ĐÁNH TRẢ!
Như ta đều biết, vũ khí tàng hình (chủ yếu là phương tiện bay) lợi hại ở chỗ nó gần như "bịt mắt" được các loại radar cảnh báo sớm, dễ dàng luồn sâu vào trung tâm hệ thống phòng thủ để đánh đòn công kích kiểu "phẫu thuật" nhằm vào các SCH, trung tâm điều khiển hệ thống PK,...Trong tác chiến hiện đại, nó sẽ là tên lính tiên phong cho chiến dịch SEAD (Suppression Of Enemy Air Defense ), tạm dịch là: Vô hiệu hoá hệ thống phòng không đối phương.
Về phía ta, ngụy trang, nghi binh và liên tục cơ động rồi nhưng vẫn phải đánh trả chứ, chả nhẽ để nó "tung tăng" muốn làm gì thì làm trên bầu trời của ta à? Vậy ta phải làm gì để đánh trả?
Máy bay tàng hình có vũ khí chính là "tàng hình", bóc được lớp áo thường được khóac màu huyền thoại này ta sẽ thấy nó cũng như mọi loại máy bay khác, cũng bị lock, bị theo dõi và bị bắn rơi. Có khi còn dễ bị bắn rơi hơn các loại khác ấy chứ!
Ta thử tìm cách bóc cái áo tàng hình này nhé! Để phát hiện mục tiêu tàng hình thì chỉ còn cách sử dụng radar, nhưng không phải loại radar nào cũng có thể phát hiện máy bay tàng hinh. Hiện nay trên thế giới có xu hướng sử dụng các loại radar sau để chống máy bay tàng hình:
- Radar sóng dài (sóng m): Vì hiện nay vũ khí tàng hình sử dụng vật liệu hấp thụ sóng chủ yếu là để đối phó radar có bước sóng cm, nếu mở rộng bước sóng radar ra 2 đầu tới bước sóng m, bước sóng mm và bước sóng hồng ngoại, bước sóng lazer, sẽ có khả năng chống tàng hình nhất định. Ví dụ, radar 96L6/96L6E/96L6E2 thuộc họ tên lửa phòng không SA-10 của Nga là thuộc loại này, tần suất làm việc là 3 tỉ Hz, đồng thời còn có các trang thiết bị khác hỗ trợ như thiết bị hồng ngoại, lazer... có thể phát hiện được dấu vết vũ khí tàng hình ở cự ly nhất định.
- Radar sóng xung kích: Radar sóng xung kích là một loại radar kiểu mới có dải tần siêu rộng xuất hiện vào cuối những năm 80. Đó là loại radar lợi dụng mạch xung hình chữ nhật có thời gian phóng liên tục trực tiếp cực ngắn, công suất cực cao, phạm vi tần phổ phân bố năng lượng có thể từ gần như một chiều đến vài nghìn Hz. Khi loại mạch xung này phóng tới mục tiêu sẽ sinh ra sóng phản hồi, có độ phân giải khá cao, có thể nhận biết được các bộ phận cấu thành của mục tiêu từ các cự ly hữu hiệu, cấu thành một hình ảnh tổng hợp về mục tiêu có thể nhận biết được, có hiệu quả khá tốt trong việc chống các loại vũ khí sử dụng vật liệu sơn phủ để tàng hình.
- Radar mặt đất đôi (đa): Radar mặt đất đôi (đa) bố trí một bộ máy phát và một bộ máy thu ở những địa điểm khác nhau. Radar mặt đất đã là bố trí từ 2 máy thu trở lên ở những địa điểm khác nhau, chỉ cần một trong số những máy thu này thu được sóng phản hồi của mục tiêu tàng hình là toàn bộ hệ thống có thể theo dõi liên tục mục tiêu. Radar mặt đất đôi (đa) có thể sử dụng nhiều máy thu khác nhau để thu bắt các thông tin tán xạ từ phía trước và cạnh sườn mục tiêu, phát hiện được mục tiêu từ nhiều hướng, đồng thời tiến hành tập trung các thông tin về mục tiêu đã thu bắt được để xử lý, thực hành thống nhất kiểm tra, do vậy chúng phát hiện có hiệu quả các mục tiêu tàng hình. Loại radar Tamara của Cộng hòa Cezch được nhắc đến ở đầu topic này chính là áp dụng nguyên lý đa máy thu kiểu này.
- Radar tầm xa: Nguyên lý cơ bản của loại này là lợi dụng sự lan truyền nhảy của sóng ngắn ở giữa tầng điện ly và mặt đất để phát hiện các mục tiêu trên đường chân trời. Vì tín hiệu do radar phóng đi có thể thông qua tầng điện ly hình thành khúc xạ tương xứng với đường phóng, nên có thể chiếu xuống mục tiêu, phát hiện mục tiêu từ phía trên. Vì hiện nay phần lớn vũ khí tàng hình chỉ sơn phủ vật liệu tàng hình ở bộ phận mũi và phần dưới bụng, do vậy loại radar này có thể phát hiện có hiệu quả các loại vũ khí tàng hình, đặc biệt là đối với loại máy bay tàng hình có miệng hút khí của động cơ ở phía trên cánh máy bay, thì hiệu quả phát hiện và theo dõi càng cao. Tuy nhiên, loại radar này có kích thước rất lớn, chỉ có thể đặt cố định và cũng không hề rẻ nên chỉ các cường quốc quân sự như Nga, Mỹ mới có thể trang bị.
Xét một vài cuộc chiến tranh gần đây như: chiến dịch "Bão táp sa mạc" của lực lượng đa quốc gia trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, trong chiến dịch tiến công đường không của NATO ở Bôxnia năm 1995, các cuộc tập kích đường không của Mỹ ở Iraq trong các năm 1996 và 1998, các cuộc tập kích đường không của NATO vào Nam Tư năm 1999, Iraq 2003 cho thấy một thực tế là hầu hết các loại tên lửa - máy bay hiện nay của các cường quốc quân sự như Mỹ, Anh, Pháp, TQ đều thuộc loại vũ khí chính xác cao, và thuộc thế hệ vũ khí chính xác cao thứ ba hoặc thứ tư. Trong khi đó, các hệ thống và phương tiện phòng không ở hầu hết các nước trên thế giới được đánh giá là những vũ khí thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai, vốn đã có hàng chục năm chưa được hiện đại hoá vì nhiều lý do khác nhau. Các chiến thuật áp dụng trong tác chiến và cơ cấu tổ chức hệ thống phòng không cũng chưa được cải thiện nhiều; các phương tiện phòng không hiện đại vẫn chưa xuất hiện. Thực tế này dẫn đến hiệu quả thấp của các hệ thống phòng không ở các nước khi so với vũ khí tiến công đường không hiện đại.
Trong quá trình diễn ra các cuộc xung đột đã để cập ở trên, cho dù với số lượng tương đối nhỏ vũ khí chính xác cao (7% đến 10%) đã gây thiệt hại cho bên phòng thủ tới mức 80-90%, điều này trong nhiều trường hợp là rất quan trọng, quyết định hậu quả của đòn tiến công đường không hoặc toàn bộ chiến dịch. Cũng cần nhấn mạnh rằng vũ khí chính xác cao vẫn đang được cải tiến không ngừng. Ví dụ, trong chiến dịch tiến công đường không của NATO vào Nam Tư, không quân Mỹ lần đầu tiên đã đưa vào sử dụng bom hiệu chỉnh đường bay kết hợp với đầu chiến đấu chứa sợi cacbon (bom graphit) để đánh phá hệ thống cấp điện của đối phương. Ngoài ra, vũ khí chính xác cao với các hệ thống tự dẫn và điều khiển khác nhau (đầu tìm quang học, hồng ngoại, truyền hình, laser, radar và vô tuyến) đã được sử dụng rộng rãi, kể cả những vũ khí được dẫn đường bằng hệ thống đạo hàng theo vệ tinh NAVSTAR.
Vũ khí chính xác cao, xét theo nghĩa là phương tiện tiến công và là mục tiêu của radar phòng không, có những đặc điểm sau đây:
- Dải góc tiếp cận tới mục tiêu rộng: bắt đầu từ địa hình tính theo phương ngang bám theo đường bay tới độ cao từ 30 – 60 m lao xuống ở các góc 45 độ đến 60 độ hoặc hơn.
- Tiết diện phản xạ hiệu dụng thấp (LCS) tính trung bình khoảng 0,1 mét vuông và còn thấp hơn ở bán cầu trước ở dải sóng centimet (1,5 -3cm).
- Vận tốc bay hành trình và vận tốc bay tối đa cao (200 đến 700 m/s), các lựa chọn của vận tốc bay nói trên (bay với gia tốc hoặc bay giảm tốc) và trị số chịu quá tải cao (tới 8 - 10G).
- Độ bền cơ khí của các vũ khí như: bom hiệu chỉnh đường bay hoặc bom có điều khiển rất cao.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta phải nhận thức được rằng không có loại vũ khí nào là không thể bị bắn hạ, việc lập kế hoạch phòng không, kiểm soát bầu trời và áp dụng chiến thuật phòng không một cách thông minh, kể cả áp dụng các phương pháp không chính thống của những phương tiện phòng không lạc hậu, cũng có thể tạo được cơ hội gây thiệt hại đáng kể cho bên tiến công, ví dụ như trường hợp F-117A bị SA-3 của Nam Tư bắn rơi đã nói ở đầu topic này.
Để đối phó với kiểu chiến tranh phi đối xứng có thể xảy ra, hiện đại hoá các loại vũ khí phòng không thế hệ 1 và 2 nhằm tạo ra tính năng chiến đấu tương xứng đủ để đánh trả những vũ khí tấn công đường không có độ chính xác cao hiện nay vẫn được xem là một giải pháp có thể chấp nhận được để nâng cao hiệu quả của các hệ thống phòng không.
Một yếu tố khác cho phép tăng đáng kể hiệu quả của các hệ thống phòng không là phối hợp với các phương tiện tác chiến điện tử (EW). Làm được điều này sẽ tăng khả năng thu thập được các số liệu điện tử và vô tuyến tại các trung tâm điều khiển phòng không, đồng thời sẽ giảm được thời gian phát sóng của radar và kết quả là khả năng sống còn cũng sẽ tăng lên. Hơn nữa, việc gây nhiễu các radar máy bay sẽ gây cản trở cho các hoạt động bay của máy bay và cả hoạt động điều khiển vũ khí, đồng thời còn gia tăng xác suất đánh chặn thành công các vũ khí tiến công đường không của đối phương thông qua việc dồn ép chúng vào những khu vực phát huy được hết hiệu quả của vũ khí phòng không.
Đã có nhiều bằng chứng thực tế khẳng định rằng sự thành công của một cuộc chiến tranh (xung đột quân sự) phụ thuộc đáng kể vào kết quả của sự đối đầu giữa tiến công đường không và hệ thống phòng không. Dưới những điều kiện hiện nay, cho dù bên phòng thủ có bảo tồn và triển khai được một lực lượng lục quân mạnh, có tổ chức cũng không thể thay thế cho nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của hệ thống phòng không. Trong tình thế đó, không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa của hệ thống phòng không, chúng không chỉ trở thành vũ khí răn đe xâm lược mà còn giữ vai trò quan trọng bảo đảm sự ổn định quốc phòng.
Những phân tích, tính toán và kinh nghiệm to lớn mà các nước có tiềm lực khoa học quân sự tiên tiến trên thế giới tích luỹ được trong lĩnh vực chế tạo vũ khí và phương tiện phòng không cho thấy, phương pháp cổ điển nhất để đạt được hiệu quả cao của các tổ hợp phòng không đã được đề cấp ở trên, là thành lập tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS), được thiết kế như một hệ thống Trinh sát - Tiến công tự động hoá đồng bộ bao gồm các hệ thống đi kèm sau đây được hợp nhất lại và tương hợp về cả phần cứng và phần mềm:
- Hệ thống trinh sát cảnh báo sớm (REWS), kết hợp các trạm radar mặt đất và tổ hợp radar có tầm phát hiện khác nhau (kể cả radar ngoài đường chân trời), làm việc ở nhiều dải sóng khác nhau, cũng như các tổ hợp radar đặt trên vũ trụ và trên máy bay.
- Hệ thống tên lửa, pháo phòng không bao gồm các tổ hợp phòng không tầm xa có khả năng hoàn thành các nhiệm phòng chống tên lửa chiến dịch chiến thuật, cũng như các tổ hợp tên lửa phòng không tầm gần và rất gần.
- Hệ thống tình báo điện tử (ELNT) và cảnh báo sớm.
- Hệ thống điều khiển tác chiến, để nối kết tất cả các hệ thống nói trên vào một tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ, bảo đảm sự phối hợp với các máy bay tiêm kích và những hệ thống phòng không tương tự khác ở cấp độ cao hơn (cùng với các sở chỉ huy và điểu khiển của nó).
- Các phân hệ bảo dưỡng kỹ thuật đặc chủng.
Tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS) ở cấp độ này sẽ có khả năng tác chiến hiệu quả trước các dạng tiến công đường không dưới đây trong điều kiện đối phương sử dụng ồ ạt các vũ khí tiến công và gây nhiễu tập trung:
- Các tên lửa hành trình phóng từ mặt đất, trên không và trên biển, thành phần tiến công của vũ khí chính xác cao trong giai đoạn bay, kể cả các tên lửa chống radar. VD: Tomahawk (BGM-109) hoặc DongHai 10 (DH-10), C-801, 802, 602,...
- Máy bay tiến công chiến lược và chiến thuật, kể cả các máy bay có khả năng tàng hình ở tất cả các độ cao tác chiến (từ 10 -15m đến 25 -30km) và ở các cự ly lên tới 150 – 200km. VD: F-117A, B52, các loại J,...
- Tên lửa đường đạn chiến thuật, chiến dịch - chiến thuật, tên lửa đường đạn tầm trung tất cả các loại. VD: Trident, Dong Feng,...
- Các máy bay lên thẳng chi viện hoả lực trước khi chúng bay tới giới hạn tác chiến của vũ khí trên máy bay (ở cự ly 10km hoặc hơn), các phương tiện bay không người lái điều khiển từ xa (UFV-unmanned flying vehicles). VD: AH-64A/D, Z-9, 10...
Tất nhiên, đây là phương án của những nước có tiềm lực quân sự lớn mạnh. NC chưa đủ tiền để mua cũng như chưa đủ trình độ để khai thác sử dụng những hệ thống như thế - ít nhất là cho đến giờ.
Để hoàn thành những nhiệm vụ nói trên, hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ cần phải là một tổ hợp các phương tiện thu thập dữ liệu, điều khiển hoả lực và phương tiện phòng không, được tích hợp về mặt kỹ thuật và logic vào một hệ thống phòng thủ liên kết thông qua các phương tiện điều khiển tác chiến tự động hoá cao. Sau đây là một số những đặc điểm chức năng khác biệt của các phân hệ trong hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS):
- Hệ thống trinh sát cảnh báo sớm (REWS) phải kiểm soát liên tục không phận (cả trên không và trên biển) khu vực/ vùng trách nhiệm và cung cấp dữ liệu cảnh báo phục vụ việc ra quyết định của những người chỉ huy ở cấp cao nhất của hệ thống phòng không, cũng như cung cấp dữ liệu trực tiếp đến các sở chỉ huy và điều khiển hệ thống phòng không, các phương tiện hoả lực phòng không - chống tên lửa đường đạn và phương tiện tác chiến điện tử, máy bay tiêm kích, được kết nối với các sở chỉ huy phòng không và những nơi có sử dụng tin khác.
Để hoàn thành những nhiệm vụ được đề cập ở trên, các phương tiện radar của hệ thống trinh sát - cảnh báo sớm cần tạo thành trường radar thường trực và trường radar chỉ làm việc ở chế độ chiến đấu (được giữ bí mật).
Giải pháp hiệu quả của những nhiệm vụ nói trên của hệ thống REWS được bảo đảm bằng việc sử dụng các radar ngoài đường chân trời, radar sóng mét và radar sóng đề xi mét làm việc ở chế độ trực chiến và radar làm việc ở chế độ chiến đấu, có khả năng phát hiện tất cả các kiểu loại vũ khí tiến công đường không (kể cả các mục tiêu tàng hình), cũng như sử dụng các radar quét hình tròn và radar chiến đấu quét theo chương trình trong đội hình của các hệ thống/tổ hợp phòng không. Ngoài ra, REWS cần có các phương tiện tình báo điện tử ELINT, các phương tiện trinh sát vô tuyến – trinh sát kỹ thuật vô tuyến (radar thụ động). Hiệu quả của các phương tiện này đã được kiểm chứng trong cuộc xung đột Nam Tư.
Sau đây, chúng ta thử tham khảo các loại radar của Nga có thể sử dụng cho khả năng của radar trực chiến và radar làm nhiệm vụ chiến đấu trong CAADS:
- Các radar sóng mét như radar Nebo (55Zh6), Nebo SV (1L13-3), Nebo SVU (1L119), Resonance –E.
Radar 1L13-3 NEBO SV. - Các radar sóng deximet như Protivnic –GE, Gamma –DE, Gamma –S1, 1L117/1L118, Kasta 2E2 (39N6E), Kasta 2E1 (51U6).
Các radar loại cũ đã được hiện đại hoá như P-37, P-18M và P-19, có đặc điểm là tính kháng nhiễu tạp âm được cải thiện và đo toạ độ tự động, cũng có thể được sử dụng cho các mục đích nêu trên.
Radar làm việc ở chế độ trực chiến cung cấp sự phát hiện các mục tiêu trên không chiến lược và chiến dịch ở độ cao trung bình và độ cao lớn từ cách xa 380 - 400km, tức là thời gian bay khoảng 13 -22 phút. Thời gian bay này được xem như đủ để đưa các phương tiện phòng không tích cực vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Một bộ phận của những radar đề cập ở trên có khả năng phát hiện các tên lửa đường đạn. Các radar ngoài đường chân trời cung cấp sự phát hiện tất cả các kiểu vũ khí tiến công đường không ở cách xa tới 1100 km hoặc hơn - nhưng cái này thì VN chưa đủ sức.
Các radar làm việc ở chế độ chiến đấu có thể là radar công suất cao ba toạ độ (3D) với đặc trưng là tự động đo các toạ độ mục tiêu, ví dụ như radar: 96L6E (của S-300PMU1), 9S15MT (Bzor-3), 9S18M17 (Kupol-M) và radar quét theo chương trình 9S19M2 (Imbir).
Các radar làm việc ở chế độ chiến đấu cung cấp sự phát hiện vũ khí tiến công đường không ở tất cả mọi độ cao chiến đấu. Những radar này liên kết cùng với radar làm việc ở chế độ trực chiến tạo thành một trường radar ba toạ độ chống nhiễu tạp âm phục vụ trinh sát và điều khiển chiến đấu đối với các hệ thống/tổ hợp phòng không và dẫn đường cho máy bay tiêm kích. Những radar làm việc ở chế độ chiến đấu cung cấp số liệu trực tiếp cho các phương tiện hoả lực.
Các trạm/trung tâm xử lý dữ liệu như PORI –P1ME, PORI –P2VME, PORI-P3 xử lý thông tin radar, cung cấp thông tin xử lý cấp hai và cấp ba, và chuyển tới các trạm/ trung tâm chỉ huy tự động hoá của hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS) thời gian thực.
Logged
Như ta đều biết, vũ khí tàng hình (chủ yếu là phương tiện bay) lợi hại ở chỗ nó gần như "bịt mắt" được các loại radar cảnh báo sớm, dễ dàng luồn sâu vào trung tâm hệ thống phòng thủ để đánh đòn công kích kiểu "phẫu thuật" nhằm vào các SCH, trung tâm điều khiển hệ thống PK,...Trong tác chiến hiện đại, nó sẽ là tên lính tiên phong cho chiến dịch SEAD (Suppression Of Enemy Air Defense ), tạm dịch là: Vô hiệu hoá hệ thống phòng không đối phương.
Về phía ta, ngụy trang, nghi binh và liên tục cơ động rồi nhưng vẫn phải đánh trả chứ, chả nhẽ để nó "tung tăng" muốn làm gì thì làm trên bầu trời của ta à? Vậy ta phải làm gì để đánh trả?
Máy bay tàng hình có vũ khí chính là "tàng hình", bóc được lớp áo thường được khóac màu huyền thoại này ta sẽ thấy nó cũng như mọi loại máy bay khác, cũng bị lock, bị theo dõi và bị bắn rơi. Có khi còn dễ bị bắn rơi hơn các loại khác ấy chứ!
Ta thử tìm cách bóc cái áo tàng hình này nhé! Để phát hiện mục tiêu tàng hình thì chỉ còn cách sử dụng radar, nhưng không phải loại radar nào cũng có thể phát hiện máy bay tàng hinh. Hiện nay trên thế giới có xu hướng sử dụng các loại radar sau để chống máy bay tàng hình:
- Radar sóng dài (sóng m): Vì hiện nay vũ khí tàng hình sử dụng vật liệu hấp thụ sóng chủ yếu là để đối phó radar có bước sóng cm, nếu mở rộng bước sóng radar ra 2 đầu tới bước sóng m, bước sóng mm và bước sóng hồng ngoại, bước sóng lazer, sẽ có khả năng chống tàng hình nhất định. Ví dụ, radar 96L6/96L6E/96L6E2 thuộc họ tên lửa phòng không SA-10 của Nga là thuộc loại này, tần suất làm việc là 3 tỉ Hz, đồng thời còn có các trang thiết bị khác hỗ trợ như thiết bị hồng ngoại, lazer... có thể phát hiện được dấu vết vũ khí tàng hình ở cự ly nhất định.
- Radar sóng xung kích: Radar sóng xung kích là một loại radar kiểu mới có dải tần siêu rộng xuất hiện vào cuối những năm 80. Đó là loại radar lợi dụng mạch xung hình chữ nhật có thời gian phóng liên tục trực tiếp cực ngắn, công suất cực cao, phạm vi tần phổ phân bố năng lượng có thể từ gần như một chiều đến vài nghìn Hz. Khi loại mạch xung này phóng tới mục tiêu sẽ sinh ra sóng phản hồi, có độ phân giải khá cao, có thể nhận biết được các bộ phận cấu thành của mục tiêu từ các cự ly hữu hiệu, cấu thành một hình ảnh tổng hợp về mục tiêu có thể nhận biết được, có hiệu quả khá tốt trong việc chống các loại vũ khí sử dụng vật liệu sơn phủ để tàng hình.
- Radar mặt đất đôi (đa): Radar mặt đất đôi (đa) bố trí một bộ máy phát và một bộ máy thu ở những địa điểm khác nhau. Radar mặt đất đã là bố trí từ 2 máy thu trở lên ở những địa điểm khác nhau, chỉ cần một trong số những máy thu này thu được sóng phản hồi của mục tiêu tàng hình là toàn bộ hệ thống có thể theo dõi liên tục mục tiêu. Radar mặt đất đôi (đa) có thể sử dụng nhiều máy thu khác nhau để thu bắt các thông tin tán xạ từ phía trước và cạnh sườn mục tiêu, phát hiện được mục tiêu từ nhiều hướng, đồng thời tiến hành tập trung các thông tin về mục tiêu đã thu bắt được để xử lý, thực hành thống nhất kiểm tra, do vậy chúng phát hiện có hiệu quả các mục tiêu tàng hình. Loại radar Tamara của Cộng hòa Cezch được nhắc đến ở đầu topic này chính là áp dụng nguyên lý đa máy thu kiểu này.
- Radar tầm xa: Nguyên lý cơ bản của loại này là lợi dụng sự lan truyền nhảy của sóng ngắn ở giữa tầng điện ly và mặt đất để phát hiện các mục tiêu trên đường chân trời. Vì tín hiệu do radar phóng đi có thể thông qua tầng điện ly hình thành khúc xạ tương xứng với đường phóng, nên có thể chiếu xuống mục tiêu, phát hiện mục tiêu từ phía trên. Vì hiện nay phần lớn vũ khí tàng hình chỉ sơn phủ vật liệu tàng hình ở bộ phận mũi và phần dưới bụng, do vậy loại radar này có thể phát hiện có hiệu quả các loại vũ khí tàng hình, đặc biệt là đối với loại máy bay tàng hình có miệng hút khí của động cơ ở phía trên cánh máy bay, thì hiệu quả phát hiện và theo dõi càng cao. Tuy nhiên, loại radar này có kích thước rất lớn, chỉ có thể đặt cố định và cũng không hề rẻ nên chỉ các cường quốc quân sự như Nga, Mỹ mới có thể trang bị.
Xét một vài cuộc chiến tranh gần đây như: chiến dịch "Bão táp sa mạc" của lực lượng đa quốc gia trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, trong chiến dịch tiến công đường không của NATO ở Bôxnia năm 1995, các cuộc tập kích đường không của Mỹ ở Iraq trong các năm 1996 và 1998, các cuộc tập kích đường không của NATO vào Nam Tư năm 1999, Iraq 2003 cho thấy một thực tế là hầu hết các loại tên lửa - máy bay hiện nay của các cường quốc quân sự như Mỹ, Anh, Pháp, TQ đều thuộc loại vũ khí chính xác cao, và thuộc thế hệ vũ khí chính xác cao thứ ba hoặc thứ tư. Trong khi đó, các hệ thống và phương tiện phòng không ở hầu hết các nước trên thế giới được đánh giá là những vũ khí thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai, vốn đã có hàng chục năm chưa được hiện đại hoá vì nhiều lý do khác nhau. Các chiến thuật áp dụng trong tác chiến và cơ cấu tổ chức hệ thống phòng không cũng chưa được cải thiện nhiều; các phương tiện phòng không hiện đại vẫn chưa xuất hiện. Thực tế này dẫn đến hiệu quả thấp của các hệ thống phòng không ở các nước khi so với vũ khí tiến công đường không hiện đại.
Trong quá trình diễn ra các cuộc xung đột đã để cập ở trên, cho dù với số lượng tương đối nhỏ vũ khí chính xác cao (7% đến 10%) đã gây thiệt hại cho bên phòng thủ tới mức 80-90%, điều này trong nhiều trường hợp là rất quan trọng, quyết định hậu quả của đòn tiến công đường không hoặc toàn bộ chiến dịch. Cũng cần nhấn mạnh rằng vũ khí chính xác cao vẫn đang được cải tiến không ngừng. Ví dụ, trong chiến dịch tiến công đường không của NATO vào Nam Tư, không quân Mỹ lần đầu tiên đã đưa vào sử dụng bom hiệu chỉnh đường bay kết hợp với đầu chiến đấu chứa sợi cacbon (bom graphit) để đánh phá hệ thống cấp điện của đối phương. Ngoài ra, vũ khí chính xác cao với các hệ thống tự dẫn và điều khiển khác nhau (đầu tìm quang học, hồng ngoại, truyền hình, laser, radar và vô tuyến) đã được sử dụng rộng rãi, kể cả những vũ khí được dẫn đường bằng hệ thống đạo hàng theo vệ tinh NAVSTAR.
Vũ khí chính xác cao, xét theo nghĩa là phương tiện tiến công và là mục tiêu của radar phòng không, có những đặc điểm sau đây:
- Dải góc tiếp cận tới mục tiêu rộng: bắt đầu từ địa hình tính theo phương ngang bám theo đường bay tới độ cao từ 30 – 60 m lao xuống ở các góc 45 độ đến 60 độ hoặc hơn.
- Tiết diện phản xạ hiệu dụng thấp (LCS) tính trung bình khoảng 0,1 mét vuông và còn thấp hơn ở bán cầu trước ở dải sóng centimet (1,5 -3cm).
- Vận tốc bay hành trình và vận tốc bay tối đa cao (200 đến 700 m/s), các lựa chọn của vận tốc bay nói trên (bay với gia tốc hoặc bay giảm tốc) và trị số chịu quá tải cao (tới 8 - 10G).
- Độ bền cơ khí của các vũ khí như: bom hiệu chỉnh đường bay hoặc bom có điều khiển rất cao.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta phải nhận thức được rằng không có loại vũ khí nào là không thể bị bắn hạ, việc lập kế hoạch phòng không, kiểm soát bầu trời và áp dụng chiến thuật phòng không một cách thông minh, kể cả áp dụng các phương pháp không chính thống của những phương tiện phòng không lạc hậu, cũng có thể tạo được cơ hội gây thiệt hại đáng kể cho bên tiến công, ví dụ như trường hợp F-117A bị SA-3 của Nam Tư bắn rơi đã nói ở đầu topic này.
Để đối phó với kiểu chiến tranh phi đối xứng có thể xảy ra, hiện đại hoá các loại vũ khí phòng không thế hệ 1 và 2 nhằm tạo ra tính năng chiến đấu tương xứng đủ để đánh trả những vũ khí tấn công đường không có độ chính xác cao hiện nay vẫn được xem là một giải pháp có thể chấp nhận được để nâng cao hiệu quả của các hệ thống phòng không.
Một yếu tố khác cho phép tăng đáng kể hiệu quả của các hệ thống phòng không là phối hợp với các phương tiện tác chiến điện tử (EW). Làm được điều này sẽ tăng khả năng thu thập được các số liệu điện tử và vô tuyến tại các trung tâm điều khiển phòng không, đồng thời sẽ giảm được thời gian phát sóng của radar và kết quả là khả năng sống còn cũng sẽ tăng lên. Hơn nữa, việc gây nhiễu các radar máy bay sẽ gây cản trở cho các hoạt động bay của máy bay và cả hoạt động điều khiển vũ khí, đồng thời còn gia tăng xác suất đánh chặn thành công các vũ khí tiến công đường không của đối phương thông qua việc dồn ép chúng vào những khu vực phát huy được hết hiệu quả của vũ khí phòng không.
Đã có nhiều bằng chứng thực tế khẳng định rằng sự thành công của một cuộc chiến tranh (xung đột quân sự) phụ thuộc đáng kể vào kết quả của sự đối đầu giữa tiến công đường không và hệ thống phòng không. Dưới những điều kiện hiện nay, cho dù bên phòng thủ có bảo tồn và triển khai được một lực lượng lục quân mạnh, có tổ chức cũng không thể thay thế cho nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của hệ thống phòng không. Trong tình thế đó, không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa của hệ thống phòng không, chúng không chỉ trở thành vũ khí răn đe xâm lược mà còn giữ vai trò quan trọng bảo đảm sự ổn định quốc phòng.
Những phân tích, tính toán và kinh nghiệm to lớn mà các nước có tiềm lực khoa học quân sự tiên tiến trên thế giới tích luỹ được trong lĩnh vực chế tạo vũ khí và phương tiện phòng không cho thấy, phương pháp cổ điển nhất để đạt được hiệu quả cao của các tổ hợp phòng không đã được đề cấp ở trên, là thành lập tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS), được thiết kế như một hệ thống Trinh sát - Tiến công tự động hoá đồng bộ bao gồm các hệ thống đi kèm sau đây được hợp nhất lại và tương hợp về cả phần cứng và phần mềm:
- Hệ thống trinh sát cảnh báo sớm (REWS), kết hợp các trạm radar mặt đất và tổ hợp radar có tầm phát hiện khác nhau (kể cả radar ngoài đường chân trời), làm việc ở nhiều dải sóng khác nhau, cũng như các tổ hợp radar đặt trên vũ trụ và trên máy bay.
- Hệ thống tên lửa, pháo phòng không bao gồm các tổ hợp phòng không tầm xa có khả năng hoàn thành các nhiệm phòng chống tên lửa chiến dịch chiến thuật, cũng như các tổ hợp tên lửa phòng không tầm gần và rất gần.
- Hệ thống tình báo điện tử (ELNT) và cảnh báo sớm.
- Hệ thống điều khiển tác chiến, để nối kết tất cả các hệ thống nói trên vào một tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ, bảo đảm sự phối hợp với các máy bay tiêm kích và những hệ thống phòng không tương tự khác ở cấp độ cao hơn (cùng với các sở chỉ huy và điểu khiển của nó).
- Các phân hệ bảo dưỡng kỹ thuật đặc chủng.
Tổ hợp phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS) ở cấp độ này sẽ có khả năng tác chiến hiệu quả trước các dạng tiến công đường không dưới đây trong điều kiện đối phương sử dụng ồ ạt các vũ khí tiến công và gây nhiễu tập trung:
- Các tên lửa hành trình phóng từ mặt đất, trên không và trên biển, thành phần tiến công của vũ khí chính xác cao trong giai đoạn bay, kể cả các tên lửa chống radar. VD: Tomahawk (BGM-109) hoặc DongHai 10 (DH-10), C-801, 802, 602,...
- Máy bay tiến công chiến lược và chiến thuật, kể cả các máy bay có khả năng tàng hình ở tất cả các độ cao tác chiến (từ 10 -15m đến 25 -30km) và ở các cự ly lên tới 150 – 200km. VD: F-117A, B52, các loại J,...
- Tên lửa đường đạn chiến thuật, chiến dịch - chiến thuật, tên lửa đường đạn tầm trung tất cả các loại. VD: Trident, Dong Feng,...
- Các máy bay lên thẳng chi viện hoả lực trước khi chúng bay tới giới hạn tác chiến của vũ khí trên máy bay (ở cự ly 10km hoặc hơn), các phương tiện bay không người lái điều khiển từ xa (UFV-unmanned flying vehicles). VD: AH-64A/D, Z-9, 10...
Tất nhiên, đây là phương án của những nước có tiềm lực quân sự lớn mạnh. NC chưa đủ tiền để mua cũng như chưa đủ trình độ để khai thác sử dụng những hệ thống như thế - ít nhất là cho đến giờ.
Để hoàn thành những nhiệm vụ nói trên, hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ cần phải là một tổ hợp các phương tiện thu thập dữ liệu, điều khiển hoả lực và phương tiện phòng không, được tích hợp về mặt kỹ thuật và logic vào một hệ thống phòng thủ liên kết thông qua các phương tiện điều khiển tác chiến tự động hoá cao. Sau đây là một số những đặc điểm chức năng khác biệt của các phân hệ trong hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS):
- Hệ thống trinh sát cảnh báo sớm (REWS) phải kiểm soát liên tục không phận (cả trên không và trên biển) khu vực/ vùng trách nhiệm và cung cấp dữ liệu cảnh báo phục vụ việc ra quyết định của những người chỉ huy ở cấp cao nhất của hệ thống phòng không, cũng như cung cấp dữ liệu trực tiếp đến các sở chỉ huy và điều khiển hệ thống phòng không, các phương tiện hoả lực phòng không - chống tên lửa đường đạn và phương tiện tác chiến điện tử, máy bay tiêm kích, được kết nối với các sở chỉ huy phòng không và những nơi có sử dụng tin khác.
Để hoàn thành những nhiệm vụ được đề cập ở trên, các phương tiện radar của hệ thống trinh sát - cảnh báo sớm cần tạo thành trường radar thường trực và trường radar chỉ làm việc ở chế độ chiến đấu (được giữ bí mật).
Giải pháp hiệu quả của những nhiệm vụ nói trên của hệ thống REWS được bảo đảm bằng việc sử dụng các radar ngoài đường chân trời, radar sóng mét và radar sóng đề xi mét làm việc ở chế độ trực chiến và radar làm việc ở chế độ chiến đấu, có khả năng phát hiện tất cả các kiểu loại vũ khí tiến công đường không (kể cả các mục tiêu tàng hình), cũng như sử dụng các radar quét hình tròn và radar chiến đấu quét theo chương trình trong đội hình của các hệ thống/tổ hợp phòng không. Ngoài ra, REWS cần có các phương tiện tình báo điện tử ELINT, các phương tiện trinh sát vô tuyến – trinh sát kỹ thuật vô tuyến (radar thụ động). Hiệu quả của các phương tiện này đã được kiểm chứng trong cuộc xung đột Nam Tư.
Sau đây, chúng ta thử tham khảo các loại radar của Nga có thể sử dụng cho khả năng của radar trực chiến và radar làm nhiệm vụ chiến đấu trong CAADS:
- Các radar sóng mét như radar Nebo (55Zh6), Nebo SV (1L13-3), Nebo SVU (1L119), Resonance –E.
Radar 1L13-3 NEBO SV.
Các radar loại cũ đã được hiện đại hoá như P-37, P-18M và P-19, có đặc điểm là tính kháng nhiễu tạp âm được cải thiện và đo toạ độ tự động, cũng có thể được sử dụng cho các mục đích nêu trên.
Radar làm việc ở chế độ trực chiến cung cấp sự phát hiện các mục tiêu trên không chiến lược và chiến dịch ở độ cao trung bình và độ cao lớn từ cách xa 380 - 400km, tức là thời gian bay khoảng 13 -22 phút. Thời gian bay này được xem như đủ để đưa các phương tiện phòng không tích cực vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Một bộ phận của những radar đề cập ở trên có khả năng phát hiện các tên lửa đường đạn. Các radar ngoài đường chân trời cung cấp sự phát hiện tất cả các kiểu vũ khí tiến công đường không ở cách xa tới 1100 km hoặc hơn - nhưng cái này thì VN chưa đủ sức.
Các radar làm việc ở chế độ chiến đấu có thể là radar công suất cao ba toạ độ (3D) với đặc trưng là tự động đo các toạ độ mục tiêu, ví dụ như radar: 96L6E (của S-300PMU1), 9S15MT (Bzor-3), 9S18M17 (Kupol-M) và radar quét theo chương trình 9S19M2 (Imbir).
Các radar làm việc ở chế độ chiến đấu cung cấp sự phát hiện vũ khí tiến công đường không ở tất cả mọi độ cao chiến đấu. Những radar này liên kết cùng với radar làm việc ở chế độ trực chiến tạo thành một trường radar ba toạ độ chống nhiễu tạp âm phục vụ trinh sát và điều khiển chiến đấu đối với các hệ thống/tổ hợp phòng không và dẫn đường cho máy bay tiêm kích. Những radar làm việc ở chế độ chiến đấu cung cấp số liệu trực tiếp cho các phương tiện hoả lực.
Các trạm/trung tâm xử lý dữ liệu như PORI –P1ME, PORI –P2VME, PORI-P3 xử lý thông tin radar, cung cấp thông tin xử lý cấp hai và cấp ba, và chuyển tới các trạm/ trung tâm chỉ huy tự động hoá của hệ thống phòng không tự động hoá đồng bộ (CAADS) thời gian thực.