Không lực Thụy Điển với chiếc Gripen nội địa.
Gripen là loại máy bay thế hệ 4++
Năm 1978, chính phủ Thụy Điển quyết định trang bị cho không quân nước này các máy bay thế hệ thứ tư hiện đại, có thể sánh ngang với F-16 mà Mỹ hoặc loại Mig-29 của Liên Xô.
Tháng 6/1982, nhiệm vụ chế tạo chiếc máy bay này chính thức được giao cho công ty hàng không quân sự SAAB, công ty Ericsson và tập đoàn Volvo. Chiếc máy bay mới được mang mã hiệu JAS-39, với JAS có nghĩa là phòng không (J), tấn công mặt đất (A) và tuần tiễu (S) theo tiếng Thụy Điển.
JAS-39 Gripen được thiết kế là một chiếc máy bay đa nhiệm hạng nhẹ một động cơ, với chiều dài 12 m và sải cánh 8 m, nhỏ hơn chiếc F-16 (dài 14,8 m, sải cánh 9,8 m). Nhẹ hơn F-16 gần hai tấn nên Gripen JAS-39 khi chỉ có thể mang tối đa 6 tấn nhiên liệu và vũ khí, trong khi, F-16 có thể mang tới 11 tấn.
Về tốc độ chiến đấu và tuần tiễu thì hai chiếc máy bay này tương tự nhau về thông số kỹ thuật khi Gripen chỉ được trang bị một động cơ Volvo RM-12 với khả năng hoạt động chưa thực sự ấn tượng.
Tuy nhiên máy bay đặc biệt khi có hệ htống backup dữ liệu và khi hệ thống động cơ bị thiệt hại. Nó giúp máy bay duy trì trong 9 phút. Đủ để tìm chỗ đáp trong tình trạng khẩn cấp.
Thiết bị điện tử trên Gripen là sản phẩm của các công ty điện tử hàng đầu châu Âu với radar tầm xa PS-05 do Ericsson sản xuất, có khả năng phát hiện, định vị, nhận dạng và tự động theo dõi nhiều mục tiêu cả trên không, trên biển hay mặt đất trong mọi điều kiện thời tiết.
Nó cũng có thể dẫn đường cùng lúc cho bốn tên lửa không đối không tầm xa loại hiện đại nhất đang được trang bị cho NATO như AIM-120 AMRAAM, MBDA MICA tấn công bốn mục tiêu khác nhau.
Ngoài ra, hệ thống theo dõi hồng ngoại FLIR hay Saab IRortis IRST cũng cung cấp cho Gripen khả năng không chiến tầm gần mạnh mẽ. Hệ thống phân biệt bạn thù (IFF - Indentify Friend or Foe) TSC-2000 do Thales (Pháp) sản xuất khiến Gripen càng hiệu quả hơn trong những nhiệm vụ hiệp đồng tác chiến.
Gripen hoàn toàn tương thích với các loại tên lửa đối khônng của phương Tây như AIM-120B AMRAAM, AIM-9L Sidewinder của Mỹ; MBDA MICA của Pháp hay RB-74 do Thụy Điển tự sản xuất.
Trong các nhiệm vụ tấn công trên mặt đất và trên biển, Gripen có thể sử dụng loại tên lửa chống hạm “nội địa” Saab RBS-15F với tầm bắn lên tới 250 km (tương đương với phiên bản tên lửa Harpoon hiện đại nhất của Mỹ và còn vượt hơn một chút so với tên lửa Kh-41 Moskit của Nga) hay tên lửa đối đất Taurus KEPD - sản phẩm hợp tác của Thụy Điển và Pháp có tầm bắn lên tới 350 km.
..........
Điểm mạnh nhất của JAS-39 Gripen là giá thành bảo trì rất thấp so với các máy bay cùng loại của Mỹ hay Nga. Điều này cho phép máy bay có độ tin cậy cao trong các cuộc chiến khi điều kiện bảo dưỡng khó khăn hơn rất nhiều so với ngày thường.
Không những thế, Gripen có thể cất cánh và hạ cánh trên những đường băng gồ ghề chỉ dài 800 m và rộng 9 m, rất thích hợp cho các tình huống khẩn cấp khi các sân bay bị đánh phá nặng nề.
Vì những khả năng ưu việt của mình nên mặc dù rất đắt tới 55 triệu USD, Gripen vẫn nhận được rất nhiều hợp đồng cung cấp. Cụ thể, khách hàng chính là không quân Thụy Điển đã ký hợp đồng mua 204 chiếc Gripen, trong đó có 28 chiếc loại hai chỗ ngồi. Khách hàng trong khối NATO là Hungari và Séc cũng đã mua mỗi nước 14 chiếc Gripen để thay thế loại Mig-21 cũ.
Ngay cả những quốc gia ở xa như Nam Phi hay Thái Lan cũng tỏ rõ sự quan tâm của mình tới chiếc máy bay này. Nam Phi ký hợp đồng mua 26 chiếc, giao hàng từ năm 2008 đến 2012 và Không quân Hoàng gia Thái Lan mua 6 chiếc, bắt đầu giao hàng từ năm 2011 để thay thế các biên đội F-5 do Mỹ trang bị hết hạn sử dụng.
Hệ thống ghế an toàn có thể hoạt động với nhiều tốc độ
up to speeds of 1150 km/h at low altitude and Mach 1.8 at high altitude
up to an altitude of 16 km
at zero altitude and zero speed
down to an altitude of 100 m during inverted flight
down to an altitude of 700 m during a vertical dive
during G loads between +6G and -3G