Nói về radar thì Electronically scanning array antenna (ESA) được xem là thành tựu công nghệ radar được phát minh gần đây nhất.
Nó khác với thập niên 60 trở về trước. Người ta phải xoay dĩa để hướng chùm quét. ESA có ưu điểm tạo chùm nhanh agility of the beam, tốc độ quét nhanh hơn quét cơ khí rất nhiều lần.
Nga, Mỹ là 2 nước ứng dụng công gnhệ này trước tiên. Nga có Mig-31 dùng Zaslon ESA radar.
Mỹ có B-1B cũng dùng loại này. Đồng thời hệ thống Aegis hay hệ thống Ballistic Missile Warning Radar cũng dùng công nghệ quét điện tử ESA. Người Mỹ không có máy bay chiến đấu nào dùng công nghệ ESA này.
Họ gọi đây là công nghệ passive electronically scanning array (PESA)
Công nghệ active electronically scanning array (AESA) vẫn chưa bao giờ đươc biết đến cho tới sau chiến tranh lạnh.
Chiếc máy bay đầu tiên trang bị AESA không phải là F-22 mà chính là F-15C. APG-63 V2/3. Trang bị trên 18 máy bay vào năm 2000.
Dự án AESA cho máy bay tàng hình Mỹ bắt đầu năm 1985. Đến 1997 thì APG-77 test trên boeing 757 và năm 2000 thì test trên F-22. Đến 2005 mới sẵn sàng trên F-22.
Theo thông tin từ hãng thì radar chứa 2000 MMICs (emitting modules), mỗi phần tử dài 70mm.
Tầm quét máy bay chiến đấu là 270-300km. tầm quét máy bay ném bom là 490km. Và 150km cho tên lửa.
Góc quét 60 grad in vertical and horizontal, nhưng trong không chiến tầm gần thì 30 grad.
Những thông tin trên mạng đều cho rằng F-22 có thể track trên 100 mục tiêu.
http://www.theregister.co.uk/2009/09/15/ford_taurus_raptor_radar/
APG-79 là dự án AESA cho F-18. Trang bị 2005, radar này nặng 300kg.
APG-81 dành cho f-35.
APG-80 dành cho F-16.
Ở châu Âu, dự án Airborne Multi-mode Solid-state Active-array Radar (AMSAR) bắt đầu 1993. tài chính chia sẽ giữa Anh, pháp. Đức hỗ trợ kỹ thuật.
Năm 1998 radar chỉ có 144 phần tử MMIC.
Sau này tổ hợp tan rã. Eurofighter dùng CAESAR – Captor Active Electronically Scanned Array Radar.
Pháp có dự án riêng gọi là Demonstrateur Radar e Antenna Active. (DRAA)
Thụy Điển (NORA), Israel (ELTA) đều có dự án riêng. Đáng kể là Israel, có thông tin cho là công nghệ không thua kém Mỹ. Pháp thì phải mua công nghệ chip MMIC của Mỹ.
Tổng quan phần tử thu nhận tín hiệu, tầm
APG-77: AESA, 2,000 T/R, 200~230 km
APG-79: AESA, 1,100 T/R, 120~130 km
APG-80: AESA, 1,000 T/R, 110~120 km
CAESAR: AESA, 1,200~1,500+ T/R, 165~220 km
NORA: AESA, 1,000 T/R, 100~120 km+
Về người Nga. họ quan tâm AESA từ cuối thập niên 80. Nhằm trang bị cho máy bay tàng hình Mig-1.42. Radar khi đó có tên N014.
Tuy nhiên công nghệ chip MMIC không sx được nên Nga chuyển qua dùng PESA.
Năm 2006 Zhuk-AE AESA lần đầu tiên test thử trên Mig-35. Chứa 680 phần tử thu phát, do 2 hãng Micran corp. và NIIPP sx. Năm 2007 đem trình diễn ở Ấn Độ. Đó là AESA radar đầu tiên mang đi trình bày trước công cộng.
Trước khi gắn lên Mig-35 thì nó có 1 phiên bản khác, trình bày ở triển lãm MAKS 2005, gồm 1000 MMIC, nhưng nặng hơn 400kg. Sau này họ thu nhỏ lại còn 680 phần tử (170 quadrupled).
radar trên Mig-35 có tầm quét máy bay chiến đấu 130km.
Trên biển thì 200km cho tàu chiến lớn. 120km cho tàu nhỏ.
30km cho nhóm xe tank.
Có thể vẽ bản đồ độ phân giải 1mx1 m ở tầm 20km. Độ phân giải thấp 300mx300m ở tầm 80km.
Góc quét 60 grad horizontal and vertical axis.
Track 30 mục tiêu, tấn công 6 mục tiêu.
MTBF (mean time between failures) 600 giờ, thấp hơn APG-77 tầm 800-1000 giờ, nhưng bằng APG-80.
Việc cải tiến vẫn tiếp tục nhằm nâng tầm.
Hình ở Air show 2007.
Nói chung về AESA thì Nga vẫn đi sau Mỹ. Bởi vì công nghệ vi điện tử, phần mềm...Mỹ đều có căn bản từ lâu, công với nguồn lực kinh tế mạnh. Người Nga sở hữu công nghệ chế tạo chip từ thị trường thương mại. Rồi họ cải tiến dùng vào quân sự. Đó là lợi thế của thời toàn cầu hóa. TQ cũng tương tự Nga vậy.
Thời Nga dùng PESA thì Mỹ không trang bị trên máy bay của họ lọai này. F-15 khi đó vẫn dùng quét cơ. Nhưng khi chuyển qua AESA thì Nga sẽ vất vả theo Mỹ.
@ Em cũng xin trả lời bác Cowar là PESA hay AESA gì đều là quét bằng điện tử, tức cái antenna cố định, solid-state. Nếu muốn xoay thì chỉ nhằm tăng góc quét chứ không phải bắt buộc như thời kỳ quét cơ khí.
Do đó việc thu nhận tín hiệu hay datalink gì đó đều không liên quan gì tới Passive hay Active cả.
Cái khác nhau giữa 2 loại này là PESA chỉ có phần tử dùng chung
1 nguồn phát duy nhất, nó dịch chuyển pha bằng 1 bộ dịch pha điện tử, tức làm các pha trễ nhau theo chu kỳ nào đó do máy tính lập trình.
Còn AESA là 1 hệ thống mà mỗi phần tử là 1 nguồn thu phát tín hiệu riêng biệt chủ động. Mỗi module ở AESA là 1 cộng cụ thu phát với tần số riêng biệt, khác với PESA chỉ có 1 tần số phát ra duy nhất với 1 số lượng nhỏ transmitter.
Điều này làm cho AESA có khả năng sub-beam, quét nhiều mục tiêu hơn.
Nó cũng thay đổi tần số liên tục các chùm xung phát ra. rất khó để gây nhiễu hoặc bị phát hiện.