ niệm lại cho anh em, không còn lại gì ngoài chăn màn trong ba lô và hai bộ đồ dính da, võng cũng đã bỏ vì mục rách.
Tôi tay không qua Campuchia và cũng tay không trở về Việt Nam, đó là hình ảnh chung nhất của những người lính tình nguyện Việt Nam trở về sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.