Chi Hội Trưởng HFC
19/12/08
18.851
3.970
113
56
chắc cà đao
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Bu- gi tia laser sẽ thay thế bu-gi tia lửa điện truyền thống

Tia laser sẽ tập trung kích nổ tại 3 điểm khác nhau trong xy –lanh nên nó đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu, giúp tăng hiệu quả nhiên liệu và ít khí độc hại.

2011_04_26_Laser_beam_hinh_nho.jpg

Trong 150 năm qua, Bu – gi tia lửa điện dùng cho động cơ xăng đã không có nhiều thay đổi dù vẫn tồn tại nhiều nhược điểm. Như việc các điện cực nhanh chóng bị mòn theo thời gian khiến tia lửa điện yếu dần đi, dẫn đến hiệu suất của động cơ giảm dần đồng thời làm gia tăng các chất khí độc hại. Thêm vào đó, bu-gi đánh lửa ở trên đầu xy- lanh, nơi không phải ở vị trí trung tâm khiến cho nhiên liệu không thể cháy hoàn toàn. Hay khi gắp thời tiết lạnh, việc khởi động bằng bu-gi truyền thống sẽ khó khăn vì hơi xăng bị giảm độ nhạy lửa.

Từ năm 1970 nhiều nhóm nghiên cứu đã nảy ra ý tưởng sử dụng tia laser thay thế cho tia lửa điện vì có thể khắc phục được 3 nhược điểm: Thứ nhất, tia laser không bị mòn dần như các điện cực.Thứ hai, tia laser có thể tập trung tại một điểm định trước tại trung tâm xy-lanh để việc kích nổ đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba, người ta có thể dễ dàng hiệu chỉnh cường độ tia laser để có thể đốt cháy nhiên liệu trong những ngày thời tiết lạnh giá nhất. Tuy nhiên, vào thời đó, thiết bị tạo tia laser rất cồng kềnh không thể gắn vào động cơ, các nghiên cứu đều phải bỏ dở.

Đến năm 2009, khi đã có điều kiện tạo ra tia laser với những thiết bị nhỏ như bu-gi truyền thống, việc nghiên cứu bu-gi laser lại được tiếp tục. Tháng 7 năm 2009, Ford công bố hợp tác với các nhà khoa học thuộc trường Đại học Liverpool, Anh Quốc để nghiên cứu sản xuất bu-gi laser. Nhóm nghiên cứu đã tuyên bố sẽ cho ra đời sản phẩm vào năm 2011.

Cũng trong năm 2009, một nhóm khác, nhóm liên kết các khoa Khoa học Tự nhiên (NINS) thuộc nhiều trường đại học Nhật Bản đã nghiên cứu về bu-gi laser và có sự tham gia hỗ trợ từ Hội Khoa học kỹ thuật Nhật Bản và Trung tâm công nghệ (JST).

Kết quả là nhiều khả năng nhóm nghiên cứu của Nhật bản đã về đích sớm hơn nhóm nghiên cứu của Ford và Đại học Liverpool. Vào tuần tới, nhóm này sẽ thao diễn thành quả nghiên cứu ở Hội nghị Laser và điện quang học (CLEO: 2011), được tổ chức tại Baltimore, Mỹ.

Theo Ông Takunori Taira trưởng nhóm NINS cho biết: “ Bu-gi laser được sản xuất từ bột gốm do đó có giá thành sẽ hạ. Tia laser sẽ tập trung kích nổ tại 3 điểm khác nhau trong xy –lanh nên có thể đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu, giúp tăng hiệu quả nhiên liệu và ít tạo ra khí độc hại”.

Sắp tới đây, nhóm nghiên cứu này sẽ cộng tác với Tổng công ty Denso, một thành viên của Tập đoàn Toyota để sản xuất bu-gi laser với khối lượng lớn. Từ đó, giá thành sẽ hạ khi cung cấp ra thị trường.


Anh Vũ (tổng hợp)
 
Chi Hội Trưởng HFC
19/12/08
18.851
3.970
113
56
chắc cà đao
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Dùng "ống pô" xe để phát điện

Máy phát điện hơi nóng (thermoelectric generator) tận dụng nhiệt khí xả để chạy ô tô.


Các nhà nghiên cứu của trường Đại học Purdue bang Indian đã hợp tác với GM phát triển hệ thống hấp thu nhiệt năng từ ống khí thải của xe ô tô để sản xuất điện nhằm giảm mức nhiên liệu tiêu thụ.
2010_12_26_yang-GM-graphic.jpg

Nhóm nghiên cứu trên một nguyên mẫu máy phát điện bằng sức nóng, có thể sản sinh dòng điện để sạc pin. Máy phát điện bằng nhiệt cũng có thể được dùng trên hệ thống điện động cơ điện để giảm thiểu công suất tiêu thụ và tăng hiệu quả kinh tế.
Máy phát điện bằng nhiệt sẽ được lắp đặt vào hệ thống xả. Do hiện nay máy chưa chịu đựng được nhiệt độ 1.000 C bên trong ống xả dùng chất xúc tác nên máy phải được đặt ở đoạn giữa bộ lọc khí xả có nhiệt độ khoảng 700 C.
2010_12_26_yang-GM-graphic_02.jpg

Dự án đã bắt đầu từ đầu năm 2010 với mục tiêu chế tạo nguyên mẫu đầu tiên giảm được 5% mức tiêu hao nhiên liệu. Trong tương lai, hệ thống có thể hoạt động ở nhiết độ cao hơn và sẽ giảm được 10% tiêu hao nhiên liệu.
Vật liệu nhiệt điện (Thermoelectric materials) sẽ phát ra điện khi có sự chênh lệch nhiệt độ.
Xianfan Xu giáo sư chủ nhiệm dự án giải thích, “Vật liệu được làm nóng ở bề mặt tiếp xúc với khí thoát ra và mặt bên kia lại mát, khi sự khác biệt nhiệt độ được duy trì liên tục, sẽ tạo ra dòng điện,” . “ Thách thức lớn nhất nằm ở cấp độ thiết kế, làm sao để tối ưu hóa mọi vấn đề, làm sao để tận dụng nhiều nhiệt nhất từ khí thoát,” Ông nói thêm “Ống xả động cơ nơi tiếp xúc với nhiệt nhiều nhất có thể trở thành vật liệu phát điện.”
Các nhà nghiên cứu của GM đã dùng một loại vật liệu có tên “skutterudite”, một hợp kim làm từ cobal, arsenide, niken và sắt để chế tạo máy phát điện dùng nhiệt.
Nhóm nghiên cứu đã hỗn hợp đất hiếm như lanthanum, cesium và erbium với skutterudite để giảm bớt tính dẫn nhiệt của vật liệu nhằm tạo ra sự chênh lệch nhiệt độ giữa 2 mặt. Tuy nhiên, sử dụng nguyên tố đất hiếm rất tốn kém nên các nhà nghiên cứu thay thế đất hiếm bằng vật liệu có tên gọi “mischetal”.
Dự án được nghiên cứu ở Đại học Purdue đã thu hút được sự chú ý của Quỹ Khoa học Quốc gia, Cơ quan Nghiên cứu Dự án Quốc phòng, Cơ quan Nghiên cứu Không quân và Trung tâm Đại học Công nghệ Rolls Royce.
Dự án đã nhận được 1,4 triệu USD tài trợ trong thời hạn 3 năm từ Quỹ Khoa học Quốc gia và Bộ Năng lượng Mỹ.

Thanh Bình ( theo Ecoseed.org)
 
Hạng D
8/1/10
4.960
2.063
113
Quận 8
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Bu-gi đánh lửa thế hệ mới
Thay vì sử dụng bu-gi truyền thống với nguyên lý phóng điện đơn giản, ACIS biến các phân tử khí thành ion (plasma khí) để châm cháy hỗn hợp nhiên liệu. Phát minh mới nhất hứa hẹn cắt giảm 10% nhiên liệu. Hệ thống đánh lửa plasma ACIS (Advanced Corona Ignition System) đang được nghiên cứu bởi tập đoàn sản xuất linh kiện ôtô khổng lồ Federal - Mogul.
Bu-gi thuyền thống tạo ra mồi lửa bằng cách phóng dòng điện cao áp qua hai điện cực. Quá trình cháy lan dần ra từ vị trí phóng điện ra bên ngoài. Áp suất khí tăng dần theo tốc độ cháy, đẩy pít-tông đi xuống trong kỳ cháy giãn nở. ACIS tạo ra một nguồn châm cháy rộng dưới dạng plasma khí (một dạng tồn tại của vật chất, ở đó nguyên tử, phân tử mất đi hầu hết các electron).
Quá trình ion hóa kích thích hỗn hợp hòa khí trong buồng đốt khiến chúng bắt lửa và tốc độ cháy lan rộng nhanh chóng. Nhiệt độ của plasma cực cao, cho dù hỗn hợp nghèo nhiên liệu cũng có thể cháy được dễ dàng tạo ra hiệu suất nhiên liệu cao, động cơ cháy sạch hơn.
490_Bu-gi.jpg
Hệ thống đánh lửa plasma - ACIS. Theo giám đốc Kristapher Mixell của Federal - Mogul, plasma tồn tại trong thời gian ngắn nhưng mạnh. Trong khi bu-gi truyền thống cần đến 2 hoặc 3 mi-li giây để châm cháy thì plasma chỉ cần 100 - 200 mi-crô giây.
Thay vì một điểm mồi, quá trình ion hóa có thể trong đường kính 30 mm hoặc 40 mm. Vị trí phát cháy có thể ở khắp nơi trong buồng đốt. Điều này mở ra những khả năng mới về việc thiết kế buồng cháy nhằm nâng cao hiệu suất nhiên liệu trong tương lai.
Việc sử dụng hệ thống tái tuần hoàn khí xả EGR (Exhaust gas recirculation) là một thủ thuật trong thiết kế động cơ nhằm giảm nồng độ NOx trong khí xả. Một lượng khí xả được trích ngược lại, hòa trộn cùng không khí và nhiên liệu. Quá trình cháy diễn ra chậm lại nhờ đó mà thu gom được các hydrocarbons trong khí xả. Tuy nhiên, biện pháp này lại khiến quá trình châm cháy trở nên khó khăn, một vấn đề mà ACIS khắc phục được, nhờ đó động cơ có thể làm việc với lượng lớn khí xả tái tuần hoàn.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu, động cơ cần đạt tỷ số nén lớn. Tuy nhiên lại gặp phải rào cản là hiện tượng kích nổ. Áp suất hỗn hợp nhiên liệu - không khí cao có thể xuất hiện nhiều điểm tự phát cháy bên trong buồng đốt. Các điểm cháy lan rộng tạo hành làn sóng áp suất và khi chúng gặp sau sẽ tạo thành tiếng gõ. Kích nổ thường làm động cơ nóng hơn, công suất tụt giảm đáng kể.
Cục diện sẽ hoàn toàn thay đổi với ACIS, khối hỗn hợp nhiên liệu bị kích thích, tốc độ cháy lan nhanh. Hỗn hợp được điều khiển đốt cháy trước khi hiện tượng kích nổ xảy ra.
Hiện tại ACIS đang trong giai đoạn nghiên cứu và phát triển. Nếu thành công rất có thể đây sẽ giải pháp triệt để nhất cho hai vấn đề của động cơ là nâng cao hiệu suất nhiên liệu, và tạo ra khí xả sạch hơn.
Thế Hoàng
 
Hạng D
8/1/10
4.960
2.063
113
Quận 8
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Hệ thống cân bằng điện tử - 'bùa hộ mệnh' cho lái xe
Số người tử nạn tại Mỹ có thể giảm đi một phần ba nếu tất cả các xe được trang bị hệ thống cân bằng điện tử (ESC). Theo Ủy ban an toan giao thông quốc gia Mỹ (NHTSA), ESC giúp giảm 35% số vụ va chạm. Nguy cơ gây tử vong của xe SUV được trang bị hệ thống cân bằng điện tử thấp hơn 67% so với trường hợp xe không có. Nghiên cứu của viện bảo hiểm an toàn đường bộ của nước này (IIHS) công bố tháng 6/2006 chỉ ra rằng nước Mỹ sẽ không mất đi 10.000 người nếu tất cả các xe đều được trang bị hệ thống cân bằng điện tử.
Nicole Nason, lãnh đạo của NHTSA, đánh giá ESC là một trong những hệ thống an toàn tiến bộ nhất. Chương trình đánh giá tính năng an toàn trên xe của châu Âu (Euro NCAP) đưa thông điệp mạnh mẽ khuyên mọi người nên mua những chiếc xe được trang vị hệ thống kiểm soát cân bằng.

Hệ thống cân bằng điện tử giúp người lái ổn định chuyển động khi cua gấp Tín hiệu từ các cảm biến gia tốc dọc, gia tốc ngang của thân xe, cảm biến tốc độ các bánh xe … được thu thập để xác định trạng thái chuyển động thực tế. Máy tính so sánh kết quả này với góc quay vô-lăng từ đó đưa ra các lệnh điều khiển phanh, hoặc giảm công suất động cơ, xe nhanh chóng được đưa về trạng thái theo đúng mong muốn của tài xế.
Hệ thống cân bằng điện tử kết hợp chặt chẽ với hệ thống chống bó cứng phanh-ABS cho phép ESC phanh độc lập từng bánh xe riêng rẽ. Bất kỳ xe nào có trang bị câng bằng điện từ thì hệ thống phanh đều trang bị ABS, nhưng một xe có ABS chưa chắc đã có ESC.
Cân bằng điện tử sử dụng mô-đun điều khiển thủy lực tương tự như trên ABS. Nhưng giữa hai hệ thống vẫn có sự khác biệt, trên xe chỉ có ABS, mô-đun điều khiển thủy lực chỉ có chức năng kiểm soát hoặc giảm áp suất dầu phanh tác động lên xi-lanh phanh. Với xe trang bị ESC ngoài hai chức năng trên mô-đun thủy lực còn có thể tăng áp suất dầu vào khu vực cần thiết khi có yêu cầu tạo ra lực phanh chênh lệch giữa các bánh.
Chính bởi yếu tố không thể tách rời đó mà khá nhiều người nhầm lẫn chức năng và nguyên lý làm việc của ESC và ABS. Hệ thống chống bó cứng phanh làm việc khi người lái đạp phanh, bánh xe có nguy cơ bó cứng. Hệ thống kiểm soát trạng thái lại làm việc khi có sự sai khác giữa góc đánh lái và góc quay thân xe. Điều đó có ý nghĩa rằng ESC làm việc tự động hoàn toàn.
Bạn hãy thử tưởng tượng vào một ngày đẹp trời bạn lái xe trên một con đường quen thuộc. Hôm nay, trên mặt đường xuất hiện một đám dầu nhớt lớn. Tưởng chừng như vô hại, bạn ung dung đánh lái vào cua như thường lệ. Bỗng dưng xe đột ngột quay tròn, bánh mất độ bám, lực ly tâm làm chiếc xe bị văng ra, trăm nghìn điều tồi tệ có thể xảy ra sau đó. Một chiếc xe đi ngược chiều xuất hiện, hay phái bên kia của làn đường là vực thẳm…
Nhưng nếu xe mà bạn đi được trang bị hệ thống cân bằng điện tử mọi chuyện sẽ xảy ra theo một hướng khác. Ngay khi thân xe có xu hướng bị quay hoặc văng ra do lực quán tính ly tâm vì lực bám giảm. ESC tự động giảm công suất động cơ và phanh những bánh xe thích hợp. Nhờ đó xe vẫn giữ được chuyển động ổn định.
Tuy nhiên vẫn có những trường hợp hệ thống cân bằng điện tử trở nên bất lực. Đó là khi đường quá trơn, hay lốp bị mòn quá mức hoặc áp suất hơi không đúng theo tiêu chuẩn làm giảm khả năng bám đường.
Bởi vai trò không thể thay thế các hãng sản xuất xe dành khá nhiều ưu ái cho việc nghiên cứu và phát triển hệ thống này. Mỗi hãng đều có những tên gọi khác nhau như nguyên lý hoạt động không khác nhau là mấy.
Toyota, Suzuki thường gọi hệ thống kiểm soát động lực học VSC (Vehicle Stability Control), Mercedes, Audi, Volkswagen và Hyundai lại đặt tên hệ thống này là chương trình ổn định điện tử ESP (Electronic Stability Program). Hệ thống VSA (Vehicle Stability Assist) của Honda, VDC (Vehicle Dynamic Control) của Nissan hay ASC (Active Stability Control) của Mitsubishi cũng có chức năng tương tự.
Thế Hoàng
 
Hạng D
10/11/09
1.583
240
63
nha trang
quangnam.dangkiem.com
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Lái xe số sàn và kinh nghiệm để đời</h1> Thứ Hai, ngày 13/06/2011, 07:00
Với những người mới tập lái, những người đam mê cảm giác làm chủ thì ôtô số sàn (hay số tay, viết tắt là MT) là ưu tiên lựa chọn hàng đầu.
CẬP NHẬT NHANH NHANH NHẤT TIN TỨC THỊ TRƯỜNG Ô TÔ – XE MÁY TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI, CHỈ CÓ TẠI 24H.COM.VN







Tuy nhiên, khác với số tự động, việc lái xe số sàn cần nhiều thao tác thuần thục và dưới đây là một số kinh nghiệm lái xe số sàn vừa giúp tiết kiệm nhiên liệu, vừa an toàn, đỡ mệt mỏi.
Chuyển về số 0 khi khởi động
Với xe số sàn, cần lưu ý trước khi bật khoá khởi động, cần số phải được chuyển về vị trí trung gian (số 0) và côn được nhả hoàn toàn. Trường hợp bắt đầu khởi động vào buổi sáng thì nên để cho động cơ nổ ở chế độ chờ khoảng 1 phút trước khi vận hành vì sau khoảng thời gian dài không vận hành, phần lớn dầu xe đã lắng xuống phía dưới động cơ, hệ thống xi lanh và buồng đốt lúc này gần như chỉ còn một lớp dầu mỏng bám trên bề mặt, vận hành ngay sẽ khiến động cơ dễ bị ăn mòn và hư hỏng.
Sơ đồ chuyển số tùy thuộc vào từng loại xe. Tuy nhiên sơ đồ này thường được vẽ ngay trên cần nắm số. Để việc chuyển số thuần thục mà không cần phải nhìn xuống cần số, bạn nên luyện kỹ năng này bằng cách: Để chìa khóa ở vị trí tắt, thực hành việc chuyển số (kết hợp với chân côn), mắt không nhìn cần số.
Nhịp nhàng côn ra ga vào
Để chuyển số với xe số sàn, côn phải được cắt hoàn toàn, có nghĩa chân côn phải đạp hết. Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp sẽ cảm thấy việc vào số rất nặng và khó nhọc do chân côn của xe chưa đạp hết tầm. Khi nhả côn để xe chuyển động, phải phối hợp nhịp nhàng giữa chân ga và chân côn để việc chuyển số diễn ra êm ái. Chỉ khi thực hiện đúng thao tác "côn ra ga vào" (giảm ga và cắt côn nhanh – sang số – nhả côn từ từ kết hợp tăng ga), côn mới không bị mài, máy mới khoẻ, tránh bị ì.
1307777068-oto-lai-xe-so-san-.jpg

[Xe số sàn có nhược điểm so với số tự động là ở chân côn nhưng cũng lại có ưu điểm hơn xe số tự động cũng là nhờ chân côn, bạn hãy sử dụng nó nhiều hơn nếu không nó sẽ chẳng phát huy được ưu điểm của nó. Chỉ đạp chân côn khi thay đổi số là chưa tận dụng được ưu thế của nó. Khi chạy đường xấu bạn nên cắt côn tùy lúc để xe tránh bị giằng – giật. Khi vượt chướng ngại vật trong phố chỗ đông người bạn nên rà côn cho an toàn.
Số phù hợp tốc độ
Trong quá trình lái xe, nếu xe chưa đủ tốc độ mà lái xe đã vào số cao sẽ làm cho xe ì, đạp ga xe không tăng tốc mạnh như mong muốn được, tức là chạy ép số. Vì thế, lái xe cần học cách tạo đà, và khi vận hành cần lưu ý sự tương thích giữa số và tốc độ xe. Cụ thể: số 1 tương ứng với tốc độ 5-10km/h, số 2: 10-15km/h, số 3: 15-30km/h, số 4: 35-40km/h, số 5: trên 45km/h.
Không đạp côn trước khi phanh
Các chuyên gia kỹ thuật ôtô cho hay, khi xe đã chuyển bánh và việc chuyển số hoàn tất, hãy bỏ hoàn toàn chân ra khỏi chân côn. Nếu cứ giữ chân trên chân côn (thói quen này thường ở thời gian đầu của người mới lái xe) sẽ làm giảm tuổi thọ của các lá côn. Đặc biệt khi phanh, tránh đạp côn sớm trước khi xe chuẩn bị dừng; lái xe cần dạp phanh trước, sau đó mới đạp côn. Tương tự khi vào cua, lái xe không đạp côn và đảm bảo số phù hợp tốc độ, tránh xe chết máy hoặc gằn máy.
Dùng phanh tay đúng cách
Trong quá trình học lái xe và vận hành trên đường, chúng ta có thể sử dụng hoặc phanh chân, hoặc phanh tay để thực hiện đề-pa ngang dốc. Tuy nhiên lái xe cần lưu ý phanh tay không được thiết kế để dừng xe khi đang chạy, mà chỉ giữ xe đứng yên khi đã dừng. Vì vậy, nếu xe tụt dốc mà chỉ kéo phanh tay là một sai lầm nguy hiểm. Ngược lại, nếu vô tình quên không nhả hết phanh tay (do nhả không dứt khoát), phanh sẽ bị mòn và nguy hiểm hơn là nhiệt phát sinh có thể làm sôi dầu phanh dẫn đến hậu quả là phanh mất tác dụng.
1307777068-oto-lai-xe-so-san-1.jpg

[Kinh nghiệm đề-pa
Khi đề-pa, lưu ý không nhả chân côn hết cỡ, thường dẫn tới chết máy. Trước khi nhả côn, phải ga thốc lên tầm vòng tua máy 1.500-2.000 vòng/phút nhưng trong quá trình nhả côn phải giữ đều chân ga giúp xe di chuyển về phía trước. Sau khi cắt phanh tay, cần giữ nguyên chân côn, chân ga lúc bắt đầu cắt phanh tay.
Không nên lạm dụng số 0
Việc đưa cần số về số trung gian (số 0 hay số mo) khi đang vận hành hay chuẩn bị dừng đèn đỏ không giúp tiết kiệm nhiên liệu nhưng lại khiến quán tính của xe tăng lên đột ngột, khó kiểm soát tốc độ. Đặc biệt một số lái xe có thói quen nguy hiểm là về số 0 khi xuống dốc; khi đó tốc độ xe tăng theo gia tốc, cả phanh chân và phanh tay sẽ không thể phát huy hết hiệu quả, nguy cơ tai nạn rất cao.
Chúc các bạn thượng lộ bình an!
nguồn: 24h.com.vn
 
Hạng D
10/11/09
1.583
240
63
nha trang
quangnam.dangkiem.com
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Lái xe số sàn và kinh nghiệm để đời</h1> Thứ Hai, ngày 13/06/2011, 07:00
Với những người mới tập lái, những người đam mê cảm giác làm chủ thì ôtô số sàn (hay số tay, viết tắt là MT) là ưu tiên lựa chọn hàng đầu.
CẬP NHẬT NHANH NHANH NHẤT TIN TỨC THỊ TRƯỜNG Ô TÔ – XE MÁY TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI, CHỈ CÓ TẠI 24H.COM.VN







Tuy nhiên, khác với số tự động, việc lái xe số sàn cần nhiều thao tác thuần thục và dưới đây là một số kinh nghiệm lái xe số sàn vừa giúp tiết kiệm nhiên liệu, vừa an toàn, đỡ mệt mỏi.
Chuyển về số 0 khi khởi động
Với xe số sàn, cần lưu ý trước khi bật khoá khởi động, cần số phải được chuyển về vị trí trung gian (số 0) và côn được nhả hoàn toàn. Trường hợp bắt đầu khởi động vào buổi sáng thì nên để cho động cơ nổ ở chế độ chờ khoảng 1 phút trước khi vận hành vì sau khoảng thời gian dài không vận hành, phần lớn dầu xe đã lắng xuống phía dưới động cơ, hệ thống xi lanh và buồng đốt lúc này gần như chỉ còn một lớp dầu mỏng bám trên bề mặt, vận hành ngay sẽ khiến động cơ dễ bị ăn mòn và hư hỏng.
Sơ đồ chuyển số tùy thuộc vào từng loại xe. Tuy nhiên sơ đồ này thường được vẽ ngay trên cần nắm số. Để việc chuyển số thuần thục mà không cần phải nhìn xuống cần số, bạn nên luyện kỹ năng này bằng cách: Để chìa khóa ở vị trí tắt, thực hành việc chuyển số (kết hợp với chân côn), mắt không nhìn cần số.
Nhịp nhàng côn ra ga vào
Để chuyển số với xe số sàn, côn phải được cắt hoàn toàn, có nghĩa chân côn phải đạp hết. Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp sẽ cảm thấy việc vào số rất nặng và khó nhọc do chân côn của xe chưa đạp hết tầm. Khi nhả côn để xe chuyển động, phải phối hợp nhịp nhàng giữa chân ga và chân côn để việc chuyển số diễn ra êm ái. Chỉ khi thực hiện đúng thao tác "côn ra ga vào" (giảm ga và cắt côn nhanh – sang số – nhả côn từ từ kết hợp tăng ga), côn mới không bị mài, máy mới khoẻ, tránh bị ì.
1307777068-oto-lai-xe-so-san-.jpg

[Xe số sàn có nhược điểm so với số tự động là ở chân côn nhưng cũng lại có ưu điểm hơn xe số tự động cũng là nhờ chân côn, bạn hãy sử dụng nó nhiều hơn nếu không nó sẽ chẳng phát huy được ưu điểm của nó. Chỉ đạp chân côn khi thay đổi số là chưa tận dụng được ưu thế của nó. Khi chạy đường xấu bạn nên cắt côn tùy lúc để xe tránh bị giằng – giật. Khi vượt chướng ngại vật trong phố chỗ đông người bạn nên rà côn cho an toàn.
Số phù hợp tốc độ
Trong quá trình lái xe, nếu xe chưa đủ tốc độ mà lái xe đã vào số cao sẽ làm cho xe ì, đạp ga xe không tăng tốc mạnh như mong muốn được, tức là chạy ép số. Vì thế, lái xe cần học cách tạo đà, và khi vận hành cần lưu ý sự tương thích giữa số và tốc độ xe. Cụ thể: số 1 tương ứng với tốc độ 5-10km/h, số 2: 10-15km/h, số 3: 15-30km/h, số 4: 35-40km/h, số 5: trên 45km/h.
Không đạp côn trước khi phanh
Các chuyên gia kỹ thuật ôtô cho hay, khi xe đã chuyển bánh và việc chuyển số hoàn tất, hãy bỏ hoàn toàn chân ra khỏi chân côn. Nếu cứ giữ chân trên chân côn (thói quen này thường ở thời gian đầu của người mới lái xe) sẽ làm giảm tuổi thọ của các lá côn. Đặc biệt khi phanh, tránh đạp côn sớm trước khi xe chuẩn bị dừng; lái xe cần dạp phanh trước, sau đó mới đạp côn. Tương tự khi vào cua, lái xe không đạp côn và đảm bảo số phù hợp tốc độ, tránh xe chết máy hoặc gằn máy.
Dùng phanh tay đúng cách
Trong quá trình học lái xe và vận hành trên đường, chúng ta có thể sử dụng hoặc phanh chân, hoặc phanh tay để thực hiện đề-pa ngang dốc. Tuy nhiên lái xe cần lưu ý phanh tay không được thiết kế để dừng xe khi đang chạy, mà chỉ giữ xe đứng yên khi đã dừng. Vì vậy, nếu xe tụt dốc mà chỉ kéo phanh tay là một sai lầm nguy hiểm. Ngược lại, nếu vô tình quên không nhả hết phanh tay (do nhả không dứt khoát), phanh sẽ bị mòn và nguy hiểm hơn là nhiệt phát sinh có thể làm sôi dầu phanh dẫn đến hậu quả là phanh mất tác dụng.
1307777068-oto-lai-xe-so-san-1.jpg

[Kinh nghiệm đề-pa
Khi đề-pa, lưu ý không nhả chân côn hết cỡ, thường dẫn tới chết máy. Trước khi nhả côn, phải ga thốc lên tầm vòng tua máy 1.500-2.000 vòng/phút nhưng trong quá trình nhả côn phải giữ đều chân ga giúp xe di chuyển về phía trước. Sau khi cắt phanh tay, cần giữ nguyên chân côn, chân ga lúc bắt đầu cắt phanh tay.
Không nên lạm dụng số 0
Việc đưa cần số về số trung gian (số 0 hay số mo) khi đang vận hành hay chuẩn bị dừng đèn đỏ không giúp tiết kiệm nhiên liệu nhưng lại khiến quán tính của xe tăng lên đột ngột, khó kiểm soát tốc độ. Đặc biệt một số lái xe có thói quen nguy hiểm là về số 0 khi xuống dốc; khi đó tốc độ xe tăng theo gia tốc, cả phanh chân và phanh tay sẽ không thể phát huy hết hiệu quả, nguy cơ tai nạn rất cao.
Chúc các bạn thượng lộ bình an!
nguồn: 24h.com.vn
 
Chi Hội Trưởng HFC
19/12/08
18.851
3.970
113
56
chắc cà đao
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

<h2>Tìm hiểu công nghệ VTEC của Honda </h2>

Hệ thống điều khiển van biến thiên VTEC của Honda là một trong những công nghệ tiên tiến nhằm tối ưu hóa hiệu quả của động cơ. VTEC sẽ điều khiển các thông số của van nạp, xả hoặc cả hai sao cho hòa khí đi vào buồng đốt hay khí xả đi ra một cách thích hợp nhất.
VTEC là thuật ngữ viết tắt từ cụm từ "Variable valve Timing and lift Electronic Control". Hệ thống này được phát triển nhằm cải thiện hiệu quả của các động cơ đốt trong tại các dải vòng tua động cơ khác nhau. VTEC của Honda là một trong nhiều công nghệ điều van biến thiên trên thế giới như VVT-i của Toyota hay VarioCam plus của Porsche. VTEC được kỹ sư thiết kế động cơ của Honda, Kenichis Nagahiro sáng tạo nên.

Động cơ tích hợp i-VTEC của Honda Accord
Trong các động cơ đốt trong 4 kỳ thông thường, các van nạp và van xả được điều khiển thông qua các con đội trên trục cam. Hình dáng của các con đội sẽ xác định thời điểm (timing), độ nâng (lift) và khoảng thời gian mở (duration) của từng van. Thuật ngữ timing dùng để chỉ khi nào van được mở/đóng so với chu trình của piston Từ lift dùng để chỉ van được mở ở mức độ như thế nào và duration thể hiện van ở trạng thái mở trong thời gian bao lâu.
Do tính chất của hòa khí và sau khi cháy mà 3 thông số thời điểm, độ nâng và thời gian mở của các van ở vòng tua thấp và vòng tua cao rất khác nhau. Thông thường, khi thiết kế động cơ, các kỹ sư phải lưu ý tới điều kiện làm việc của từng xe và xác định chúng cần công suất và mô-men xoắn cực đại ở vòng tua nào. Nếu đặt điều kiện hoạt động tối ưu của các van ở vòng tua thấp thì quá trình đốt nhiên liệu lại không hiệu quả khi động cơ ở trạng thái vòng tua cao, khiến công suất chung của động cơ bị giới hạn. Ngược lại, nếu đặt điều kiện tối ưu ở số vòng tua cao thì động cơ lại hoạt động không tốt ở vòng tua thấp.
Từ những hạn chế đó, một ý tưởng được các kỹ sư đưa ra là tìm cách tác động để thời điểm mở van, độ mở và khoảng thời gian mở biến thiên theo từng vòng tua khác nhau sao cho chúng mở đúng lúc, khoảng mở và thời gian mở đủ để lấy đầy hòa khí vào buồng đốt. Trên thực tế, điều chỉnh một cách hoàn toàn cả 3 thông số của van là điều rất khó.
Để làm điều này, có thời kỳ người ta sử dụng một cuộn cảm để điều chỉnh van thay vì sử dụng cam. Tuy nhiên, kỹ thuật trên không được sản xuất do quá phức tạp và rất đắt. Cách tiếp cận ngược lại là điều chỉnh van sao cho động cơ hoạt động tốt ở vòng tua cao. Điều này có nghĩa xe sẽ hoạt động rất yếu ở khi tốc độ vòng tua thấp (trạng thái mà hầu hết các xe luôn có) và hoạt động tốt ở vòng tua cao.

VTEC trên động cơ trục cam kép DOHC
Hệ thống VTEC của Honda là phương pháp khá đơn giản nhằm đảm bảo động cơ hoạt động hiệu quả ở dải vòng tua rộng, thông qua trục cam kép đa trạng thái đã được tối ưu hóa. Thay vì mỗi con đội phục trách một van, sẽ có 2 con đội điều khiển. Một con đội được thiết kế để động cơ hoạt động tốt ở vòng tua thấp còn một con khác đảm nhiệm vai trò ở vòng tua cao.
Sự thay đổi trạng thái giữ hai con đội này được điều khiển bằng máy tính sau khi thu thập các thông số như áp suất dầu động cơ, nhiệt độ máy, vận tốc xe và vòng tua động cơ. Khi vòng tua động cơ tăng, máy tính sẽ kích hoạt con đội thiết kế cho vòng tua cao hoạt động. Từ lúc này, van sẽ được đóng mở theo chế độ vòng tua cao như khoảng mở rộng hơn, thời gian mở dài hơn nhằm cung cấp đủ hòa khí cho buồng đốt. Hệ thống VTEC trên động cơ trục cam kép sẽ điều khiển cả van xả và van nạp.
VTEC trên động cơ có trục cam kép (DOHC) được giới thiệu vào năm 1989 trên chiếc Honda Integra bán ở Nhật. Nó có công suất 160 mã lực. Khách hàng Mỹ làm quen với VTEC từ 1991 trên Acura NSX, sử dụng động cơ DOHC VTEC V6.

VTEC trên động cơ trục cam đơn SOHC
Để tăng sự phổ biến và giá trị của VTEC, Honda tích hợp hệ thống này trên động cơ trục cam đơn SOHC. Trên động cơ trục cam đơn, người ta chỉ sử dụng một trục cam để điều chỉnh cả van nạp lẫn van xả. Trên thực tế, động cơ sử dụng SOHC chỉ hiệu quả khi hệ thống VTEC áp dụng trên van nạp. Lý do là ở động cơ SOHC, bu-gi đặt nghiêng với trục cam và nó nằm giữa hai van xả nên việc ứng dụng VTEC ở van xả là không thể.

Công nghệ mới i-VTEC
i-VTEC (chữ i lấy từ từ Intelligent) là công nghệ điều van biến thiên liên tục trên van nạp ở các động cơ của Honda. Công nghệ này xuất hiện lần đầu tiên năm 2001 trên mẫu K-series sử dụng 4 xi-lanh thẳng hàng. Khoảng mở và khoảng thời gian mở vẫn được điều chỉnh theo hai chế độ vòng tua thấp và vòng tua cao như trên VTEC. Tuy nhiên, ở i-VTEC, trục cam điều khiển van nạp có thể thay đổi một góc trong khoảng từ 25 đến 50 độ (tùy thuộc vào cấu trúc động cơ) khi đang vận hành. Các trạng thái của trục cam được máy tính điều khiển dựa trên các dữ liệu về tải trọng xe và vòng tua máy. Tác dụng của i-VTEC là nâng mô-men xoắn của động cơ, đặc biệt khi ở tốc độ vòng tua trung bình. Trên mẫu Civic bán tại Việt Nam, Honda trang bị i-VTEC ở cả động cơ I4 trục cam kép DOHC và I4 trục cam đơn SOHC.

Động cơ i-VTEC DOHC của Honda Civic Si Coupe
Năm 2004, Honda giới thiệu công nghệ i-VTEC trên động cơ V6. Tuy nhiên, không giống như ở động cơ I4, i-VTEC áp dụng trên động cơ V6 có khả năng ngắt một nửa số xi-lanh khi xe có tải trọng nhẹ và vận tốc thấp nhằm giảm mức tiêu hao nhiên liệu. Công nghệ i-VTEC V6 được Honda tích hợp trên các mẫu Honda Odyssey và hiện tại có thể thấy công nghệ này trên Honda Accord Hybrid và Honda Pilot 2006.
Một phiên bản i-VTEC khác được Honda giới thiệu trên Civic R-series 2006 lắp động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng. Khi ở vận tốc thấp, tải trọng nhẹ, i-VTEC điều khiển van nạp sao cho có khoảng mở nhỏ và mở hết bướm ga nhằm giảm mức tiêu hao nhiên liệu bằng cách giảm mất mát năng lượng ở bơm.
 
Hạng D
8/1/10
4.960
2.063
113
Quận 8
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Nguyên nhân tua máy cao ở chế độ ga-lăng-ti
Ở chế độ không tải (ga-lăng-ti), tốc độ vòng quay động cơ ôtô thường đạt 800 - 1.000 vòng/phút. Nếu tốc độ động cơ tăng trên 1.500 vòng/phút có thể được coi là quá cao. Khi động cơ còn lạnh, ECU điều khiển để làm tăng tốc độ không tải nhằm tăng nhiệt độ thân máy. Khi đạt nhiệt độ làm việc thích hợp khoảng 80-90 độ C, tốc độ động cơ sẽ tự động hạ xuống mức bình thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tốc độ ga-lăng-ti vẫn ở mức cao cho dù nhiệt độ động cơ nóng. Xăng vào nhiều, xe tiêu ngốn nhiều xăng mà không sinh công hữu ích.
Hở đường ống áp âm Không khí lọt qua khe hở, kéo theo lượng nhiên liệu phun tăng. Cả khí và xăng vào nhiều, tốc độ động cơ tăng cao. Hư hỏng này khắc phục dễ dàng bằng cách bít kín khe hở. Không khí lọt qua khẻ hở thường kèm theo tiếng rít gió, đây là điểm mấu chốt để khoanh vùng kiểm tra. Nếu nó là chính là thủ phạm thì tốc độ vòng tua se giảm khi dùng tay bít kín lại.
Van thông hơi các-te bị hỏng Kẹp chặt đường ống thông nối vào van thông hơi (Positive Crankcase Ventilation), thiết bị nối giữa ống họng hút và nắp máy, bình thường tốc độ vòng tua sẽ hơi giảm một chút. Nhưng nếu tốc độ giảm về bình thường thì chứng tỏ van PCV cần được thay thế.
490_Duong-ong-thong-hoi.jpg
Van PCV nối thống giữa không gian các-te với họng hút. Xe sử dụng lâu ngày, muội bẩn từ động cơ có thể theo đường thông hơi PCV lọt vào làm bẩn họng hút khiến động cơ làm việc không ổn định hoặc chết. Để khắc phục, một thợ sử xe lâu năm khuyên người sử dụng nên thường xuyên kiểm tra và vệ sinh nếu thấy cần thiết.
Van không tải Đối với động cơ phun xăng điện tử, van không tải đóng vai trò điều chỉnh lượng không khí vào buồng đốt ở chế độ ga-lăng-ti. Một khi bị kẹt hoặc hỏng, van không tải không còn khả năng kiểm soát lượng khí dẫn đến hiện tượng tăng tốc độ vòng tua.
Mo-to-ISD.jpg
Van không tải kiểm soát không khí nạp vào động cơ ở chế độ ga-lăng-ti. Trong một số trường hợp, van không tải còn tốt nhưng tín hiệu điều khiển sai khiến nó không làm việc hiệu quả. Cảm biến ôxi hoặc cảm biến nhiệt độ nước làm hỏng có thể là nguyên nhân khiến ECU cung cấp tín hiệu điều khiển sai cho van không tải.
Thế Hoàng
 
Hạng D
8/1/10
4.960
2.063
113
Quận 8
Re:SƯU TẦM CÁC BÀI TÌM HIỂU KỸ THUẬT ÔTÔ

Lịch sử phát triển của hộp số ôtô
Phác thảo đầu tiên của hộp số cận đại mà Panhard-Levassor đưa ra đã gặp phải những lời chỉ trích nặng nề, nhưng điều đó vẫn không thể ngăn cản hai ông tạo nên bước ngoặt lịch sử trong ngành công nghiệp ôtô. Sự ra đời của hộp số sàn Được ví như trái tim của hệ thống truyền lực, hộp số biến đổi mô-men, tốc độ làm việc của động cơ sao cho phù hợp với điều kiện làm việc của bánh xe trên đường. Kể từ khi phát minh nổi tiếng của George Selden về bộ truyền động cầu trước kết hợp với động cơ 3 xi lanh đặt nằm ngang trở thành thiết kế trên xe hơi, có rất ít ý tưởng mới phù hợp.
Giới thiệu vào năm 1894, bản phác thảo đầu tiên của hộp số cận đại do hai kỹ sư người Pháp, Louis-Rene Panhard và Emile Levassor đưa ra đã không mang về cho hai ông vinh quang mà ngược lại phải nhận những chỉ trích.
Buổi thuyết trình không thành công, chiếc xe mô hình bị chết máy, nội dung bị cắt bớt chỉ còn trình bày trên bảng đen. Một tờ báo viết "kẻ bịp bợm đã dùng nhiều trò mánh khóe để lừa gạt công chúng hâm hộ cùng với chiếc xe mới”. Có lẽ các nhà phát minh nên bỏ qua buổi nói chuyện công nghệ và sử dụng mô tả vừa đủ. Những gì họ đã làm thật thô thiển.
490-George-Selden-1877.jpg
Chiếc xe do George Selden thiết kế vào năm 1877. Thời ấy, kết cấu truyền động khá đơn giản bằng bộ truyền đai hoặc bộ truyền bánh răng côn. Xe chỉ có thể chạy với tốc độ đa 32 km/h. Khi gặp vật cản trên đường, tài xế phải dừng lại gài số thấp.
F. W. Lanchester, một trong những người tiên phong trong lĩnh vực ôtô ở Anh, mô tả về chiếc xe của ông gồm hai cấp truyền đai, một cho tốc độ thấp, cần mô-men lớn và một ở tốc độ cao, mô-men nhỏ.
Một năm sau cuộc hộp báo tai tiếng, Panhard and Levassor nổi danh trở lại không những chỉ với riêng hộp số mà còn toàn bộ hệ thống truyền lực. Lần này, họ đã có chiếc xe đầu tiên sẵn sàng chạy khi đạp ga. Bên cạnh đó họ cũng đã có rất nhiều thay đổi về ý tưởng. Thực tế, nó là một mẫu đã đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của xe được xây dựng vào những năm 90 và cả những năm sau đó.
Không giống như mẫu xe hiện thời, thiết kế mới có động cơ đặt dọc phía trước, truyền công suất ra cầu sau thông qua ly hợp và hộp số trượt 3 cấp và cầu chuyển động bằng xích. Nó gần giống như hệ thống truyền lực trên các xe hiện đại, nhưng chưa có vi sai và bán trục chủ động. Tuy nhiên, vào năm 1898, điều này đã trở thành hiện thực khi nhà triệu phú Louis Renault kết nối công suất thành công từ động cơ đặt dọc, qua hộp số tới cầu sau “sống” bằng trục kim loại.
Cầu sau “sống” hay còn gọi là vi sai cầu sau, cái mà Renault đã làm phù hợp với ý tưởng phát triển của một người Mỹ có tên C. E. Duryea vào năm 1893. Vì đã khắc phục vấn đề mòn lốp, nên phát minh này được hầu hết các nhà sản xuất ôtô áp dụng. Vi sai bao gồm một cụm bánh răng răng khớp làm nhiệm vụ phân chia công suất cho hai bánh của cầu sau. Nó cho phép bánh phía ngoài quay nhanh hơn bánh trong khi xe quay vòng.
Năm 1904, hộp số sàn sang số trượt của Panhard-Levassor đã được hiện thực hóa bởi hầu hết các nhà sản xuất ôtô. Dù tồn tại dưới dạng này hay dạng khác thì chúng vẫn còn được sử dụng cho đến thời gian gần đây. Hiển nhiên, đã có những cải tiến, thay đổi quan trọng nhất là hệ thống đồng bộ hóa cho phép quá trình ăn khớp giữa cách bánh răng diễn ra một cách trôi chảy, không phát sinh va đập. Hộp số trang bị bộ đồng tốc được Cadillac sử dụng lần đầu tiên vào năm 1928. Sau khi được Porsche phát triển, phát minh này đã trở nên phổ biến cho đến tận ngày nay.
Khoảng thời gian kể từ khi hộp số sàn xuất hiện cho đến thời điểm phát minh ra bộ đồng tốc, có một sự cố gắng khác cũng nhằm đơn giản quá trình sang số. Đó chính là hộp số có cấu tạo từ bộ truyền bánh răng hành tinh, xuất hiện lần đầu tiên trên mẫu Ford Model T 1908.
490_Ford_Model_T_1908.jpg
Ford Model T 1908. Bộ truyền bánh răng hành tinh bao gồm một bánh răng trung tâm hay còn được gọi là bánh răng mặt trời, một số bánh răng hành tinh ăn khớp xung quanh. Ngày nay, bộ truyền hành tinh được sử dụng trên hộp số tự động nhiều hơn trên số sàn.
Một vài loại số sàn phức tạp sử dụng bánh răng hành tinh đã được đưa ra, Wilson Preselector là một trong những hộp số như thế. Nó từng được sử dụng vào những năm 30. Hệ thống sử dụng 4 bộ truyền bánh răng hành tinh riêng rẽ, cho phép lái xe chọn trước một tỷ số truyền bằng cách di chuyển cần điều khiển nhỏ cạnh trục lái.
Sự ra đời của hộp số tự động Kể từ khi hộp số Panhard-Levassor ra đời, tất cả các phát minh hay cải tiến khác đều nhằm mục đích làm cho quá trình sang số dễ dàng hơn. Tất nhiên dễ nhất là quá trình chuyển số được thực hiện một cách tự động. Đó là lý do giải thích vì sao Sturtevant, anh trai của Boston, giới thiệu hộp số tự động vào năm 1904.
Quả văng ly tâm điều khiển sự ăn khớp của các bánh răng theo tốc độ, Quá trình sang số không cần đến sự đóng mở của ly hợp. Tuy nhiên bộ truyền này gặp lỗi, trọng lượng thường lệch bề một bên.
Reo đã có một sự cố gắng đầy ý nghĩa vào năm 1934 khi cho ra đời hộp số Reo Self-Shifter gồm hai bộ truyền mắc nối tiếp. Bộ truyền thứ nhất tự động chuyển số bằng cách điều khiển quá trình đóng mở ly hợp ma sát nhiều đĩa theo tốc độ xe. Bộ truyền thứ 2 được điều khiển bằng tay nhưng chỉ sử dụng khi động cơ cần tỷ số truyền thấp.
490_Reo_Self_Shifter.jpg
Sơ đồ cấu tạo hộp số Reo Self Shifter. Năm 1937, Oldsmobile tung ra hộp số bán tự động 4 cấp được gọi “ hộp số an toàn tự động”. Tài xế không cần sử dụng tới bàn đạp ly hợp và cần số khi xe chuyển từ số 1 sang số 2 hoặc từ 3 lên 4. Áp suất dầu điều khiển bộ truyền hành tinh. Điểm sang số được thiết lập sẵn theo tốc độ động cơ. Đã có 28.000 chiếc Oldsmobile 1938 trang bị hộp số này. Khía cạnh an toàn mà các nhà sản xuất đưa ra ở đây: lái xe có thể tập trung trên đường nhiều hơn vì không cần thao tác chuyển số.
Hộp số an toàn xuất hiện như một điềm báo trước sự ra đời của hộp số GM Hydra-Matic vào năm 1939. Ngay sau đó, Oldsmobile đã trang bị cho các mẫu xe phiên bản 1940. Buick đã được trang bị hộp số bán tự động 5 cấp trên bản đặc biệt vào năm 1938, nhưng đã có một số vấn đề phát sinh nên nó chỉ được hiện thực hóa vào những năm tiếp theo.
Hydra-Matic gồm 3 bộ truyền bánh răng hành tinh, điều khiển thủy lực. Bộ kết nối thủy lực làm nhiệm vụ truyền công suất từ động cơ sang hộp số thay cho ly hợp.
Danh tiếng về bộ kết nối thủy lực đi tới Chrysler, nơi đã phát triển mẫu ý tưởng vào năm 1937. Tuy nhiên, Chrysler đã không sử dụng cho đến năm 1941, khi hộp số Chrysler Fluid Drive được giới thiệu. Tuy đây không phải hộp số tự động, nhưng nó là hộp số tiêu chuẩn cùng kết nối thủy lực, không có ly hợp.
Ý tưởng đã có từ lâu, nhưng đến năm 1948 hộp số tự động hoàn toàn mới xuất hiện, sử dụng biến mô thủy lực và bộ truyền bánh răng hành tinh như ngày nay. Chiếc Buick Roadmaster vinh dự là mẫu xe đầu tiên trang bị Dynaflow, một trong những mẫu hộp số tự động hiện đại, như là một option giá 244 USD. Trong vòng 3 năm, 85% Buick đã có Dynaflow.
Một vài phát minh liên quan tới hệ thống truyền lực Hòa chung vào lịch sử phát triển của hộp số, ngành công nghiệp ôtô cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều phát minh khác liên quan tới hệ thống truyền lực.
Trong thời kỳ đầu khởi tạo hộp số, đai ốp da, ly hợp nhiều đĩa, ly hợp ma sát ướt cũng dần được sử dụng phổ biến. Ly hợp đĩa được Duryea sử dụng lần đầu tiên vào năm 1893 nhưng mãi tới năm 1921 thiết kế này mới được Herbert Frood hoàn thiện khi tìm ra vật liệu chịu mài mòn, chống lại hiện tượng cháy đĩa ma sát sau thời gian ngắn sử dụng.
Được sử dụng lần đầu tiên trên chiếc Peerless 1902, đến năm 1908 khớp các đăng được cải tiến sử dụng ổ bi. Hupmobile 1930 mở đường cho việc trang bị ổ bi kim, cái mà vẫn được tồn tại cho đến hiện tại.
Khóa vi sai sử dụng lần đầu tiên trên xe tải năm 1903 với mục đích tăng lực bám cho bánh xe khi đi trên đường trơn trượt, nhưng chúng vẫn không được sử dụng cho mãi đến năm 1956 khi mà Studebaker sản xuất thiết bị này cho xe dân dụng.
Năm 1906, Otto Zachow và William Besserdich xây dựng thành công chiếc xe truyền động 4 bánh. Một năm sau, họ mở công ty có tên gọi Four Wheel Drive Auto Co. Packard tạo ra thêm mốc phát triển mới bằng việc giới thiệu bộ truyền lực chính sử dụng bánh răng công xoắn. Và cũng chính Packard đã đưa bánh răng Hypoid vào cầu sau với mục đích cắt giảm tiếng ồn. Chrysler và DeSoto Airflow cho ra đời bộ khởi động nhanh tự động vào 1934.
Phát triển cuối cùng có lẽ là hộp số tự động vô cấp CVT. Một điều thú vị, sau 100 năm phát triển, người ta lại quay trở về với bộ truyền động đai.
Thế Hoàng