Trong đời nhà Lý, năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông, một chuyện "tày đình",tự cổ chí kim chắc chưa từng xảy ra với lịch sử Tàu-Việt. Lần đầu tiên nước Việt ta do Lý Thường Kiệt (Ngô Tuấn) là chủ tướng và Tổn Đản làm phó tướng thừa lệnh vua Lý Nhân Tông đem 10 vạn quân binh chia làm 2 đạo chủ động "tấn công xâm lược" Trung Hoa đại lục.
Lý Thường Kiệt dẫn một đạo đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông); Tôn Đản chỉ huy đạo còn lại đánh Ung Châu (Thành Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây). Quan Đô Giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem binh định cứu Ung Châu nhưng bị Lý Thường Kiệt chém chết tại Côn Lôn Quan gần Nam Ninh.
Tôn Đản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày liền, Tô Đam là quan tri châu thành Ung Châu "lì lợm" không lượng sức mình, "ngu dốt mà tưởng mình anh dũng" nhất định không chịu hàng. Đến khi Tôn Đản và quân nhà Lý hết lòng hợp sức công thành sắp phá được thành, thì Tô Đam tự biết mình không thức thời và hiểu được thời cuộc,lúc đó hối đã muộn nhưng vẫn cố ra vẻ "trung trinh" đem cả gia đình 36 người ra tự đốt mà chết trước. há như vậy chẳng phải là "ngu mà lì" chết cũng đáng hay sao? Chỉ có điều, quân dân trong thành thấy cái gương đó cũng nhất quyết bắt chước quan tri châu Tô Đam, không ai chịu hàng. Quân nhà Lý vào thành, thấy vậy, sôi tiết-nóng máu, lòng đầy căm hận do quân công thành chết cũng nhiều nên Lý Thường Kiệt hạ lệnh chém giết toàn bộ "ai không đầu hàng", rồi đốt thành làm gương xem cái khí tiết người Hán lớn đến đâu? vậy mà thây chất đầy, đồng máu chảy thành sông, giết gần 6 vạn người, thành Ung Châu thành tro bụi, san phẳng thành bình địa mà vẫn không hàng; quân lệnh đã ban, quân dân đất Việt dù hồn đầy "kinh Phật" cũng đành phải giết hết, tổng cộng gần 6 vạn người (58000 người). Thật là chỉ tại quan tri châu Tô Đam không thức thời lượng sức làm chết gần 6 vạn, âu đó cũng là "bài học cho dân phương bắc sau này" nếu dám coi thường dân Việt đây!
Biết được chuyện đó, quân Lý đi đến đâu, dân các cùng Quảng Đông, Quảng Tây không còn dám "điên cuồng chống đỡ" như trước, quá sợ uy Lý Thường kiệt, nên phần lớn ra hàng hoặc chống đỡ yếu ớt mà thôi. Tổng cộng lần tấn công này, Lý Thường Kiệt và Tô Đam "giết nhầm" 10 vạn "con bọ khựa", bắt hàng vạn tù binh về làm nô tì và con tin.
Nghe tin này, Tống triều sợ lắm, nhưng biết sức mình không dám một mình chống chọi, bèn sai Quách Quỳ- Triệu Tiết đem 9 tướng quân và 10 vạn binh mã, 20 vạn dân phu, 1 vạn ngựa chiến hợp cùng Chiêm Thành và Chân Lạp tấn công trả thù nước ta.
Thế nhưng quân Tống vừa tiến vào địa hạt nước ta thì bị Lý Thường Kiệt chặn lại ở sông Như Nguyệt (sông Cầu- Bắc Ninh), chưa kịp đánh trận nào, nửa đêm nghe lời sấm truyền rằng:
"Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Quân Tống tưởng đó là sấm truyền-lệnh từ trời ban xuống, lại nhớ cảnh quân lính nhà Lý hạ thành, giết 6 vạn quân binh như giết "bầy cừu", sợ quá buông giáo, vũ khí quân lương chạy dài. Quách Quỳ tức lắm, cố đốc thúc quân sĩ đánh bừa.........Do 3 nước quân Tống, Quân Chiêm thành, Chân Lạp hợp sức đánh 1 mình Đại Việt ta. Vua nhà Lý nghĩ mưu đánh lâu không tiện, đành giả vờ hòa, thuận hoãn binh lui về.......Quân Tống mang qua 10 vạn tinh binh,lúc về hao hơn quá nửa đủ thấy độ anh dũng cũa quan quân binh nhà Lý và khí thế bên ta lúc này.
Vua Chiêm Thành hèn hạ, ngu dốt thừa cơ hợp sức cùng nhà Tống đánh ta nhằm chiếm lại 3 châu, sau khi hòa với quân Tống, bình định được tình hình. Năm 1103, Lý Thường Kiệt lúc ấy đã ngoài 70, đem quân đánh trả thù chuyện xưa bắt vua Chiêm Thành là Chế Ma Na thua chạy dài, phải trả lại 3 châu (Quảng Bình, Quảng Trị) cho ta mà lúc trước Chế Củ đã dâng, thừa cơ hợp lực cùng quân Tống xâm lược lúc bấy giờ "hôi của". Đúng là "cái gì của Ceasar phải trả lại cho Ceasar mà thôi"
Tiếc là, kẻ hậu sinh không được sinh cùng thời Đức Lý Thường Kiệt, làm quân nhà Lý để một phen hả hê sung sướng trả thù dân phương bắc thời bấy giờ. chiến tranh Tàu -việt thì nhiều, nhưng chưa bao giờ do chúng ta chủ động và chưa bao giờ diễn ra trên đất tàu như thời này. Dẫu chỉ đọc qua sử cũ, nhưng cũng đủ thấy cái hào khí và sảng khoái của quân ta lúc ấy thật là vang danh một thời............