Trận chiến Normandy
Normandy- từ một bãi biễn vô danh trở thành một địa danh nổi tiếng trong thế chiến 2. Vào ngày 6-6-1944 tại nơi này đã diễn ra cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử chiến tranh. Hơn 156,000 binh sĩ thuộc 13 quốc gia đồng minh đã tham gia trong ngày này. Chủ lực là quân Anh, Mỹ, Canada, ngoài ra còn có Australia, Bỉ, Czec, Slovakia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, New Zealand, Na Uy và Ba Lan. Cụ thể, có 73.000 quân Mỹ, trong đó 23.250 người đổ bộ lên bãi Utah; 43.250 lên bãi Omaha và 15.500 quân đổ bộ đường không. Khu vực do quân Anh và Canada đảm nhiệm có tất cả 83.115 người, trong đó có 24.970 đổ bộ lên bãi Gold, 21.400 lên bãi Juno, 28.845 người lên bãi Sword và 7.900 quân đổ bộ đường không.
Mật danh của ngày đổ bộ là D day. Người ta thường thắc mắc D day nghĩa là gì? Có phải tượng trưng cho Doom day (ngày tận thế - quân Đức), Deliverance Day- ngày phán quyết...Tất cả đều không phải, D day đơn giản là ngày nổ súng. Khi hoạch định kế hoạch, người ta chưa biết rõ ngày nào sẽ bắt đầu, nên tạm gọi là ngày D. Vừa giữ bí mật, vừa khỏi phải thay đổi con số khi nếu kế hoạch tiến hành sớm hay trễ hơn dự định.
Để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ, 1 lực lượng tàu chiến cực lớn được huy động: 6.939 chiếc, trong đó có 1.213 tàu chiến, 4.126 tàu đổ bộ và máy bay thả dù, 736 tàu hỗ trợ và 864 tàu buôn.
Để huy động 1 lực lượng đông đảo như vậy mà vẫn giữ được bí mật là 1 bài toán khó, cho tới nay nó vẫn còn là bí ẩn cho môn khoa học quân sự.
Kể từ sau khi quân đội Anh rút khỏi trận Dunkirk và việc Pháp bị đánh bại trước đó 4 năm, người dân châu Âu đã nóng lòng chờ đợi. Hai triệu quân đã được ém ở Anh. 5.000 tàu chiến và tàu đổ bộ đang sẵn sàng trong các cảng dọc bờ biển quốc đảo. Hàng nghìn máy bay ném bom của Anh và Mỹ sẵn sàng nhằm vào các mục tiêu trên đất Pháp. Để đảm bảo an ninh, Anh đóng cửa hải giới. Bất kỳ người nào xuất nhập cảnh đều được kiểm tra kỹ lưỡng. Kể từ tháng 2, công dân Ireland, một nước trung lập khi đó, nơi có sứ quán Đức, đều bị cấm nhập cảnh. Tháng 4, gần như toàn bộ bờ biển phía nam nước Anh bị phong toả.
Tướng Đức Field Marshall Erwin Rommel chỉ huy phòng tuyến quân Đức tại đây nghĩ rằng Normandy chỉ là 1 kế hoạch nghi binh, trận chiến thực sự phải nằm ở Pas-de-Calais. Vùng bờ biển phía Bắc của Pháp rất gần với nước Anh, nếu quân Đồng Minh đổ bộ vào đây, họ chỉ cách 1 eo biển hẹp. Và còn nằm trong tầm tác chiến của không quân Anh. Về lý lẽ rất hợp lý.
Để tăng tính thuyết phục, quân Đồng Minh đã tạo nên đạo quân giả hiệu, đông cả triệu người. Đạo quân mà người Đức tưởng là đạo quân thuộc Quân Khu 1, dưới quyền chỉ huy của Thượng Tướng Patton, trong thực tế chỉ là những chiếc xe tăng bằng cao su, những lều trại bằng giấy cạc-tông. Chẳng có một người lính nào cả. Vậy mà lính Đức vẫn được dẫn dắt để tin, và tin một cách chắc chắn rằng đó là một đạo quân thực sự.
Góp phần vào đó còn có điệp viên 2 mang người Tây Ban Nha, Pujol. Đầu tiên anh này xin làm điệp viên cho Anh nhưng không được thu nhận, sau đó tình báo Đức nhận anh vào làm việc. Những thông tin từ Đức anh ta báo cho phía Anh. Từ đó trở thành điệp viên cho cả 2 phía. Và cung cấp những tin tình báo sai lệch làm quân Đức lầm lẫn vị trí đổ bộ của Đồng Minh.
Chỉ huy phe Đồng Minh là Tổng tư lệnh: Đại tướng Mỹ Dwight D. Eisenhower.
Lục quân đo đại tướng Anh Bernard Montgomery chỉ huy.
hải quân do phó đô đốc Anh: Bertram Ramsay chỉ huy. Không quân sẽ do thiếu tướng Trafford Mallory chỉ huy.