Vụ Trân Châu Cảng theo em hiểu là 1 đòn của Mỹ để có cớ vào cuộc chiến . Mỹ sẵng sàng hi sinh cả 1 hạm đội (thật ra là các loại tàu thế hệ cũ rồi), và hoàn toàn không có 1 chiếc HKMH nào của Mỹ bị đánh chìm hay bị thương trong vụ Trân Châu Cảng cả => Mỹ có thể đã biết kế hoạch tấn công của Nhật từ trước và "thả cho Nhật đánh", còn con át chủ bài là HKMH thì Mỹ đã "di tản" sang nơi khác. Sau trận Trân Châu Cảng, ông Yamamoto sau khi nghe báo cáo là bao nhiêu tàu bị đánh chìm, bị thương nhưng không có 1 chiếc HKMH nào hết thì ông đã biết mình đã "thua" khi không đánh được 1 đòn trí mạng đầu tiên vào lực lượng hải quân Mỹ đó là những HKMH.
Ý kiến của bác Chit cũng đáng để suy nghĩ. các bác khác nghĩ sao? Biết đâu chẳng phải là 1 Vịnh BB của Mỹ?
Yamamoto đến trường Harvard hcọ trong 2 năm, ông đi đến nhiều nơi để học tập và tìm hiểu về Hoa Kỳ. Mục tiêu chính của ông vẫn là hải quân. Ông cũng học về kỹ thuật hàng không trong thời gian này.
Năm 1923 ông được đeo hàm đại tá lúc 39 tuổi, chỉ huy 1 trường huấn luyện phi công. Thời kỳ này kỹ nghệ hàng không Nhật rất kém, các hãng chế tạo máy bay vẫn còn thô sơ. Những tai nạn xảy ra liên tục đến nỗi phi công là 1 nghề không ai muốn theo học.
Yamammoto đã tìm đến các hãng sản xuất đề đề xuất những thử nghiệm, từ đó hình thành những loại máy bay xuất sắc sau này.
Sau 18 tháng chỉ huy trường đào tạo phi công, ông qua Hoa Thịnh Đốn làm tùy viên quân sự cho sứ quán Nhật.
Trong thời gian sau thế chiến thứ 1, nhiều quốc gia lo ngại về 1 cuộc chạy đua vũ trang mới, đe dọa thế giới một lần nửa.
Để giải quyết vấn đề này trên lĩnh vực hải quân, năm 1922 Anh, Hoa Kỳ, Nhật, Pháp , Ý đã tham gia ký hiệp ước ngũ cường tại hội nghị Hoa Thịnh Đốn. Hiệp ước thông qua 1 quy định quan tọrng:
Các nước theo thứ tự trên sẽ tuân theo quy tắc: 5:5:3:1.75:1.75. Có nghĩa là các nước trên khi phát triển quy mô hải quân, kích cỡ tàu chiến, số lượng...phải theo tỷ lệ như trên.
Đây là 1 thiệt thòi cho Nhật Bản vì torng khi Anh, Hoa Kỳ được 5 thì họ chỉ có 3. Pháp, Ý còn tệ hơn nửa, chỉ có 1.75. Điều đó làm cho 2 nước này không tham gia vào 1 hiệp ước mở rộng vào năm 1927.
Năm 1934 Nhật muốn bỏ hiệp ước này, và Yamamoto được chọn làm trưởng đại diện phái đoàn Nhật qu a Luân Đôn thảo luận.
Lý do Yamamoto được chọn vì ông am hiểu phương tây, có nhiều bạn bè trong thời gian ông ở Hoa Kỳ.
Hội nghị kéo dài 2 tháng nhưng cuối cùng bế tắc, và quy định 5:5:3 bị hủy bỏ.
Người tây phương chỉ trích phái đoàn Nhật làm hội nghị phá sản, trong khi nước Nhật lại hoan nghênh sự phá sản này.
Vì nước Nhật thời kỳ này được 1 chính phủ thiên về quân phiệt lãnh đạo, họ muốn chuẩn bị tiềm lực chiến tranh.
cá nhân Yamamoto cũng rất may mắn trong sự kiện này, vì những đảng phái Nhật dự tính sẽ ám sát ông nếu ông thõa thuận với phương tây.
Sau khi phá bỏ hiệp ước bất lợi, Nhật bản bắt đầu xây dựng những đội tàu lớn, trong đó Yamato và Musashi là tiêu biểu, cũng al2 lớn nhất thế giới lúc đó.
Người Nhật đã che dấu việc đóng tàu rất kỹ, không ai biết họ đang chuẩn bị lực lượng hải quân quy mô.
Gia đoạn này Yamammoto đấu tranh quyết liệt cho việc đóng tàu sân bay. Bản thân ông biết các chiến hạm to lớn như Yamato không còn ưu thế quyết định nửa. Chính không lực hải quân mới là con bài chiến lược cho giai đọan này.
Tư tưởng của ông hầu như không ai chấp nhận, tuy nhiên cuối cùng ông cũng thành công khi Nhật có 10 tàu sân bay loại nhỏ.
Năm 1936 tại Nhật xảy ra 1 cuộc đảo chính, dẫn tới 1 chính quyền quân sự điều hành chính phủ. Năm 1937 Nhật tuyên chiến với Trung Hoa. Chính thức bày tỏ tham vọng bá chủ vùng Á châu.
Tuy nhiên bản thân Yamamoto lại là người chống lại chính phủ quân sự quyết liệt nhất. Ông cũng chống lại việc tuyên chiến với Trung Hoa. Bản thân ông biết rõ nếu chiến tranh mở rộng thì Nhật phải đánh chiếm nhiều nước khác nhằm thu nguồn tài nguyên phục vụ chiến tranh. Nước Nhật hầu như không có tài nguyên gì đáng kể. Khi Hoa Kỳ cấm xuất dầu qua Nhật thì họ mới thấy tài nguyên bên ngoài quan trọng thế nào.
Tuy nhiên các tướng lãnh đạo quân Nhật tin rằng chỉ cần chiếm hết vùng Đông Nam Á thì họ sẽ có đủ tài nguyên. Một điều họ quên mất đó là đánh chiếm thì dễ, cầm giữ mới khó. Một chiến trường quá rộng lớn là quá sức của quân đội Nhật lúc này. Chỉ 1 mình Yamamoto là nhận ra điểm đó, và ông chống lại việc gây chiến.
Tuy nhiên một mình Yamamoto không thể chống lại tất cả ban lãnh đạo quân đội Nhật. Nhật Hoàng là người ủng hộ hòa bình nhưng dần dần ông cũng bị thuyết phục khi tất cả phụ tá đều nghiêng về kế hoạch gây chiến, chấp nhận lời đề nghị từ phát xít Đức, Ý.
Tổng thống Roosevelt lúc này ra lệnh tập trung quân vào Trân Châu cảng thay vì bờ biển phía tây Hoa Kỳ. Nhật Bản xem đó là hành động đe dọa họ, và Yamamoto cũng biết ông không thể thuyết phục nội các Nhật từ bỏ chiến tranh.
Nếu không tránh được chiến tranh thì phải chuẩn bị cho chiến tranh.
Yamamoto được bổ nhiệm vào chức tư lệnh liên hạm đội Nhật Bản, đó là chức vụ cao tột đỉnh. Nhưng cũng chính chức vụ này làm ông mất ngủ, do trình độ phi công hải quân quá kém. Những buổi thực tập làm ông chán nản, tuy nhiên ông quyết tâm đào tạo, cải tổ để rồi đến trận Trân Châu Cảng, phi công Nhật thuộc hàng thiện chiến nhất thế giới.
Mặc dù đã làm hết sức, trình độ hải quân, không quân tăng cao. Nhưng bản thân Yamamoto chưa bao giờ tự tin vào hải quân Nhật Bản.
Khi được thủ tướng Nhật hỏi ý kiến về việc tuyên chiến với Mỹ. Ông trả lời rằng đó sẽ là 1 cuộc chiến mà phần bại trận nằm về phía Nhật.
Lời phát biểu đó làm các tư lệnh lục quân tức giận, vì họ đang tung hoành khắp Trung Hoa, và vùng Á Châu. Yamamoto cho biết nếu phải tuyên chiến với Hoa Kỳ, ông chỉ có thể giành thắng lợi từ nửa tới một năm. Rồi sau đó ông không dám chắc chắn.
Lời tiên đoán của ông rất chính xác sau này, khi hải quân Nhật tung hoành ngang dọc trong hơn một năm rưỡi.
Việc Yamamoto không tự tin vào khả năng lâu dài của hải quân không phải vì thực lực của lính Nhật, mà chính vì tài nguyên chiến tranh, Nhật không có gì cả. Vì vậy 1 cuộc chiến kéo dài sẽ làm Nhật kiệt quệ. Ông đã nhìn ra kết cục của cuộc chiến.
Năm 1923 ông được đeo hàm đại tá lúc 39 tuổi, chỉ huy 1 trường huấn luyện phi công. Thời kỳ này kỹ nghệ hàng không Nhật rất kém, các hãng chế tạo máy bay vẫn còn thô sơ. Những tai nạn xảy ra liên tục đến nỗi phi công là 1 nghề không ai muốn theo học.
Yamammoto đã tìm đến các hãng sản xuất đề đề xuất những thử nghiệm, từ đó hình thành những loại máy bay xuất sắc sau này.
Sau 18 tháng chỉ huy trường đào tạo phi công, ông qua Hoa Thịnh Đốn làm tùy viên quân sự cho sứ quán Nhật.
Trong thời gian sau thế chiến thứ 1, nhiều quốc gia lo ngại về 1 cuộc chạy đua vũ trang mới, đe dọa thế giới một lần nửa.
Để giải quyết vấn đề này trên lĩnh vực hải quân, năm 1922 Anh, Hoa Kỳ, Nhật, Pháp , Ý đã tham gia ký hiệp ước ngũ cường tại hội nghị Hoa Thịnh Đốn. Hiệp ước thông qua 1 quy định quan tọrng:
Các nước theo thứ tự trên sẽ tuân theo quy tắc: 5:5:3:1.75:1.75. Có nghĩa là các nước trên khi phát triển quy mô hải quân, kích cỡ tàu chiến, số lượng...phải theo tỷ lệ như trên.
Đây là 1 thiệt thòi cho Nhật Bản vì torng khi Anh, Hoa Kỳ được 5 thì họ chỉ có 3. Pháp, Ý còn tệ hơn nửa, chỉ có 1.75. Điều đó làm cho 2 nước này không tham gia vào 1 hiệp ước mở rộng vào năm 1927.
Năm 1934 Nhật muốn bỏ hiệp ước này, và Yamamoto được chọn làm trưởng đại diện phái đoàn Nhật qu a Luân Đôn thảo luận.
Lý do Yamamoto được chọn vì ông am hiểu phương tây, có nhiều bạn bè trong thời gian ông ở Hoa Kỳ.
Hội nghị kéo dài 2 tháng nhưng cuối cùng bế tắc, và quy định 5:5:3 bị hủy bỏ.
Người tây phương chỉ trích phái đoàn Nhật làm hội nghị phá sản, trong khi nước Nhật lại hoan nghênh sự phá sản này.
Vì nước Nhật thời kỳ này được 1 chính phủ thiên về quân phiệt lãnh đạo, họ muốn chuẩn bị tiềm lực chiến tranh.
cá nhân Yamamoto cũng rất may mắn trong sự kiện này, vì những đảng phái Nhật dự tính sẽ ám sát ông nếu ông thõa thuận với phương tây.
Sau khi phá bỏ hiệp ước bất lợi, Nhật bản bắt đầu xây dựng những đội tàu lớn, trong đó Yamato và Musashi là tiêu biểu, cũng al2 lớn nhất thế giới lúc đó.
Người Nhật đã che dấu việc đóng tàu rất kỹ, không ai biết họ đang chuẩn bị lực lượng hải quân quy mô.
Gia đoạn này Yamammoto đấu tranh quyết liệt cho việc đóng tàu sân bay. Bản thân ông biết các chiến hạm to lớn như Yamato không còn ưu thế quyết định nửa. Chính không lực hải quân mới là con bài chiến lược cho giai đọan này.
Tư tưởng của ông hầu như không ai chấp nhận, tuy nhiên cuối cùng ông cũng thành công khi Nhật có 10 tàu sân bay loại nhỏ.
Năm 1936 tại Nhật xảy ra 1 cuộc đảo chính, dẫn tới 1 chính quyền quân sự điều hành chính phủ. Năm 1937 Nhật tuyên chiến với Trung Hoa. Chính thức bày tỏ tham vọng bá chủ vùng Á châu.
Tuy nhiên bản thân Yamamoto lại là người chống lại chính phủ quân sự quyết liệt nhất. Ông cũng chống lại việc tuyên chiến với Trung Hoa. Bản thân ông biết rõ nếu chiến tranh mở rộng thì Nhật phải đánh chiếm nhiều nước khác nhằm thu nguồn tài nguyên phục vụ chiến tranh. Nước Nhật hầu như không có tài nguyên gì đáng kể. Khi Hoa Kỳ cấm xuất dầu qua Nhật thì họ mới thấy tài nguyên bên ngoài quan trọng thế nào.
Tuy nhiên các tướng lãnh đạo quân Nhật tin rằng chỉ cần chiếm hết vùng Đông Nam Á thì họ sẽ có đủ tài nguyên. Một điều họ quên mất đó là đánh chiếm thì dễ, cầm giữ mới khó. Một chiến trường quá rộng lớn là quá sức của quân đội Nhật lúc này. Chỉ 1 mình Yamamoto là nhận ra điểm đó, và ông chống lại việc gây chiến.
Tuy nhiên một mình Yamamoto không thể chống lại tất cả ban lãnh đạo quân đội Nhật. Nhật Hoàng là người ủng hộ hòa bình nhưng dần dần ông cũng bị thuyết phục khi tất cả phụ tá đều nghiêng về kế hoạch gây chiến, chấp nhận lời đề nghị từ phát xít Đức, Ý.
Tổng thống Roosevelt lúc này ra lệnh tập trung quân vào Trân Châu cảng thay vì bờ biển phía tây Hoa Kỳ. Nhật Bản xem đó là hành động đe dọa họ, và Yamamoto cũng biết ông không thể thuyết phục nội các Nhật từ bỏ chiến tranh.
Nếu không tránh được chiến tranh thì phải chuẩn bị cho chiến tranh.
Yamamoto được bổ nhiệm vào chức tư lệnh liên hạm đội Nhật Bản, đó là chức vụ cao tột đỉnh. Nhưng cũng chính chức vụ này làm ông mất ngủ, do trình độ phi công hải quân quá kém. Những buổi thực tập làm ông chán nản, tuy nhiên ông quyết tâm đào tạo, cải tổ để rồi đến trận Trân Châu Cảng, phi công Nhật thuộc hàng thiện chiến nhất thế giới.
Mặc dù đã làm hết sức, trình độ hải quân, không quân tăng cao. Nhưng bản thân Yamamoto chưa bao giờ tự tin vào hải quân Nhật Bản.
Khi được thủ tướng Nhật hỏi ý kiến về việc tuyên chiến với Mỹ. Ông trả lời rằng đó sẽ là 1 cuộc chiến mà phần bại trận nằm về phía Nhật.
Lời phát biểu đó làm các tư lệnh lục quân tức giận, vì họ đang tung hoành khắp Trung Hoa, và vùng Á Châu. Yamamoto cho biết nếu phải tuyên chiến với Hoa Kỳ, ông chỉ có thể giành thắng lợi từ nửa tới một năm. Rồi sau đó ông không dám chắc chắn.
Lời tiên đoán của ông rất chính xác sau này, khi hải quân Nhật tung hoành ngang dọc trong hơn một năm rưỡi.
Việc Yamamoto không tự tin vào khả năng lâu dài của hải quân không phải vì thực lực của lính Nhật, mà chính vì tài nguyên chiến tranh, Nhật không có gì cả. Vì vậy 1 cuộc chiến kéo dài sẽ làm Nhật kiệt quệ. Ông đã nhìn ra kết cục của cuộc chiến.
Trận chiến Trân Châu cảng là một kế hoạch hết sức bí mật. Lúc đầu chỉ có ba người biết, Yamamoto, đô đốc Fukudome tham mưu của Yamamoto và đô đốc Onishi, người soạn thảo chi tiết cuộc tấn công. Onishi xin phép tham khảo ý kiến trung tá Genda, một phi công nhiều kinh nghiệm đã từng tham chiến tại Trung Hoa và làm tùy viên tại Luân Ðôn. Lúc đó Nhật Bản có 6 mẫu hạm, là Akagi, Kaga, Hiryu, Soryu, Shokaku và Zuikaku.
Lúc đầu Yamamoto dự định dùng các mẫu hạm chở phi cơ tới cách Hawaii trên 600 miles thì dừng lại, từ đó các phi công sẽ cất cánh, oanh kích mục tiêu tại Trân châu cảng. Ðây là một phi vụ xa 1200 miles. Trên đường về các phi công sẽ nhảy dù xuống biển và sẽ được tàu ngầm và khu trục hạm cứu vớt.
Lý do của việc phải tấn công từ xa 600 miles vì Yamamoto lo sợ phi cơ Hoa Kỳ sẽ tấn công hạm đội Nhật nếu tiềh vào tầm hoạt động của chúng.
Tuy nhiên ý kiến này bị đô đốc Onishi phản đối. Nó quá nguy hiểm cho phi công vì họ có thể chết đuối. và việc phải hy sinh nhiều máy bay. ý kiến của ông al2 hạm đội Nhật tiến vào Hawaii khoảng 200 miles, và phi cơ Nhật sẽ đủ dầu để bay về.
Kế hoạch tấn công này cũng có nhiều khó khăn. Thứ nhất là cảng biển Hawaii rất cạn, không dùng ngư lôi thông thường để đánh được, vì nó có thể chìm xuống đáy.
Thứ hai là làm sao tiếp cận gần 200 miles mà không bị phát hiện? Không quân Hoa Kỳ trên đảo rất mạnh, họ còn có ít nhất 4 tàu sân bay. Hàng chục tàu tuần dương, khu trục lớn nhỏ.
Nếu bị Hoa Kỳ phát hiện thì quân Nhật không có hy vọng đánh bại được căn cứ Hawaii. Ngay cả tự phòng vệ để tránh tổn thất còn khó khăn.
Các chỉ huy Nhật dự báo khả năng thành công của kế hoạch chỉ khỏang 40%.
Kế hoạch nhiều rủi ro này bị cả lục quân lẫn bộ tham mưu hải quân chống đối. Tuy nhiên theo lý lẽ mà Yamamoto đưa ra: nếu không gây cho Hoa Kỳ 1 cú sốc cực mạnh thì làm sao quân Nhật bảo đảm viếc tiến chiếm toàn ĐNÁ.
(Sau này người ta nhìn nhận Yamamoto đã tính toán sai lầm, Hoa Kỳ chưa bao giờ muốn dùng Hawaii để chặn đường tiến của quân Nhật. Họ chỉ muốn Nhật không mở rộng lãnh hải biển ra quá Đông Thái Bình Dương. Hoa Kỳ càng chưa bao giờ tính toán việc đánh trực diện vào nước Nhật như Yamammoto lo sợ.
Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng chiến thắng tại Châu Âu.)
Các lý lẽ mà bộ tham mưu hải quân phản đối là:
1. Sự thành công hoàn toàn tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ. Ðây là một chiến dịch lớn xử dụng tới 60 chiến hạm. Các chiến hạm này phải lên đường một tháng trước cuộc tấn công và rất dễ bị khám phá. Các hệ thống tình báo của Anh, Mỹ và Nga có tầm hoạt động rất rộng rãi. Bộ tham mưu không tin kế hoạch này có thể bảo mật được.
2. Bộ tham mưu không đồng ý Mỹ sẽ tấn công thẳng vào Nhật ngay, nếu chiến tranh xảy ra. Bộ tham mưu ước tính Mỹ sẽ lập căn cứ tiền phong tại quần đảo Marshalls trước, rồi sẽ chiếm dần từng quần đảo tới gần Nhật Bản hơn. Như vậy cuộc tấn công vào Trân châu cảng không cần thiết đến nỗi phải thực hiện trong những điều kiện nguy hiểm. Nếu không mở cuộc tấn công này, Nhật Bản sẽ có thời giờ tập trung tất cả sức mạnh vào một trận đánh quyết định mà từ lâu hải quân vẫn được huấn luyện sẵn sàng. Ðiều khôn ngoan nhất là chỉ nên giao chiến tại những vùng biển quen thuộc.
3. Hầu hết các chiến hạm tham dự cuộc tấn công Hawaii đều phải tiếp tế nhiên liệu giữa đường, nhất là các diệt ngư lôi hạm phải tiếp tế tới hai lần. Theo thống kê thời tiết thì mỗi tháng chỉ có 7 ngày là có biển lặng sóng êm tại bắc Thái Bình Dương để có thể tiếp tế nhiên liệu dễ dàng. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu không thực hiện được, chiến dịch tấn công sẽ thất bại và như thế các chiến hạm trở thành vô dụng mà đáng lẽ được xử dụng hữu hiệu hơn trong các chiến dịch khác. Sự bế tắc này sẽ đưa tới bế tắc khác. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu giữa biển gặp khó khăn thì phải dùng tới radio, và do đó sẽ không giấu được bí mật của cuộc hành quân bí mật nữa.
4. Theo tin tình báo của ta thì hàng ngày phi cơ Mỹ bay tuần thám xa Trân châu cảng tới 600miles. Ðiều này có nghĩa là lực lượng Nhật sẽ bị phi cơ Mỹ khám phá. Vì các mẫu hạm phải tiến tới cách mục tiêu 200 miles, và do đó rất dễ trở thành mục tiêu cho các phi cơ Mỹ phản công.
5. Bất cứ một tin tức nào về kế hoạch tấn công này bị tiết lộ cũng sẽ làm tan vỡ cuộc thương thuyết giữa Mỹ và Nhật đang diễn ra tại Washington.
Yamamoto rất tức giận vì bị phản đối. Bản thân ông vẫn nghĩ nếu căn cứ Thái Bình Dương của Mỹ chưa bị hạ thì khả năng bị đánh thọc sườn là rất lớn. Ông quyết định từ chức nếu kế hoạch bị bác bỏ. Trước sức ép của ông, cũng như uy tín ông quá cao. kế hoạch được thông qua.
Lúc đầu Yamamoto dự định dùng các mẫu hạm chở phi cơ tới cách Hawaii trên 600 miles thì dừng lại, từ đó các phi công sẽ cất cánh, oanh kích mục tiêu tại Trân châu cảng. Ðây là một phi vụ xa 1200 miles. Trên đường về các phi công sẽ nhảy dù xuống biển và sẽ được tàu ngầm và khu trục hạm cứu vớt.
Lý do của việc phải tấn công từ xa 600 miles vì Yamamoto lo sợ phi cơ Hoa Kỳ sẽ tấn công hạm đội Nhật nếu tiềh vào tầm hoạt động của chúng.
Tuy nhiên ý kiến này bị đô đốc Onishi phản đối. Nó quá nguy hiểm cho phi công vì họ có thể chết đuối. và việc phải hy sinh nhiều máy bay. ý kiến của ông al2 hạm đội Nhật tiến vào Hawaii khoảng 200 miles, và phi cơ Nhật sẽ đủ dầu để bay về.
Kế hoạch tấn công này cũng có nhiều khó khăn. Thứ nhất là cảng biển Hawaii rất cạn, không dùng ngư lôi thông thường để đánh được, vì nó có thể chìm xuống đáy.
Thứ hai là làm sao tiếp cận gần 200 miles mà không bị phát hiện? Không quân Hoa Kỳ trên đảo rất mạnh, họ còn có ít nhất 4 tàu sân bay. Hàng chục tàu tuần dương, khu trục lớn nhỏ.
Nếu bị Hoa Kỳ phát hiện thì quân Nhật không có hy vọng đánh bại được căn cứ Hawaii. Ngay cả tự phòng vệ để tránh tổn thất còn khó khăn.
Các chỉ huy Nhật dự báo khả năng thành công của kế hoạch chỉ khỏang 40%.
Kế hoạch nhiều rủi ro này bị cả lục quân lẫn bộ tham mưu hải quân chống đối. Tuy nhiên theo lý lẽ mà Yamamoto đưa ra: nếu không gây cho Hoa Kỳ 1 cú sốc cực mạnh thì làm sao quân Nhật bảo đảm viếc tiến chiếm toàn ĐNÁ.
(Sau này người ta nhìn nhận Yamamoto đã tính toán sai lầm, Hoa Kỳ chưa bao giờ muốn dùng Hawaii để chặn đường tiến của quân Nhật. Họ chỉ muốn Nhật không mở rộng lãnh hải biển ra quá Đông Thái Bình Dương. Hoa Kỳ càng chưa bao giờ tính toán việc đánh trực diện vào nước Nhật như Yamammoto lo sợ.
Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng chiến thắng tại Châu Âu.)
Các lý lẽ mà bộ tham mưu hải quân phản đối là:
1. Sự thành công hoàn toàn tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ. Ðây là một chiến dịch lớn xử dụng tới 60 chiến hạm. Các chiến hạm này phải lên đường một tháng trước cuộc tấn công và rất dễ bị khám phá. Các hệ thống tình báo của Anh, Mỹ và Nga có tầm hoạt động rất rộng rãi. Bộ tham mưu không tin kế hoạch này có thể bảo mật được.
2. Bộ tham mưu không đồng ý Mỹ sẽ tấn công thẳng vào Nhật ngay, nếu chiến tranh xảy ra. Bộ tham mưu ước tính Mỹ sẽ lập căn cứ tiền phong tại quần đảo Marshalls trước, rồi sẽ chiếm dần từng quần đảo tới gần Nhật Bản hơn. Như vậy cuộc tấn công vào Trân châu cảng không cần thiết đến nỗi phải thực hiện trong những điều kiện nguy hiểm. Nếu không mở cuộc tấn công này, Nhật Bản sẽ có thời giờ tập trung tất cả sức mạnh vào một trận đánh quyết định mà từ lâu hải quân vẫn được huấn luyện sẵn sàng. Ðiều khôn ngoan nhất là chỉ nên giao chiến tại những vùng biển quen thuộc.
3. Hầu hết các chiến hạm tham dự cuộc tấn công Hawaii đều phải tiếp tế nhiên liệu giữa đường, nhất là các diệt ngư lôi hạm phải tiếp tế tới hai lần. Theo thống kê thời tiết thì mỗi tháng chỉ có 7 ngày là có biển lặng sóng êm tại bắc Thái Bình Dương để có thể tiếp tế nhiên liệu dễ dàng. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu không thực hiện được, chiến dịch tấn công sẽ thất bại và như thế các chiến hạm trở thành vô dụng mà đáng lẽ được xử dụng hữu hiệu hơn trong các chiến dịch khác. Sự bế tắc này sẽ đưa tới bế tắc khác. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu giữa biển gặp khó khăn thì phải dùng tới radio, và do đó sẽ không giấu được bí mật của cuộc hành quân bí mật nữa.
4. Theo tin tình báo của ta thì hàng ngày phi cơ Mỹ bay tuần thám xa Trân châu cảng tới 600miles. Ðiều này có nghĩa là lực lượng Nhật sẽ bị phi cơ Mỹ khám phá. Vì các mẫu hạm phải tiến tới cách mục tiêu 200 miles, và do đó rất dễ trở thành mục tiêu cho các phi cơ Mỹ phản công.
5. Bất cứ một tin tức nào về kế hoạch tấn công này bị tiết lộ cũng sẽ làm tan vỡ cuộc thương thuyết giữa Mỹ và Nhật đang diễn ra tại Washington.
Yamamoto rất tức giận vì bị phản đối. Bản thân ông vẫn nghĩ nếu căn cứ Thái Bình Dương của Mỹ chưa bị hạ thì khả năng bị đánh thọc sườn là rất lớn. Ông quyết định từ chức nếu kế hoạch bị bác bỏ. Trước sức ép của ông, cũng như uy tín ông quá cao. kế hoạch được thông qua.
Yamamoto dự định sẽ tấn công hawaii vào lúc 8:30 sáng chủ nhật 7-12. Lý do chọn ngày chủ nhật vì theo tin tình báo, đó là ngày mà đô đốc Kimmel đem cả hạm đội vào quân cảng.
Sau khi ấn định ngày tấn công rồi, Yamamoto bổ nhiệm phó đô đốc Chuichi Nagumo vào chức Tư lệnh Lực lượng Xung kích trực tiếp tấn công Trân châu cảng. Nagumo có một lực lương bao gồm 23 chiến hạm trong đó có 6 mẫu hạm: Akagi, Kaga, Soryu, Hiryu, Zuikaku và Shokaku. Ðể bảo vệ sáu mẫu hạm mới tân trang này là hai tuần dương hạm lớn Hiei và Kirishima, hai tuần dương hạm nhỏ Tone và Chikuma, một tuần dương hạm nhẹ và chín diệt ngư lôi hạm mới.
Trên sáu mẫu hạm sẽ có 423 phi cơ đủ loại. Ba mươi phi cơ dùng để tuần tiễu làm thành một cái dù lớn bảo vệ bên trên các mẫu hạm. Bốn chục phi cơ làm lực lượng trừ bị. Còn lại 353 phi cơ có nhiệm vụ tấn công quân cảng Trân châu cảng. Trong số các phi cơ có nhiệm vụ tấn công thì có 100 phi cơ loại Kates, trang bị đạn 16-phân để oanh kích ở mức cao, 40 phi cơ Kates khác dùng để phóng thủy lôi, 131 oanh tạc cơ và 79 chiến đấu cơ Zero. Các tuần dương hạm và chiến hạm khác cũng có một số phi cơ nổi để thám thính và để trợ giúp các phi đội chiến đấu.
máy bay tiêm kích Zero rời tàu sân bay Akagi để đánh Trân Châu Cảng
Máy bay ném ngư lôi Kate
Máy bay ném bom bổ nhào Val
Tham gia trận này còn có 5 tàu ngầm hiện đại của Nhật, mỗi chiếc có thể chứa thêm 2 tàu ngầm nhỏ hơn. Có thể lẻn vào tận nơi đóng quân của tại cảng Hawaii. Nhiệm vụ của các tàu ngầm là bao vây, tiêu diệt những tàu trốn thoát cuộc không kích của Nhật.
Để bảo đảm cuộc tiến công đầy tính bất ngờ, nhiều kế haọch đánh lạc hướng được Yamamoto nghĩ ra. Ông cấm liên lạc radio giữa các tàu sân bay. Tăng các bản tin về kế hoạch đánh chiến ccá nơi khác. Cho thủy thủ lên bở dạo chơi tại Tokyo nhằm chứng minh phần lớn hạm đội tàu sân bay vẫn nằm trong căn cứ Nhật.
Ðến ngày 22-11 thì tất cả các mẫu hạm Nhật đã tới vịnh Tankan trong quần đảo Kuriles. Quần đảo Kuriles gồm có 16 hòn đảo nhỏ nằm tại một vùng hẻo lánh rất ít dân cư. Chính tại đây, Lực lượng Xung kích tấn công Trân châu cảng dừng lại, làm những sửa soạn cuối cùng trước khi tung ra cuộc tấn công bất ngờ. Dù vậy cuộc tấn công vẫn chưa có quyết định chính thức mà còn chờ vào thương thuyết giữa 2 phái đoàn tại Hoa Thịnh Đốn. Nếu 2 bên đạt được thõa thuận hòa bình thì cuộc tấn công sẽ bị hủy bỏ.
Theo luật Nhật Bản thì chỉ có Nhật Hoàng mới có quyền khai chiến, tuy nhiên lúc này Nhật Hoàng vẫn chưa quyết định, ông trông chờ 1 kế hoạch hòa bình giữa 2 bên. Nhưng nội các chiến tranh của Nhật không cho Nhật Hoàng giải pháp khác.
Sau khi ấn định ngày tấn công rồi, Yamamoto bổ nhiệm phó đô đốc Chuichi Nagumo vào chức Tư lệnh Lực lượng Xung kích trực tiếp tấn công Trân châu cảng. Nagumo có một lực lương bao gồm 23 chiến hạm trong đó có 6 mẫu hạm: Akagi, Kaga, Soryu, Hiryu, Zuikaku và Shokaku. Ðể bảo vệ sáu mẫu hạm mới tân trang này là hai tuần dương hạm lớn Hiei và Kirishima, hai tuần dương hạm nhỏ Tone và Chikuma, một tuần dương hạm nhẹ và chín diệt ngư lôi hạm mới.
Trên sáu mẫu hạm sẽ có 423 phi cơ đủ loại. Ba mươi phi cơ dùng để tuần tiễu làm thành một cái dù lớn bảo vệ bên trên các mẫu hạm. Bốn chục phi cơ làm lực lượng trừ bị. Còn lại 353 phi cơ có nhiệm vụ tấn công quân cảng Trân châu cảng. Trong số các phi cơ có nhiệm vụ tấn công thì có 100 phi cơ loại Kates, trang bị đạn 16-phân để oanh kích ở mức cao, 40 phi cơ Kates khác dùng để phóng thủy lôi, 131 oanh tạc cơ và 79 chiến đấu cơ Zero. Các tuần dương hạm và chiến hạm khác cũng có một số phi cơ nổi để thám thính và để trợ giúp các phi đội chiến đấu.
máy bay tiêm kích Zero rời tàu sân bay Akagi để đánh Trân Châu Cảng
Máy bay ném ngư lôi Kate
Máy bay ném bom bổ nhào Val
Tham gia trận này còn có 5 tàu ngầm hiện đại của Nhật, mỗi chiếc có thể chứa thêm 2 tàu ngầm nhỏ hơn. Có thể lẻn vào tận nơi đóng quân của tại cảng Hawaii. Nhiệm vụ của các tàu ngầm là bao vây, tiêu diệt những tàu trốn thoát cuộc không kích của Nhật.
Để bảo đảm cuộc tiến công đầy tính bất ngờ, nhiều kế haọch đánh lạc hướng được Yamamoto nghĩ ra. Ông cấm liên lạc radio giữa các tàu sân bay. Tăng các bản tin về kế hoạch đánh chiến ccá nơi khác. Cho thủy thủ lên bở dạo chơi tại Tokyo nhằm chứng minh phần lớn hạm đội tàu sân bay vẫn nằm trong căn cứ Nhật.
Ðến ngày 22-11 thì tất cả các mẫu hạm Nhật đã tới vịnh Tankan trong quần đảo Kuriles. Quần đảo Kuriles gồm có 16 hòn đảo nhỏ nằm tại một vùng hẻo lánh rất ít dân cư. Chính tại đây, Lực lượng Xung kích tấn công Trân châu cảng dừng lại, làm những sửa soạn cuối cùng trước khi tung ra cuộc tấn công bất ngờ. Dù vậy cuộc tấn công vẫn chưa có quyết định chính thức mà còn chờ vào thương thuyết giữa 2 phái đoàn tại Hoa Thịnh Đốn. Nếu 2 bên đạt được thõa thuận hòa bình thì cuộc tấn công sẽ bị hủy bỏ.
Theo luật Nhật Bản thì chỉ có Nhật Hoàng mới có quyền khai chiến, tuy nhiên lúc này Nhật Hoàng vẫn chưa quyết định, ông trông chờ 1 kế hoạch hòa bình giữa 2 bên. Nhưng nội các chiến tranh của Nhật không cho Nhật Hoàng giải pháp khác.
Last edited by a moderator:
Chuyến SN OS 7 năm lần này phải kiến nghị bác Lơ cho bác sinhviengia làm OSOM thôi... nếu được cho làm OSPD mục CFXV luôn...
FerrucioLamborghini nói:Chuyến SN OS 7 năm lần này phải kiến nghị bác Lơ cho bác sinhviengia làm OSOM thôi... nếu được cho làm OSPD mục CFXV luôn...
Em xin ủng hộ cả 2 tay và .......... 3 chân
couto nói:FerrucioLamborghini nói:Chuyến SN OS 7 năm lần này phải kiến nghị bác Lơ cho bác sinhviengia làm OSOM thôi... nếu được cho làm OSPD mục CFXV luôn...
Em xin ủng hộ cả 2 tay và .......... 3 chân
Cho e 1 phiếu ủng hộ bác SVG luôn.
Cảm ơn các bác ủng hộ, em chỉ rảnh cuối tuần tán phét thôi
Máy bay Nhật xuất kích Zuikaku or Shokaku tấn công Hawaii.
Trên soái hạm Nagato, yamamoto ra mật lệnh "Nagata Yama Nobore",nghĩa là "Trèo Ngọn Núi Nagata". Ðây là tên ngọn núi cao tại Ðài Loan đang thuộc quyền cai trị của Nhật. Khi nhận được mật hiệu này, các chiến hạm của Nagumo đã tới điểm hẹn và cuộc chiến đang gần kề. Trong khi đó tình báo Mỹ vẫn tin tưởng sức mạnh hải quân của Nhật vẫn còn bỏ neo tại các quân cảng Nhật Bản.
Việc Mỹ tin tưởng như vậy vì họ vẫn duy trì những máy bay cảnh báo nhưng không hề phát hiện chuyện gì bất thường. Tuy nhiên Mỹ vẫn biết tin tức hải quân Nhật sắp có 1 hành động gì đó quy mô rất lớn, nhưng họ cho rằng mục tiêu sẽ là Phillipin hay đảo Guam. Tình báo Mỹ có phát hiện những bản tin đánh ra từ Honolulu nhưng họ vẫn không xác định được cụ thể.
Trong khi đó thì hạm đội Nhật vẫn tiến thầm lặng vào Hawaii. Có những trận bảo lớn cuốn theo thủy thủ xuống biển nhưng họ buộc phải tiếp tục hành trình vì giờ giấc rất ngiêm ngặt. Đó là những người lính đầu tiên hy sinh cho kế hoạch đánh phá Trân Châu Cảng.
Tuy vậy những cơn mưa hay sương mù lại là nhân tố giúp che dấu hạm đội khỏi máy bay do thám của Hoa Kỳ. Khi tiến gần tới hawaii thì hạm đội Nhật cũng nhận ra tín hiệu của máy bay Mỹ, nhưng người Mỹ chỉ tuần tra phía tây đảo, còn Nhật lại tiến từ phía bắc.
Ngay tối thứ 6, tức gần 2 ngày trước giờ G, các tàu ngầm Nhật đã vào vị trí. Nó luôn báo cáo về sở chỉ huy vị trí các tàu tần tra của Mỹ.
Trong cuộc hành quân tấn công Trân châu cảng, lực lượng Nhật may mắn không gặp một trở ngại nào. Ngay cả thời tiết cuối cùng cũng trở nên thuận lợi. Một điều bận tâm duy nhất của các tư lệnh Nhật Bản là không biết các mẫu hạm Mỹ có mặt tại Trân châu cảng hay không. Người Nhật tin rằng ít nhất có bốn mẫu hạm Mỹ tại Trân châu cảng là những chiếc Yorktown, Hornet, Lexington và Enterprise. Thực ra hai chiếc Yorktown và Hornet đã được chuyển sang Ðại Tây Dương, còn hai chiếc Lexington và Enterprise thì rời Trân châu cảng khi hạm đội của Nagumo tới nơi. Ðó là sự không may cho hải quân Nhật, vì mục đích chính của Yamamoto là tiêu diệt cho bằng được các mẫu hạm Mỹ. Nếu làm được như vậy, ít nhất 1 năm hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ sẽ tê liệt. Đó là ông khắt khe, theo tính toán nếu cả 4 mẫu hạm còn trong cảng và bị tiêu diệt thì thời gian phục hồi của Mỹ còn lâu hơn.
Tuy nhiên tại Trân châu cảng vẫn còn những mục tiêu khá hấp dẫn cho các oanh tạc cơ của Nagumo. Tại Trân Châu Cảng lúc đó có hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ gồm 8 chiến hạm, 2 tuần dương hạm lớn, 6 tuần dương hạm nhẹ, 29 khu trục hạm, 5 tàu ngầm, 8 khu trục phá mìn, 1 tàu thả mìn, 4 khu trục hạm vớt mìn, 6 tàu vớt mìn và 24 tàu khác.
Sang ngày thứ 7 là 1 thời khắc căng thẳng cho đô đốc Nagumo, trong khi chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho phi cơ xuất kích, ông phải chờ tin tức tình báo về việc có mẫu hạm nào trong cảng hay không?
Nếu không có thì liệu có rút kế hoạch lại hay không? Vì Nagumo cũng hy vọng vào giờ tấn công, sẽ có mẫu hạm quay về cảng. Theo tin tức giờ chót vào đêm thứ 7 thì có 8 chiến hạm và 15 tuần dương hạm địch. Đô đốc nagumo tập trung sĩ quan chỉ huy vào để phân công nhiệm vụ. Trong đó ông nêu rõ có khả năng cuộc tấn công xảy ra mà không có mẫu hạm nào torng quân cảng. Tuy nhiên số tàu trong cảng cũng rất lớn. Đặc biệt các chỉ huy nhấn mạnh tàu ngầm vào vị trí trong quân cảng nhưng không được tấn công trước khi phi cơ tấn công. Chính điều lệnh cứu thoát tàu sân bay Lexington vì nó đang nằm trong tầm ngắm của tàu ngầm Nhật, nhưng đến sáng thì thì tàu Nhật mất dấu Lexington.
Sáng sớm chủ nhật, hạm đội cách Hawaii 270miles. Tin tức thông báo từ bộ chỉ huy là không có mẫu hạm nào trong cảng. Lúc này 1 trận bão lại ấp tới hạm đội đang khởi hành hết tốc lực. Điều này làm máy bay Mỹ không thể nào tìm ra hạm đội Nhật.
Các tàu ngầm bắt đầu lẻn vào quân cảng nhân lúc các tàu vớt mìn trong cảng ra khơi để dọn đường lưu thông. Ít nhất 2 tàu ngầm nhỏ của Nhật bị phát hiện và bắn hạ.
5 giờ sáng chủ nhật, trời vẫn tối sầm vì bão. Hải quân Nhật phái 2 phi cơ do thám cất cánh.
6 giờ sáng bảo vẫn không thuyên giảm, việc xuất kích rất khó khăn vì sóng to, gió rất mạnh. Máy bay do tham 1vẫn không có tín hiệu báo về. Tuy nhiên đô đốc Nagumo vẫn quyết định tiến hành kế hoạch đúng chương trình đã vạch ra.
Đợt tấn công đầu tiên sẽ do trung tá Mitsuo Fuchida chỉ huy, ông có 25 năm kinh nghiệm. Đúng 6 giờ 15 sáng chủ nhật 7-12-1941. 183 chiếc phi cơ cất cánh bay về Hawaii. Không có 1 tai nạn nào xảy ra khi phi cơ cất cánh trong giông bảo, chứng tỏ trình độ phi công Nhật rất cao lúc đó.
Trong 183 phi cơ chia làm 3 nhóm. Nhóm đầu có 4 phi đội 49 chiếc Kates trang bị bom xuyên giáp. 4 phi đội 40 chiếc Kates trang bị ngư lôi. Mục đích tấn công tàu chiến Mỹ.
Nhóm 2 sẽ tấn công 2 căn cứ không quân trên đảo là Ford Island và Wheeler Field gồm 51 máy bay ném bom bổ nhào Val.
Nhóm thứ 3 là các máy bay tiêm kích Zero sẽ tấn công cac phi trường và máy bay trong bãi, gồm phi trường Ford Island, Hickam Field, Wheeler Field, Barber’s Point và Kaneohe.
Khoảng 6 giờ 45 sáng thì 2 binh sĩ Mỹ là Joseph Locard và George Elliot phát hiện 2 máy bay do thám Nhật. Tuy nhiên nó không sơn dấu hiệu gì nên họ không nghĩ là máy bay Nhật.
7 giờ sáng khi phi cơ Nhật cách đảo 130miles thì bị rađa phát hiện. Sĩ quan trực phòng rađa là trung úy Tyler, 1 sĩ quan thực tập tại phòng. Anh cũng đã nhận bức điện từ 2 binh sĩ Mỹ báo cáo về 2 phi cơ lạ nhưng Tyler bỏ qua. Cho là phi cơ từ phi trường quân sự Hawaii bay tuần tra. Còn toán phi cơ lớn hơn thì anh cho rằng đó là đoàn B-17 từ lục địa bay ra.
Tyler nhận định như vậy vì 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên là toán phi cơ Nhật bay đúng vào đường bay của toán b-17 sẽ bay, chỉ lệch vài độ. vả lại không ai nghĩ có toán máy bay nào lớn dám bay vào Hawaii như vậy. Không có bất cự sự nghi ngờ nào từ Tyler, đó là điểm sai lầm chết người của anh.
Hướng tấn công của quân Nhật. D là đảo hawaii. B là đảo Midway
Đây thực ra al2 toán dẫn đầu do trung tá Fuchida chỉ huy gồm 49 chiếc. Bay thấp hơn là toán bay 40 chiếc phóng lôi do trung tá Murata chỉ huy. Bay cao hơn Fuchida là nhóm 51 máy bay ném bom bổ nhào do trung tá Takahashi chỉ huy. Mỗi phi cơ của toán Takahashi mang theo một trái bom nặng 500 cân. Bên trên tất cả ba đội hình phi cơ này là 43 chiến đấu cơ loại Zero có nhiệm vụ bảo vệ ba đoàn phi cơ Nhật nếu bị phi cơ Mỹ tấn công. Ðoàn chiến đấu cơ Zero do trung tá Itaya chỉ huy và cũng cất cánh từ soái hạm Akagi.
Mỗi phi công mang theo 1 tấm ảnh để nhận diện khu vực Hawaii. Gần tới địa điểm, Fuchida mở angten radio về hướng Hawaii để chỉnh hướng bay.
Theo kế hoạch từ trước thì có 2 phương án tấn công: Thứ nhất nếu tính bất ngờ còn đảmm bảo thì trung tá Murata sẽ chỉ huy phi cơ phóng lôi tấn công trước. Sau đó những phi đội ném bom của Fuchida sẽ tấn công đợt 2, song song là phi đội của Takahashi đánh bom phi trường.
Phương án 2 là khi tính bất ngờ không còn, phòng không từ căn cứ Hawaii khai hỏa phòng vệ. Khi đó các phi đội của Takahashi phải nhào xuống oanh kích trước. Khi đó vị trí phòng thủ sẽ bị lộ, và phi đội ném bom của Fuchida sẽ dập tắt chúng trước khi các phi đội phóng lôi diệt chiến hạm.
Máy bay Nhật xuất kích Zuikaku or Shokaku tấn công Hawaii.
Trên soái hạm Nagato, yamamoto ra mật lệnh "Nagata Yama Nobore",nghĩa là "Trèo Ngọn Núi Nagata". Ðây là tên ngọn núi cao tại Ðài Loan đang thuộc quyền cai trị của Nhật. Khi nhận được mật hiệu này, các chiến hạm của Nagumo đã tới điểm hẹn và cuộc chiến đang gần kề. Trong khi đó tình báo Mỹ vẫn tin tưởng sức mạnh hải quân của Nhật vẫn còn bỏ neo tại các quân cảng Nhật Bản.
Việc Mỹ tin tưởng như vậy vì họ vẫn duy trì những máy bay cảnh báo nhưng không hề phát hiện chuyện gì bất thường. Tuy nhiên Mỹ vẫn biết tin tức hải quân Nhật sắp có 1 hành động gì đó quy mô rất lớn, nhưng họ cho rằng mục tiêu sẽ là Phillipin hay đảo Guam. Tình báo Mỹ có phát hiện những bản tin đánh ra từ Honolulu nhưng họ vẫn không xác định được cụ thể.
Trong khi đó thì hạm đội Nhật vẫn tiến thầm lặng vào Hawaii. Có những trận bảo lớn cuốn theo thủy thủ xuống biển nhưng họ buộc phải tiếp tục hành trình vì giờ giấc rất ngiêm ngặt. Đó là những người lính đầu tiên hy sinh cho kế hoạch đánh phá Trân Châu Cảng.
Tuy vậy những cơn mưa hay sương mù lại là nhân tố giúp che dấu hạm đội khỏi máy bay do thám của Hoa Kỳ. Khi tiến gần tới hawaii thì hạm đội Nhật cũng nhận ra tín hiệu của máy bay Mỹ, nhưng người Mỹ chỉ tuần tra phía tây đảo, còn Nhật lại tiến từ phía bắc.
Ngay tối thứ 6, tức gần 2 ngày trước giờ G, các tàu ngầm Nhật đã vào vị trí. Nó luôn báo cáo về sở chỉ huy vị trí các tàu tần tra của Mỹ.
Trong cuộc hành quân tấn công Trân châu cảng, lực lượng Nhật may mắn không gặp một trở ngại nào. Ngay cả thời tiết cuối cùng cũng trở nên thuận lợi. Một điều bận tâm duy nhất của các tư lệnh Nhật Bản là không biết các mẫu hạm Mỹ có mặt tại Trân châu cảng hay không. Người Nhật tin rằng ít nhất có bốn mẫu hạm Mỹ tại Trân châu cảng là những chiếc Yorktown, Hornet, Lexington và Enterprise. Thực ra hai chiếc Yorktown và Hornet đã được chuyển sang Ðại Tây Dương, còn hai chiếc Lexington và Enterprise thì rời Trân châu cảng khi hạm đội của Nagumo tới nơi. Ðó là sự không may cho hải quân Nhật, vì mục đích chính của Yamamoto là tiêu diệt cho bằng được các mẫu hạm Mỹ. Nếu làm được như vậy, ít nhất 1 năm hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ sẽ tê liệt. Đó là ông khắt khe, theo tính toán nếu cả 4 mẫu hạm còn trong cảng và bị tiêu diệt thì thời gian phục hồi của Mỹ còn lâu hơn.
Tuy nhiên tại Trân châu cảng vẫn còn những mục tiêu khá hấp dẫn cho các oanh tạc cơ của Nagumo. Tại Trân Châu Cảng lúc đó có hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ gồm 8 chiến hạm, 2 tuần dương hạm lớn, 6 tuần dương hạm nhẹ, 29 khu trục hạm, 5 tàu ngầm, 8 khu trục phá mìn, 1 tàu thả mìn, 4 khu trục hạm vớt mìn, 6 tàu vớt mìn và 24 tàu khác.
Sang ngày thứ 7 là 1 thời khắc căng thẳng cho đô đốc Nagumo, trong khi chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho phi cơ xuất kích, ông phải chờ tin tức tình báo về việc có mẫu hạm nào trong cảng hay không?
Nếu không có thì liệu có rút kế hoạch lại hay không? Vì Nagumo cũng hy vọng vào giờ tấn công, sẽ có mẫu hạm quay về cảng. Theo tin tức giờ chót vào đêm thứ 7 thì có 8 chiến hạm và 15 tuần dương hạm địch. Đô đốc nagumo tập trung sĩ quan chỉ huy vào để phân công nhiệm vụ. Trong đó ông nêu rõ có khả năng cuộc tấn công xảy ra mà không có mẫu hạm nào torng quân cảng. Tuy nhiên số tàu trong cảng cũng rất lớn. Đặc biệt các chỉ huy nhấn mạnh tàu ngầm vào vị trí trong quân cảng nhưng không được tấn công trước khi phi cơ tấn công. Chính điều lệnh cứu thoát tàu sân bay Lexington vì nó đang nằm trong tầm ngắm của tàu ngầm Nhật, nhưng đến sáng thì thì tàu Nhật mất dấu Lexington.
Sáng sớm chủ nhật, hạm đội cách Hawaii 270miles. Tin tức thông báo từ bộ chỉ huy là không có mẫu hạm nào trong cảng. Lúc này 1 trận bão lại ấp tới hạm đội đang khởi hành hết tốc lực. Điều này làm máy bay Mỹ không thể nào tìm ra hạm đội Nhật.
Các tàu ngầm bắt đầu lẻn vào quân cảng nhân lúc các tàu vớt mìn trong cảng ra khơi để dọn đường lưu thông. Ít nhất 2 tàu ngầm nhỏ của Nhật bị phát hiện và bắn hạ.
5 giờ sáng chủ nhật, trời vẫn tối sầm vì bão. Hải quân Nhật phái 2 phi cơ do thám cất cánh.
6 giờ sáng bảo vẫn không thuyên giảm, việc xuất kích rất khó khăn vì sóng to, gió rất mạnh. Máy bay do tham 1vẫn không có tín hiệu báo về. Tuy nhiên đô đốc Nagumo vẫn quyết định tiến hành kế hoạch đúng chương trình đã vạch ra.
Đợt tấn công đầu tiên sẽ do trung tá Mitsuo Fuchida chỉ huy, ông có 25 năm kinh nghiệm. Đúng 6 giờ 15 sáng chủ nhật 7-12-1941. 183 chiếc phi cơ cất cánh bay về Hawaii. Không có 1 tai nạn nào xảy ra khi phi cơ cất cánh trong giông bảo, chứng tỏ trình độ phi công Nhật rất cao lúc đó.
Trong 183 phi cơ chia làm 3 nhóm. Nhóm đầu có 4 phi đội 49 chiếc Kates trang bị bom xuyên giáp. 4 phi đội 40 chiếc Kates trang bị ngư lôi. Mục đích tấn công tàu chiến Mỹ.
Nhóm 2 sẽ tấn công 2 căn cứ không quân trên đảo là Ford Island và Wheeler Field gồm 51 máy bay ném bom bổ nhào Val.
Nhóm thứ 3 là các máy bay tiêm kích Zero sẽ tấn công cac phi trường và máy bay trong bãi, gồm phi trường Ford Island, Hickam Field, Wheeler Field, Barber’s Point và Kaneohe.
Khoảng 6 giờ 45 sáng thì 2 binh sĩ Mỹ là Joseph Locard và George Elliot phát hiện 2 máy bay do thám Nhật. Tuy nhiên nó không sơn dấu hiệu gì nên họ không nghĩ là máy bay Nhật.
7 giờ sáng khi phi cơ Nhật cách đảo 130miles thì bị rađa phát hiện. Sĩ quan trực phòng rađa là trung úy Tyler, 1 sĩ quan thực tập tại phòng. Anh cũng đã nhận bức điện từ 2 binh sĩ Mỹ báo cáo về 2 phi cơ lạ nhưng Tyler bỏ qua. Cho là phi cơ từ phi trường quân sự Hawaii bay tuần tra. Còn toán phi cơ lớn hơn thì anh cho rằng đó là đoàn B-17 từ lục địa bay ra.
Tyler nhận định như vậy vì 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên là toán phi cơ Nhật bay đúng vào đường bay của toán b-17 sẽ bay, chỉ lệch vài độ. vả lại không ai nghĩ có toán máy bay nào lớn dám bay vào Hawaii như vậy. Không có bất cự sự nghi ngờ nào từ Tyler, đó là điểm sai lầm chết người của anh.
Hướng tấn công của quân Nhật. D là đảo hawaii. B là đảo Midway
Đây thực ra al2 toán dẫn đầu do trung tá Fuchida chỉ huy gồm 49 chiếc. Bay thấp hơn là toán bay 40 chiếc phóng lôi do trung tá Murata chỉ huy. Bay cao hơn Fuchida là nhóm 51 máy bay ném bom bổ nhào do trung tá Takahashi chỉ huy. Mỗi phi cơ của toán Takahashi mang theo một trái bom nặng 500 cân. Bên trên tất cả ba đội hình phi cơ này là 43 chiến đấu cơ loại Zero có nhiệm vụ bảo vệ ba đoàn phi cơ Nhật nếu bị phi cơ Mỹ tấn công. Ðoàn chiến đấu cơ Zero do trung tá Itaya chỉ huy và cũng cất cánh từ soái hạm Akagi.
Mỗi phi công mang theo 1 tấm ảnh để nhận diện khu vực Hawaii. Gần tới địa điểm, Fuchida mở angten radio về hướng Hawaii để chỉnh hướng bay.
Theo kế hoạch từ trước thì có 2 phương án tấn công: Thứ nhất nếu tính bất ngờ còn đảmm bảo thì trung tá Murata sẽ chỉ huy phi cơ phóng lôi tấn công trước. Sau đó những phi đội ném bom của Fuchida sẽ tấn công đợt 2, song song là phi đội của Takahashi đánh bom phi trường.
Phương án 2 là khi tính bất ngờ không còn, phòng không từ căn cứ Hawaii khai hỏa phòng vệ. Khi đó các phi đội của Takahashi phải nhào xuống oanh kích trước. Khi đó vị trí phòng thủ sẽ bị lộ, và phi đội ném bom của Fuchida sẽ dập tắt chúng trước khi các phi đội phóng lôi diệt chiến hạm.