Hạng B2
4/7/11
427
2
0
Tàu ngầm trong thời Đệ nhị Thế chiến:

Phát-xít Đức:

Có thể nói Phát-xít Đức là nước có nhiều hạm đội tàu ngầm nhất trong thời Đệ nhị Thế chiến. Do bị Hiệp ước Versailles (chấm dứt Đệ nhất Thế chiến) hạn chế việc phát triển hải quân tàu mặt nước, lực lượng trên mặt nước của Đức chỉ thật sự được tái xây dựng nghiêm chỉnh khoảng một năm trước khi Đệ nhị Thế chiến nổ ra. Với gỉa thuyết cho rằng để có thể đánh bại Hải quân Hoàng gia Anh qua chiến tranh dưới mặt nước, Quyền chỉ huy Tối cao của quân đội Đức đeo đuổi chiến lược đột kích các tàu thương mại và dừng hẳn mọi công tác xây dựng các tàu mặt nước chủ lực, ngoại trừ các tàu chiến hạng nặng (thiết giáp hạm) lớp Bismarck và hai chiếc tuần dương hạm đang đóng gần xong, để tập trung tất cả nguồn lực vào việc phát triển khẩn cấp tàu ngầm. Mặc dù phải mất gần hết thập niên 1940 để mở rộng các cơ sở chế tạo và khởi động sản xuất hàng loạt, hơn 1000 chiếc tàu ngầm đã được xây dựng khi chiến tranh chấm dứt. Trong suốt Đệ nhị Thế chiến, Đức đã sử dụng tàu ngầm với hiệu quả khốc liệt trong trận Hải chiến Thứ nhì ở Đại Tây Dương (Second Battle of the Atlantic), mưu tính cắt đứt các đường tiếp tế cho Vương quốc Anh (chủ yếu là từ Mỹ) bằng cách “đánh chìm nhiều tàu buôn hơn khả năng nước Anh có thể thay thế”. (Đường tiếp tế biển cực kỳ quan trọng đối với người dân Anh thời bấy giờ vì qua đó họ mới có được thực phẩm, nguyên liệu cho công nghệ, nhiên liệu và vũ khí cho quân đội.) Mặc dù các tàu U-boat đã tiêu diệt một số lượng lớn tàu, nhưng cuối cùng chiến lược này đã thất bại. Bởi vì người Anh sau này đã bất ngờ “lượm” được máy đánh mật mã Enigma, thiết bị siêu mật thời đó gúp cho các tàu U-boat liên lạc, tập kết đánh theo chiến thuật “bầy sói” (wolfpack).

Sau khi ra khơi, các tàu U-boat thường hoạt động riêng lẻ, cố tìm các hải đoàn trong những khu vực trách nhiệm đã được cấp cao giao phó. Khi phát giác ra một hải đoàn đang di chuyển tàu ngầm không tấn công ngay (vì các hải đoàn thường có tàu hộ tống nhỏ đi theo), mà chỉ lẳng lặng theo dõi và hướng dẫn các tàu ngầm khác đến cùng khu vực. Sau khi tập kết đông đủ, “bầy sói” mới tấn công hàng loạt, thường là vào ban đêm khi tàu nổi lên, vì vận tốc tàu ngầm chạy nổi trên mặt nước thường nhanh hơn các tàu hộ tống nhỏ của Đồng Minh.

Từ tháng 09/1939 đến đầu năm 1943, lực lượng U-boat đạt được thắng lợi chưa từng thấy với các chiến thuật trên, nhưng vì có số lượng quá ít để có những thành công dứt khoát. Đến mùa xuân năm 1943, việc xây dựng tàu U-boat của Đức đã có công suất cao nhất nhưng hầu như trở thành vô hiệu bởi việc tăng cường số lượng tàu hộ tống, máy bay bảo vệ, cũng như những đột phá công nghệ như radar và sonar. Bằng việc sử dụng máy dò hướng cao tần, phe Đồng Minh đã có thể phát hiện ra các cuộc truyền thông vô tuyến của tàu ngầm và dẫn các hải đoàn vây quanh các “bầy sói”. Kết quả khá tồi tệ: Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1943, hơn 130 U-boat bị tiêu diệt. Cũng theo đó, thiệt hại của Đồng Minh cũng giảm đáng kể, từ 750000 tấn (bị đánh chìm) trong tháng 3, xuống còn 188000 tấn trong tháng 7. Mặc dù cuộc Hải chiến Thứ nhì ở Đại Tây Dương vẫn tiếp tục cho đến ngày cuối của Thế chiến, lực lượng tàu U-boat đã không chặn đứng nổi làn sóng tiếp tế nhân sự và trang thiết bị, mở đường cho các Chiến dịch Torch, Chiến dịch Husky, và cuối cùng là D-Day - đổ bộ lên bãi biển Normandy.

Khi chiến tranh chấm dứt, đã có gần 3000 tàu Đồng Minh (175 tàu chiến, 2825 tàu buôn) -tương đương 14,4 triệu tấn- bị đánh chìm bởi U-boat. Đức mất tổng cộng 821 U-boats với 433 chiếc trong số đó bị máy bay Đồng Minh đánh chìm; 252 chiếc bị tàu mặt nước đánh chìm; và 25 chiếc là nạn nhân của tàu ngầm khác, số còn lại bị tai nạn hoặc bị trúng thủy lôi. Trong số 40000 thủy thủ phục vụ trên các tàu U-boat thì 28000 (70%) đã hy sinh.

Sinking_of_U-175_2.jpg

“Sát thủ” của các tàu buôn Đồng Minh đang nổi lên…

Đế quốc Nhật:

Trong thời Đệ nhị Thế chiến, Hải quân Đế quốc Nhật đã biên chế nhiều chủng loại tàu ngầm nhất thế giới, gồm có thủy lôi có người lái Kaiten, tàu ngầm nhỏ Ko-hyoteki và Kairyu, các tàu ngầm tầm trung, tàu ngầm tiếp tế đặc biệt và tàu ngầm hạm đội tầm xa. Ngoài ra, còn có tàu ngầm với vận tốc chạy ngầm cao nhất thời đó, và tàu ngầm có mang nhiều máy bay. Tàu ngầm Nhật còn mang được trang bị những ngư lôi tiên tiến nhất cuộc chiến, loại có động cơ đẩy bằng ôxy có tên Type-95.

Tàu ngầm Nhật đã có nhiều thắng lợi tiêu biểu trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, nhất là ở vùng Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, tình huống thay đổi khi Đồng Minh (Mỹ) đổ bộ lên Guadalcanal vào tháng 8/1942 thì các tàu ngầm Nhật bị tách rời nhiệm vụ chiến đấu và phân công chuyên chở các vật dụng cần thiết cho các người lính bị bao vây hoặc chở họ ra khỏi các vùng chiến dịch bị thất bại. Qua đó người Nhật đã chế tạo một số tàu ngầm đổ bộ; kể cả 28 chiếc tàu ngầm vận tải.

Dù sao đi nữa, mặc kệ những tiến bộ kỹ thuật, Nhật Bản đã chọn sử dụng tàu ngầm cho chiến tranh hạm đội và do đó tương đối không thành công, bởi vì tàu chiến thường nhanh, dễ điều dẫn và tự vệ hơn là các tàu buôn. Năm 1942, 1 tàu ngầm Nhật đã đánh chìm hàng không mẫu hạm USS Wasp (CV-7), làm thiệt hại 1 tàu chiến lớn, và thiệt hại đến chìm 1 tàu khu trục, chỉ trong 1 loạt bắn ngư lôi. Trong trận Hải chiến Midway, tàu ngầm Nhật lại giao “cú ân huệ” đánh thiệt hại dứt điểm 1 chiếc HKMH khác, và đánh chím tàu khu trục USS Hammann (DD-412) bằng những cú bắn ngư lôi hàng loạt. Sau đó thì, với lý do thiếu nhiên liệu và mất ưu thế trên không, tàu ngầm Nhật không thể tiếp tục duy trì các thành quả đó. So ra, số lượng tàu Mỹ bị tàu ngầm Nhật đánh chìm chỉ bằng 1/5 số lượng tàu Nhật bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm. Trong những ngày còn lại của cuộc chiến Thái Bình Dương, Nhật chỉ còn có 33 chiếc tàu ngầm, 7 trong số đó làm nhiệm vụ huấn luyện.

I400_2.jpg

Tàu ngầm lớp I-400 của Hải quân Đế quốc Nhật là loại tàu ngầm lớn nhất của Đệ nhị Thế chiến.

NOVAmidgets.jpg

Với nhiều tuyệt vọng hơn là hy vọng, Đế quốc Nhật đã tiến hành một chương trình đồ sộ chế tạo tàu ngầm nhỏ và tàu ngầm tự sát. Tháng 10/1945, 84 chiếc tàu ngầm nhỏ thuộc 4 mẫu thiết kế khác nhau, vẫn còn nằm trên bãi cạn.
 
Last edited by a moderator:
DG
Hạng B1
29/12/10
81
0
6
37
DD
tàu ngầm Đức bán khá chạy : có bán cho Thổ NHĩ Kỳ, Bồ Đào Nha, Hàn Quốc, Israel, Nam Phi,...
 
Hạng F
30/3/09
6.126
20.149
113
Mới đọc được bài này.
Không Ba Me VN Anh Hung, không chịu được
"Nga
Là một trong hai cường quốc vũ khí hàng đầu thế giới, Nga không thể không có trong tay loại tàu chiến được mệnh danh là bá chủ của đại dương. Thừa hưởng hầu hết di sản vũ khí quân sự từ thời Liên Xô, Nga đang sở hữu một chiếc tàu sân bay mang tên Đô đốc Kuznetsov với trọng tải lên tới hơn 67.000 tấn. Tàu Đô đốc Kuznetsov được hạ thủy từ đầu những năm 1990, hiện được triển khai trong Hạm đội Biển Bắc. Chiếc Kuznetsov có chiều dài 300m, chở được 26 chiến đấu cơ và 24 trực thăng. Tuy nhiên, tàu sân bay của Nga kém hiện đại hơn tàu sân bay Mỹ rất nhiều. Trong khi tàu sân bay của Nga vẫn còn chạy bằng động cơ hơi nước thì các tàu của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân.

http://www6.vnmedia.vn/VN...i_duong_17_236729.html
 
Hạng C
28/11/06
865
23.410
93
54
tonyhao nói:
Mới đọc được bài này.
Không Ba Me VN Anh Hung, không chịu được
"Nga
Là một trong hai cường quốc vũ khí hàng đầu thế giới, Nga không thể không có trong tay loại tàu chiến được mệnh danh là bá chủ của đại dương. Thừa hưởng hầu hết di sản vũ khí quân sự từ thời Liên Xô, Nga đang sở hữu một chiếc tàu sân bay mang tên Đô đốc Kuznetsov với trọng tải lên tới hơn 67.000 tấn. Tàu Đô đốc Kuznetsov được hạ thủy từ đầu những năm 1990, hiện được triển khai trong Hạm đội Biển Bắc. Chiếc Kuznetsov có chiều dài 300m, chở được 26 chiến đấu cơ và 24 trực thăng. Tuy nhiên, tàu sân bay của Nga kém hiện đại hơn tàu sân bay Mỹ rất nhiều. Trong khi tàu sân bay của Nga vẫn còn chạy bằng động cơ hơi nước thì các tàu của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân.

http://www6.vnmedia.vn/VN...i_duong_17_236729.html

Theo minh nghi thi dong co la steam turbine (tua bin hoi nuoc) la dung hon, chac la dich thuat co van de? Con nang luong de sinhy ra hoi nuoc thi co the la dau (lo hoi) hoac lo hat nhan de boc hoi nuoc chay tua bin.
 
Hạng B2
4/7/11
427
2
0
tonyhao nói:
Mới đọc được bài này.
"Nga
Là một trong hai cường quốc vũ khí hàng đầu thế giới, Nga không thể không có trong tay loại tàu chiến được mệnh danh là bá chủ của đại dương. Thừa hưởng hầu hết di sản vũ khí quân sự từ thời Liên Xô, Nga đang sở hữu một chiếc tàu sân bay mang tên Đô đốc Kuznetsov với trọng tải lên tới hơn 67.000 tấn. Tàu Đô đốc Kuznetsov được hạ thủy từ đầu những năm 1990, hiện được triển khai trong Hạm đội Biển Bắc. Chiếc Kuznetsov có chiều dài 300m, chở được 26 chiến đấu cơ và 24 trực thăng. Tuy nhiên, tàu sân bay của Nga kém hiện đại hơn tàu sân bay Mỹ rất nhiều. Trong khi tàu sân bay của Nga vẫn còn chạy bằng động cơ hơi nước thì các tàu của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Hệ thống động lực đẩy cho tàu sân bay Kuznetsov:
Steam turbines, 8 turbo-pressurised boilers, 4 shafts, 200,000 hp (150 MW)
2 × 50,000 hp (37 MW) turbines
9 × 2,011 hp (1,500 kW) turbogenerators
6 × 2,011 hp (1,500 kW) diesel generators
4 × fixed pitch propellers
Range: 8,500 (15,700 ) at 18 kn (21 mph; 33 km/h)

Hệ thống động lực đẩy cho tàu sân bay Nimitz:
2 × Westinghouse A4W nuclear reactors
4 × steam turbines
4 × shafts
260,000 shp (194 MW)
Range: Unlimited; 20 years (refurbishment)

- Cả hai đều dùng steam turbine ("tục-bin khí" mặc dù thực tế vẫn là "hơi nước"). Tàu Nga dùng động cơ dầu cặn (diesel) để... nấu nước. Tàu Mỹ thì dùng lò nguyên tử để làm chuyện đó. Xài dầu cặn thì phải châm bình sau 10000 km (nếu không nói là sớm hơn vì nếu muốn phản ứng kịp thời trong mọi tình huống thì bình nhiên liệu phải luôn được châm đầy). Xài năng lượng nguyên tử thì hầu như là vô thời hạn, chỉ bị hạn chế bởi lượng thực phẩm và nhiên liệu cho máy bay, đạn dược trên tàu. Các HKMH Mỹ thì cứ 20 năm mới đi bảo dưỡng một lần (update các hệ thống). Tàu sân bay Nga thì phải sửa chữa, bảo dưỡng liên tục.
 
Last edited by a moderator:
Hạng B2
4/7/11
427
2
0
Tàu ngầm trong thời Đệ nhị Thế chiến (tiếp theo):

Liên Xô:

Khi Đệ nhị Thế chiến vừa nổ ra thì Liên Xô có hạm đội tàu ngầm lớn nhất: 218 chiếc. Sau đó tăng thêm 54 chiếc và bị tiêu diệt 109 chiếc. Tàu ngầm Liên Xô đã không làm ảnh hưởng cục diện chiến tranh như trên bộ. Tuy nhiên, họ cũng “ghi bàn” với kỷ lục gây thiệt hại lớn nhất trong lịch sử hàng hải năm 1945: Đánh chìm tàu chở khách Wilhelm Gustloff, lúc đó bị Đức tận dụng chở lính Đức di tản khỏi sự tiến công của Hồng Quân. Trong số hơn 8000 người trên tàu chỉ có ít hơn 1000 được cứu sống.

Tàu ngầm lớp Dekabrist là lớp đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Liên Xô sau thành công Cách mạng Tháng Mười. Chương trình Xây dựng tàu Hải quân Liên Xô năm 1926 ủy quyền các nhu cầu hoạt động-tác chiến và mẫu thiết kế đã được trình bày từ năm 1923. Năm 1925, một phái đoàn hải quân LX thu được bản vẽ tàu ngầm lớp Balilla của người Ý và sử dụng các khái niệm thiết kế đó chung với các ý tưởng của Liên Xô. Các tàu ngầm này được chế tạo ở xưởng đóng tàu Ordzhonikidze và đưa vào biên chế năm 1930. Tàu đầu tiên sang năm 1934 được đặt cho ký tự D-1 và năm 1940 bị tai nạn chìm ở vịnh Molotovskiy trong một chuyến tập luyện. Tàu ngầm lớp Dekabrist có 7 ngăn và có khá nhiều lỗi kỹ thuật cũng như yếu kém xây dựng. Vấn đề lớn nhất là thời gian lặn rất chậm và thiếu thăng bằng trong khi lặn. Trong số 6 chiếc được biên chế thì hết 3 chiếc bị Đức đánh chìm, 2 chiếc bị tai nạn.

Narodovolets.JPG

Tàu ngầm lớp Dekabrist - Nrodovolets (D-2) là chiếc duy nhất còn sót lại được trưng bày ở St. Petersburg.

Tàu ngầm lớn nhất của Hải quân Liên Xô thời Đệ nhị Thế chiến là tàu ngầm lớp “K” (Kreiserskaya). Được chấp thuận thiết kế năm 1936 như là một “tàu ngầm tuần dương” tầm xa với ngư lôi hạng nặng và súng cự ly lớn. Mục đích là hoạt động chung với các hạm đội chiến đấu tầm xa, tàu lớp “K” có lượng choán nước 1490 tấn khi nổi và 2600 tấn khi lặn. Được xem như là tàu ngầm thành công nhất của LX trong thời này, với vận tốc cao và thích ứng biển tốt, tàu lớp này cũng có vỏ kép và 7 ngăn. Dự tính ban đầu còn có mang theo một chiếc thủy phi cơ nhỏ để do thám nhưng sau đó hủy bỏ vì chiếc máy bay quá mỏng mảnh. Trong số 12 chiếc được biên chế thì 5 chiếc bị hủy diệt. Một bản vẽ cải tiến lớp “KU” đã được lên kế hoạch 24 chiếc năm 1941 nhưng không có chiếc nào được chế tạo.

Soviet_submarine_K21.jpg

Tàu ngầm lớp Kreiserskaya


Vương quốc Anh:

Thời Đệ nhị Thế chiến, Lực lượng Tàu ngầm Hải quân Hoàng gia Anh chủ yếu được sử dụng để thi hành vai trò phong tỏa kinh điển của nước Anh. Do đó các tàu ngầm Anh thường hoạt động ở các vùng ven bờ và có khuynh hướng chỉ nổi lên mặt nước về ban đêm. Khu vực hoạt động chính là vùng biển chung quanh Na-Uy, Địa Trung Hải (chống lại đường tiếp tế của trục Phát-xít ở Bắc Phi), và ở vùng Viễn Đông. Tàu ngầm Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động từ Trincomalee (Sri Lanka) và Úc châu đã từng là mối đe dọa liên tục cho tàu Nhật vận chuyển ngang qua eo biển Malacca.

Trong cuộc chiến, tàu ngầm Anh đã đánh chìm 2 triệu tấn tàu vận chuyển của đối phương và 57 tàu chiến tầm cỡ, kể cả 35 tàu ngầm. Trong số này có cả sự kiện duy nhất có dẫn chứng việc một tàu ngầm bắn chìm một tàu ngầm khác khi cả hai đang ở tư thế lặn dưới nước. Đó là cuộc chạm trán giữa tàu ngầm HMS Venturer của Anh và tàu ngầm U-864 của Đức. Trong vụ này, thủy thủ đoàn của HMS Venturer đã dùng cách tính toán bằng tay một giải pháp bắn thành công một mục tiêu di động 3 chiều, một phương pháp kỹ thuật mà sau này trở thành cơ sở cho các hệ thống máy tính mục tiêu phóng ngư lôi hiện đại. Tổng cộng 74 chiếc tàu ngầm Anh đã bị tiêu diệt với đa số, 42 chiếc, là ở Địa Trung Hải.

HMS_Venturer_%28P68%29_%28IWM_FL_004031%29.jpg

Tàu ngầm HMS Venturer (P68) là tàu ngầm duy nhất của Anh được ghi nhận đánh chìm một tàu ngầm khác, tàu U-864 của Đức, khi cả hai đang ở trạng thái lặn.
 
Last edited by a moderator:
Hạng B2
4/7/11
427
2
0
Tàu ngầm trong thời Đệ nhị Thế chiến (tiếp theo):

Hoa Kỳ:

Sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, nhiều tàu mặt nước tiên tiến của hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đã bị tiêu diệt hoặc thiệt hại nặng nề. Các tàu ngầm Mỹ may mắn thoát nạn và triển khai chiến tranh với Nhật ngay sau đó. Thời gian đầu do thiếu các tàu hỗ trợ, tàu ngầm Mỹ buộc phải đơn phương truy lùng và tiêu diệt các tàu mặt nước và tàu ngầm Nhật. Họ đã làm việc này hết sức hiệu quả.

Trong suốt Đệ nhị Thế chiến, lực lượng tàu ngầm Mỹ là vũ khí đối hạm, đối tàu ngầm hiệu quả nhất trong toàn bộ kho vũ khí của Mỹ. Mặc dù chỉ chiếm khiêm tốn 2% tổng lượng của Hải quân Mỹ, nhưng tàu ngầm của họ đã tiêu diệt hơn 30% tổng lực của Hải quân Nhật. Tàu ngầm Mỹ cũng đã tiêu diệt hơn 60% đội tàu buôn của Nhật, làm tê liệt khả năng tiếp tế các lực lượng quân sự cũng như nền công nghiệp của Nhật Bản. Có thể nói tàu ngầm của Đồng Minh ở Mặt trận Thái Bình Dương đã tiêu diệt nhiều tàu của Nhật hơn tất cả các vũ khí khác kết hợp lại. Kỳ công này được giúp đỡ đáng kể bởi sự thất bại của Hải quân Nhật khi họ không cung cấp thỏa đáng các lực lượng hộ tống cho hạm đội tàu buôn của mình.

Cần phải lưu ý là, nếu như Nhật Bản được coi như đã sở hữu những ngư lôi tốt nhất thời đó, thì Hải quân Mỹ lại sở hữu những ngư lôi tệ nhất. Ví dụ như là ngư lôi Mark 14, thường chúi sâu 3 m hơn bình thường và mang đầu đạn Mk-VI với các tính năng thiếu tin cậy. Hệ thống điều khiển độ sâu không được chỉnh sửa cho tới giữa năm 1943. Ngoài ra, ngư lôi Mark 14 đôi khi còn bị cái tật chạy lòng vòng, và đã khiến tàu ngầm USS Tullibee (SS-284) bị đánh chìm do chính quả ngư lôi của chiếc này phóng đi. Mẫu cải tiến Mark 18 sau đó lại đánh chìm tàu USS Tang (SS-306) trong một lần được phóng đi rồi quay vòng trở lại.

USSTangSS306.jpg

Tàu ngầm USS Tang (SS-306) mặc dù trước đây đã có chiến công lẫy lừng đánh chìm 33 tàu địch, nhưng đã chết yểu bởi chính quả ngư lôi Mark 18 sau khi bắn đi đã… đánh vòng lại.

Trong suốt Đệ nhị Thế chiến, đã có 314 tàu ngầm phục vụ trong Hải quân Mỹ, với gần 260 chiếc được triển khai ở Thái Bình Dương. Ngày 7/12/1941, lúc Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì đã có 111 chiếc trong biên chế. 203 chiếc được tăng cường trong chiến tranh thuộc lớp Gato, Balao, và Tench. Trong số 52 chiếc bị hủy diệt thì 48 chiếc do hành vi thù địch, với hơn 3500 thủy thủ hy sinh, mức tử trận có số phần trăm cao nhất trong các binh chủng quân đội Mỹ. Tàu ngầm Mỹ đã đánh chìm 1560 tàu đối phương, tổng lượng là 5.3 triệu tấn (55% tổng số lượng bị đánh chìm), gồm 8 tàu sân bay, 1 thiết giáp hạm, 3 tuần dương hạm hạng nặng, và hơn 200 tàu chiến các loại. Ngoài ra, đội tàu buôn của Nhật cũng bị thiệt hại 16200 chết, 53400 bị thương, trong số 122000 khi chiến tranh nổ ra.
 
Hạng B2
4/7/11
427
2
0
Tàu Chiến Tuần Duyên

Tàu chiến vùng duyên hải (Littoral Combat Ship) của Hải quân Mỹ, còn gọi là tàu chiến tuần duyên, hoặc tuần duyên hạm (gọi theo ký hiệu là LCS) là một loại tàu mặt nước có trọng lượng tương đối nhỏ, nhằm hoạt động trong các vùng ven biển, gần bờ. Được hình dung như là một loại tàu chiến đấu trên mặt nước nhanh nhẹn, có tính năng tàng hình, và được kết nối thành hệ thống, đủ khả năng đánh bại các chốt phòng thủ và những mối đe dọa phi đối xứng ở vùng duyên hải. Hai lớp tàu loại này đã được chế tạo thử nghiệm cho Hải quân Mỹ: Lớp Freedom (Tự Do) và lớp Independence (Độc Lập). Các mẫu thiết kế của tuần duyên hạm LCS có vóc dáng hơi nhỏ hơn so với tàu khu trục hạng nhẹ (frigate) của Hải quân Mỹ, và có lượng choán nước tương đương những tàu hộ tống (corvette) của hải quân các nước khác.

Tuy nhiên, tuần duyên hạm LCS được thiết kế làm tăng thêm tính năng vận tải tấn công như là một bãi đáp và hangar đủ sức chứa hai chiếc trực thăng SH-60 Seahawk, khả năng phục hồi và hạ thủy các xuồng nhỏ ở phía đuôi tàu, mang theo đủ khối lượng hàng hoá và trọng tải để điều phối một lực lượng đột kích nhỏ có xe thiết giáp dễ dàng chạy lên/xuống đến một phương tiện cảng. Mặc dù khả năng phòng không và đối hạm tương đối yếu hơn là các tàu khu trục hạng nặng, tuần duyên hạm LCS có khái niệm nổi bật về tốc độ cao, không gian chứa các đơn vị chiến đấu linh hoạt và độ mớn nước cạn.

_Z6R9710b.jpg

USS Freedom (LCS-1)

168444.jpg

USS Independence (LCS-2)

Khái niệm đằng sau tuần duyên hạm LCS là “thành lập một dòng tàu khu trục nhỏ, lẹ, có thể điều khiển dễ dàng và tương đối không đắt.” Tàu có thể được tái tạo hình thể bên trong cho các vai trò khác nhau, gồm có chiến tranh chống tàu ngầm và tàu mặt nước, phòng chống thủy lôi, tình báo, theo dõi và do thám, quốc phòng, kiểm soát hàng hải, hoạt động đặc nhiệm, và hậu cần. Nhờ có thiết kế theo kiểu mô-đun, tuần duyên hạm LCS có thể thay thế các tàu chuyên dụng chậm hơn, như là các tàu quét thủy lôi và tàu đột kích cỡ lớn.

Hầu hết các chức năng của các mô-đun nhiệm vụ sẽ được thi hành bởi các phương tiện mang theo như là máy bay trực thăng hoặc các thiết bị không người lái Spartan Scout, hệ thống săn thủy lôi điều khiển từ xa AN/WLD-1 RMS và MQ-8B Fire Scout. Bằng cách thực hiện các chức năng như là quét sonar để săn thủy lôi hoặc tàu ngầm, phóng ngư lôi chống tàu ngầm thù địch ở khoảng cách xa vỏ tàu, sẽ giảm thiểu rủi ro cho thủy thủ đoàn. Đó cũng là mục tiêu của Hải quân Mỹ nhằm “vô nhân hóa tiền tuyến”. Ngoài ra, tuần duyên hạm LCS còn có thể triển khai thủy quân lục chiến.

NAVY_USV_Stingray_lg.jpg

Xuồng không người lái Spartan Scout – USV Stingray

RMS-01.jpg

Thiết bị săn thủy lôi điều khiển từ xa AN/WLD-1 RMS

MQ-8B_Fire_Scout.jpeg

Trực thăng không người lái MQ-8B Fire Scout
 
Last edited by a moderator: