Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Mạc Thiên Tứ Tận Trung Với Chúa Nguyễn.

[blockquote]Mạc Thiên Tứ (Mạc Thiên Tích) là con trưởng của Mạc Cửu, còn có tên khác là Mạc Tông, sinh năm 1706, tại Lũng Kè, người Chân Lạp gọi là Peam. Tương truyền, trước khi Mạc Thiên Tứ ra đời, ở đầm Lũng Kè có nổi lên một tượng Phật cao bảy thước, tỏa hào quang rực rỡ. Lúc ấy có một nhà sư người Chân Lạp đi ngang qua, thấy vậy bảo là điềm tốt, báo hiệu hiền nhân xuất hiện. Mạc Cửu sai người vớt lên, bao nhiêu người cũng không mang lên được, nên đành phải xây một ngôi chùa nhỏ trên bờ để thờ. Ít lâu sau, bà Mạc hạ sang một con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, thấy hợp với điềm lành, Mạc Cửu đặt tên là Thiên Tứ (có nghĩa là trời cho).

Thuở nhỏ Mạc Thiên Tứ đã thông minh, nhanh nhẹn, tinh thông kinh điển, võ thuật. Tháng 5 năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu qua đời, sau khi an táng xong, thể theo yêu cầu của Mạc Thiên Tứ, Ninh vương Nguyễn Phước Thụ truy phong cho Mạc Cửu tước khai trấn Thượng trụ Đại tướng quân Cửu lộc hầu và cho Mạc Thiên Tứ tiếp tục làm Tổng binh Đại đô đốc trấn Hà Tiên kế nghiệp cha. Nhân dịp này chúa Ninh Vương còn ban tặng cho Mạc Thiên Tứ ba chiếc "thuyền long bài" không phải nộp thuế và còn cho phép mở lò đúc tiền để thông thương mua bán và tìm mua của quí nộp cho chúa. Đồng thời họ Mạc cũng được chúa Nguyễn lũy phong theo lệ "Thất diệp phiên hàn" (Bảy đời rào dậu cho quốc gia), lấy bảy chữ "Thiên tử công hầu bá tử nam" nối đời làm chữ lót đặt tên, lấy năm chữ "Kim mộc thủy hỏa thổ" trong ngũ hàng tương sanh khởi đầu từ bộ "Kim" nối đời đặt tên và thêm bộ "Ấp" vào chữ "Mạc" để tỏ ý không phải họ "Mạc" đã cướp ngôi nhà Lê.

Để phòng sự xâm nhập, cướp phá của Xiêm và Chân Lạp, Mạc Thiên Tứ tuyển mộ, luyện tập binh lính, thường xuyên tu bổ đào lũy, tăng cường việc bố phòng Hà Tiên. Mặt khác cho khai mở ruộng vườn, thiết lập chợ búa, khai thông bến bãi để thuyền bè ra vào thuận lợi. Thị trấn Hà Tiên được đặt tên là Phương Thành (còn gọi là Trúc Bằng thành). Thương nhân và lữ khách các nước tới ngày một đông đảo.

Mạc Thiên Tứ chiêu nạp văn tài các nơi, mở "Chiêu Anh Các", ngày ngày cùng bàn giảng sách, xướng họa thi thơ, nổi tiếng và còn lưu truyền đến nay trong hoạt động của thi đàn này là "Hà Tiên Thập Vịnh" (mười bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên). Văn đoàn này mở đầu cho việc phổ biến việc học ở đất Hà Tiên.

Đến năm 1739, cho rằng Mạc Thiên Tứ mới kế nghiệp cha, chưa đủ sức phòng bị Hà Tiên, quốc vương Chân Lạp Nặc Bôn mang quân xâm lấn. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu ngày đêm. Vợ Mạc Thiên Tứ là Nguyễn thị động viên phụ nữ trong thành nấu cơm nước, tiếp tế cho binh sĩ. Giặc tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách làm Đô đốc tướng quân, ban áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà Nguyễn thị cũng được phong làm phu nhân. Vào năm 1747, giặc biển cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên cũng bị Mạc Thiên Tứ dẹp yên.

Năm 1756, quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên Chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội và xin cho về nước. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước.

Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.

Không giống trường hợp Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho. Hai cha con họ Mạc là người trực tiếp mở mang và tổ chức khai thác đất Hà Tiên, một vùng đất rộng bao gồm phần lớn các tỉnh Tây Nam bộ ngày nay[/blockquote]
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Kho báu họ Mạc ở Hà Tiên
[blockquote]Khoảng giữa cuối thế kỷ XVII, đầu XVIII, bên Trung Quốc triều Thanh lật đổ triều Minh. Những di thần nhà Minh không chịu thần phục, tổ chức "Phản Thanh phục Minh" dưới nhiều hình thức, trong đó có Mạc Cửu.

Bài sấm ký về kho báu

Ở Hà Tiên, Kiên Giang, nhắc đến Mạc Cửu người ta vẫn nhớ đến một bài sấm ký về kho báu dòng họ Mạc. Những lời bí ẩn này - nhất là đoạn cuối gợi cho người ta tưởng tượng ra một kho báu đầy vàng ngọc.

Theo lý giải của Đông Hồ - Mộng Tuyết về bài sấm truyền trên thì vận số họ Mạc tuy chỉ huy hoàng trong 72 năm, không là vương là bá, nhưng thực tế không thua gì một vương quốc độc lập. Câu: "Bờ tre xanh xanh/Hái lá nấu canh/Canh ăn hết canh/Vị cay thanh thanh". Ứng vào điềm bờ tre bọc quanh núi Bình San bị phá hủy. "Hết canh" tức hết năm Canh Tuất (1910). Vị cay tức là tân, nghĩa là tiết Thanh minh năm Tân Hợi (1911) khu lăng mộ họ Mạc sẽ bị phá hủy. Câu: "Trời tây ngả bóng chênh chênh/Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng" ứng với việc mở được cửa mộ thì đã chiều, phải soi mới tìm được chiếc trâm vàng cẩn ngọc. Trời tây cũng ứng vào việc người Tây khai quật, hành động không chính đáng.


Đánh giá về dòng họ Mạc, GS Trần Văn Giàu cho biết: "Cũng từ thời Mạc Thiên Tích, đất nước bao phen nổi phong ba, thù trong và giặc ngoài liên tục đe dọa vận mệnh của dân tộc. Hành trạng và phép ứng xử của phần lớn các thành viên họ Mạc ở Hà Tiên có không ít những điều khiến cho hậu thế chẳng dễ gì tán thành. Nhưng họ Mạc là họ Mạc, giữa thế thái riêng ấy họ có lập trường riêng và có cách nhìn thời cuộc cũng rất riêng...".

Còn nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần thì: "Dấu tích của Phương Thành xưa còn đó, những vần thơ của các bậc tao nhân mặc khách trong Chiêu Anh Các còn ngân vang đâu đó, mười cảnh đẹp của Hà Tiên cũng đang còn đó... Việc họ Mạc theo phò chúa Nguyễn là điều có thật, nhưng những gì họ Mạc đã cống hiến cho Hà Tiên, cho giang sơn một thuở cũng là điều có thật. Không ai có thể xóa bỏ quá khứ mà họ Mạc chính là một phần của quá khứ đó".

Tiết Thanh minh năm Tân Hợi (1911), lấy cớ là để mở mang thị trấn Hà Tiên, viên chủ tỉnh người Pháp đã cho đoàn tù khổ sai phá đất đá ở núi Bình San và lẽ dĩ nhiên là hơn 40 ngôi mộ của dòng họ Mạc cũng thuộc diện bị khai quật. Những người hiểu chuyện biết rõ rằng đằng sau việc di dời này là âm mưu truy tìm kho báu mà rất có thể dòng họ đứng đầu "tiểu vương quốc" Hà Tiên đã cất giấu trong các hầm mộ, theo lời một bài thơ được xem như tấm bản đồ chỉ dẫn lối vào kho báu, vốn chỉ lưu truyền trong dòng họ Mạc.




Việc khai quật được tiến hành đầu tiên với ngôi mộ chính thất phu nhân họ Nguyễn của Mạc Thiên Tích. Ngôi mộ rất lớn, tấm bia đề "Hoàng Việt hiếu túc thái phu nhân Mạc phủ Nguyễn tỷ chi oanh - Nhâm thân trọng xuân cốc đán". Đoàn tù khổ sai đục đến chiều tối ngày thứ 10 mới phá được chỗ bệ thờ trước mộ bia. Lễ bốc mộ có sự chứng kiến của chính quyền và con cháu họ Mạc.

Ông Mạc Tử Khâm, cháu 7 đời của Mạc Cửu, cầm nến soi vào áo quan nhặt từng mảnh xương xếp vào quách đưa về đền thờ họ Mạc chờ làm lễ cải táng. Nhiều lời đồn đại xung quanh cuộc khai quật này. Nghe nói ông Mạc Tử Khâm được chủ tỉnh Hà Tiên chia cho một cái trâm vàng có gắn ngọc quý. Về sau ông Khâm túng quẫn đem bán chiếc nhẫn này cho một người Pháp tên là Chapuis đang cai quản ngọn hải đăng ở Mũi Nai. Từ đó gia đình Chapuis gặp nhiều điều không may...

Sự thật về kho báu dòng họ Mạc không biết thế nào, nhưng sau khi khai quật mộ của Mạc phu nhân thì hơn 40 ngôi mộ họ Mạc còn lại được giữ nguyên, không bị di dời nữa.

Ngày 7/9/2008, nhân dịp kỷ niệm 300 năm thành lập trấn Hà Tiên xưa và 10 năm thành lập thị xã Hà Tiên, chính quyền tỉnh Kiên Giang đã tổ chức lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu - người có công khai phá và biến vùng đất hoang sơ nơi biên ải thành một biên trấn tráng lệ, một thành luỹ vững chắc, một đầu mối giao thương với các nước.


[/blockquote]
 
Đảng viên
18/5/10
2.293
82.514
113
Nhưng trong công cuộc khai hoang mở đất, đào kinh, lập ấp thì có lẽ đau lòng và oan ức bất công nhất chính là Thoại Ngọc Hầu. Ông là bậc công thần bậc nhất đời Nguyễn Ánh - Gia Long nhưng các đời vua sau đã không trọng dụng lại còn trù dập, hạ cấp phẩm hàm ông Thoại.....Phải chăng họa này do vợ và con gái nuôi ông mang đến?

Thăng trầm bậc đại công thần
Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (một số sách phiên âm chữ Thoại thành chữ Thụy), sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761) tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng).
Do có công lớn với chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, nên Nguyễn Văn Thoại được phong tước Thoại Ngọc Hầu. Cũng vì có công giúp triều Nguyễn trong việc "bảo hộ" Cao Miên, nên ông còn được gọi là Bảo hộ Thoại. Ngay cả cha mẹ ông là Nguyễn Văn Lương và Nguyễn Thị Tuyết cũng được triều Nguyễn phong hầu.
Do thời cuộc, gia đình Nguyễn Văn Thoại rời Quảng Nam vào miền Nam, định cư ở làng Thới Bình tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên, thuộc địa phận Vũng Liêm ở Vĩnh Long. Đến nay, tại đây vẫn còn khu mộ gồm mẹ đẻ và cha mẹ vợ của Nguyễn Văn Thoại, gọi là lăng Ông Bảo hộ.
Từ năm 1777, Nguyễn Văn Thoại theo giúp chúa Nguyễn, tham gia nhiều trận đánh chống Tây Sơn ở Gia Định, và nhiều lần sang Xiêm công cán cho chúa Nguyễn với chức vụ Thống binh Cai cơ (các năm 1785, 1792, 1796, 1799). Năm 1799, Nguyễn Văn Thoại giữ chức Khâm sai Thượng đạo Tướng quân đi sứ sang Lào; nhưng đến năm 1801, vì vi phạm quân kỷ ông bị giáng xuống chức Cai đội. Sau khi thành lập vương triều Nguyễn năm 1802, Nguyễn Văn Thoại cũng được thăng thưởng và dần dần lên đến chức Khâm sai Chưởng cơ. Đầu năm 1811, Nguyễn Văn Thoại được bổ làm Trấn thủ Định Tường; đến năm 1813 giữ chức Bảo hộ Chân Lạp kiêm lãnh Trấn thủ Định Tường.

hh.jpg

Tượng thờ Thoại Ngọc Hầu tại đền thờ ông ở ở chân núi Sam, Ảnh Sông Hương Năm 1817, Nguyễn Văn Thoại chuyển làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Tại đây, vào mùa xuân năm 1818, ông tổ chức dân binh khởi công đào sông/kênh Đông Xuyên (nối từ Long Xuyên xuống Rạch Giá), dài chừng 31km. Đây là tuyến đường sông đào nhằm phục vụ lưu thông và nông nghiệp vùng Kiên Giang, rất có giá trị. Vua Gia Long đã đặc ân cho phép đặt tên sông là Thoại Hà (sông Ông Thoại) và tên ngọn núi phía đông gần đó là Thoại Sơn (núi Ông Thoại). Cũng trong năm 1818, Nguyễn Văn Thoại được bổ làm Thống chế Bảo hộ Chân Lạp.

song-huong.jpg
Tượng đài Thoại Ngọc Hầu tại Hồ Ông Thoại, huyện Thoại Sơn, An Giang. Ảnh: Sông Hương
Năm 1819 Nguyễn Văn Thoại được giao trọng trách tổ chức đào sông/kênh Vĩnh Tế, nối từ Châu Đốc ra biển Hà Tiên, dài khoảng 91km. Vào tháng 12 năm Mậu Dần (đầu năm 1820), sông được khởi công, qua nhiều gian truân vất vả với sự góp sức của cả dân binh Việt Nam và Chân Lạp, mãi đến giữa năm 1824 mới xong. Hình ảnh kênh Vĩnh Tế sau đó được đưa vào Cao Đỉnh, một trong chín đỉnh đồng đặt ở Kinh đô Huế. Trong thời gian đôn đốc đào kênh Vĩnh Tế, năm 1821 Nguyễn Văn Thoại còn nhận nhiệm vụ đóng giữ bảo Châu Đốc, lãnh chức Bảo hộ Quốc ấn nước Chân Lạp, kiêm lý Biên vụ Hà Tiên. Nguyễn Văn Thoại cùng nhiều người khác được triều đình ban thưởng rất hậu hỉ khi hoàn thành kênh Vĩnh Tế.
Nguyễn Văn Thoại có bà vợ chánh là Châu Thị Tế, quê ở cù lao Dài, sinh được con trai là Nguyễn Văn Lâm; và vợ thứ tên là Trương Thị Miệt, cũng sinh một con trai là Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra, ông còn có người con gái nuôi, tục gọi là Thị Nghĩa.
Ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), Thống chế lĩnh ấn Bảo hộ nước Chân Lạp, Án thủ thành Châu Đốc kiêm lĩnh Biên vụ Hà Tiên là Nguyễn Văn Thoại mất tại Châu Đốc. Vua Minh Mạng rất thương tiếc và phong tặng ông chức Đô thống, thưởng thêm 1.000 quan tiền, 5 cây gấm Tống, 10 tấm lụa, 30 tấm vải. Con trưởng là Nguyễn Văn Lâm được hưởng tập ấm chức Ân kỵ uý.
Mặc dù Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại là một đại công thần của triều Nguyễn, là người có rất nhiều công lao với đất nước trong việc khai phá đất đai miền sông Hậu, bảo vệ biên cương của Tổ quốc ở Châu Đốc, Hà Tiên; nhưng ngay sau khi được khâm liệm, ông bị triều Nguyễn giáng 5 phẩm hàm, con trưởng là Nguyễn Văn Tâm bị tước bỏ tập ấm, tất cả điền sản đều bị tịch thu, phát mãi. Về sau, Nguyễn Văn Tâm bỏ đi biệt tích, con thứ là Nguyễn Văn Minh cam phận sống cảnh dân dã, nghèo nàn.
Công thì thưởng, tội phải phạt
Tại sao Thoại Ngọc Hầu và con cháu lại rơi vào cảnh huống đau lòng như vậy? Vì sao vua Minh Mạng cùng những vua kế nhiệm lại hành xử bất công với công thần của vương triều? Thực hư việc xử án Thoại Ngọc Hầu ra sao? Đó là những băn khoăn chung quanh đoạn kết cuộc đời của nhân vật nổi tiếng này.
Nguyên do là sau ngày Thoại Ngọc Hầu mất, quan Thị lang Tào Hình Bộ là Võ Du đi dò xét tình trạng dân Chân Lạp trở về đã báo cáo với quan Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt rằng Nguyễn Văn Thoại khi lĩnh chức Bảo hộ, ngày thường bắt dân Chân Lạp đi lấy gỗ táu đem nộp mà không cấp tiền và gạo, lại bắt dân Chân Lạp làm việc tư, sửa đắp đường cái, để đưa đám chôn cất vợ.

xaluan.jpg
Lăng Thoại Ngọc Hầu là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam. Khu lăng có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân được xây vào thập niên 30 của thế kỷ 20. Ảnh: TuoitreQuangNam
Lê Văn Duyệt đem lời tố cáo ấy tâu lên triều đình, vua Minh Mạng ra lệnh tịch thu gia sản và giao cho Bộ Hình nghiêm trị. Khi bản án hoàn thành và được báo cáo lên, vua xuống chiếu truy giáng Thoại Ngọc Hầu 5 phẩm hàm, thu lại chức tập ấm của con, lại tịch thu cả gia sản đã cấp cho trước đó . Theo bản án, Thoại Ngọc Hầu từ hàm Tòng nhị phẩm bị giáng xuống hàm Tòng thất phẩm.
Do bị mang án, nên vào tháng 7 năm Canh Dần (1830), quan cai quản Gia Định dâng sớ về triều xin cấp phu trông coi mộ quan Bảo hộ Nguyễn Văn Thoại, vua Minh Mạng bảo Bộ Lễ rằng Nguyễn Văn Thoại được nhờ ơn nước giao cho che chở một phương, thế mà không biết giữ mình trong sạch, lại tha hồ vơ vét làm mất lòng nước Chân Lạp, thực là phụ lòng trông cậy của triều đình rất nhiều, không còn có công gì đáng xét, nên không cho.
Có lẽ cảm thấy khép tội Thoại Ngọc Hầu như thế hơi nặng, nên vua Minh Mạng sai đình thần bàn xét lại án Thoại Ngọc Hầu. Tháng 5 năm Nhâm Thìn (1832), bản án hoàn thành, vua Minh Mạng xuống dụ nói rằng Nguyễn Văn Thoại được uỷ thác trọng trách bảo vệ biên cương mà không biết tuyên dương đức hoá, vỗ yên dân chúng ngoài biên, lại sinh sự nhiễu dân, gây nhiều điều tệ! Nếu còn sống thì vua cũng cứ giữ lòng chí công làm đúng hình pháp, chém đầu để bêu cho mọi người biết; nhưng do đã chết rồi, lại nghĩ ngày trước có công lao ở Vọng Các (Xiêm), nên chỉ truy giáng xuống hàm Chánh ngũ phẩm và đoạt lại chức tập ấm của con, duy các sắc tặng phong cha mẹ Nguyễn Văn Thoại được miễn thu hồi. Tang vật Nguyễn Văn Thoại đã sách nhiễu dân thì phải truy ra rồi lấy gia sản ấy mà truy cấp cho dân Chân Lạp.
Với bản án xét lại này, Thoại Ngọc Hầu từ chỗ bị giáng xuống hàm Tòng thất phẩm được nâng lên hàm Chánh ngũ phẩm.
Nghị án xong, vua Minh Mạng sai Lang trung Bộ Công là Lê Hựu đem sắc thư sang tuyên dụ vua Chân Lạp, cho biết việc quan Bảo hộ Nguyễn Văn Thoại quấy nhiễu dân đã bị triều đình trị tội, vua Chân Lạp nên kính cẩn giữ lễ, đừng bận lòng vì một quan chức hư hỏng. Nhưng vua Chân Lạp dâng biểu nói rõ năm trước có việc đi lấy gỗ táu đem nộp thì dân đã lĩnh tiền và gạo của Nhà nước do Thoại Ngọc Hầu cấp rồi, vậy không cần phải cấp thêm nữa.
Nhờ biểu của Chân Lạp, vua Minh Mạng mới biết rõ thực hư chuyện Thoại Ngọc Hầu, liền xuống dụ cho Bộ Lễ rằng Võ Du vâng mệnh đi điều tra, không xét được đích xác nguyên uỷ, tự tiện về báo lại rất sai lệch, nên cách chức ngay rồi giao Bộ Hình bàn xử. Còn Nguyễn Văn Thoại dẫu không can dự vào chuyện đó, nhưng do sai dân Chân Lạp làm việc riêng, sửa mộ đắp đường, xét cũng đáng tội, nên cứ giữ nguyên án (!)
Nhà vua còn lệnh rằng, Võ Du đi dò xét về báo không đúng sự thực thì phải bàn xét để trừng phạt ngay; còn các điều Nguyễn Văn Thoại đã phạm phải, nếu điều gì không có thì phải vì ông mà làm cho sáng tỏ, điều gì có thực thì cũng không coi nhẹ mà tha được. Tờ dụ của vua Minh Mạng gửi vào cho Gia Định thành cũng được sao chép thêm một bản để cấp cho con của Nguyễn Văn Thoại biết.
Riêng Võ Du bị Bộ Hình xét xử chuyện vu cáo Thoại Ngọc Hầu và khép vào tội đồ, nhưng vua Minh Mạng lại đặc cách cho cách chức, phát phái đi Cam Lộ ở Quảng Trị để gắng sức làm việc chuộc tội.
Việc chưa yên thì vào năm Quý Tỵ (1833), con rể Thoại Ngọc Hầu là Võ Vĩnh Lộc cùng con gái nuôi Thị Nghĩa tham gia cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định chống lại triều đình.
Năm Ất Mùi (1835), cuộc nổi dậy bị đàn áp, cả hai vợ chồng Võ Vĩnh Lộc bị bắt xử chém. Vua Minh Mạng đã lệnh cho Bộ Hình mở cuộc điều tra nguồn gốc của Thị Nghĩa, xem có phải là con ruột của Thoại Ngọc Hầu. Bộ Hình yêu cầu quan tỉnh Gia Định tra hỏi sự việc, Nguyễn Văn Lâm khai rõ Thị Nghĩa chỉ là con nuôi của cha mình. Vì thế, gia đình Thoại Ngọc Hầu không bị khép tội liên đới, nhưng không thể xoá hết sự nghi ngại của triều đình.
Án của Thoại Ngọc Hầu càng trở nên tồi tệ hơn, khi vào tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), Nguyễn Văn Quang (là cháu họ của Nguyễn Văn Thoại, đồng thời là cháu nội của Khâm sai Thuộc nội Chưởng cơ Nguyễn Văn Bình) đã cùng Lê Văn Sơn (cháu họ của Lê Văn Duyệt) đang là tù phạm bị giam ở ngục tỉnh Gia Định, bàn mưu vượt ngục chiếm giữ thành phản lại triều đình. Do phạm nhân Trần Vinh (nguyên là Tư vụ Bộ Binh bị tội lưu, phát đi an trí ở Gia Định) biết chuyện, đem việc ấy tố cáo ra, quan tỉnh Gia Định điều tra được liền báo về Huế.
Vua Minh Mạng phán rằng Nguyễn Văn Quang là con cháu công thần ở Vọng Các, trước can án, triều đình chưa nỡ giết, còn để giam cấm, thế mà dám mưu đồ vượt ngục, lấy việc trước của Lê Văn Khôi làm khuôn mẫu, ý muốn chiếm thành làm phản, làm khổ nhân dân. Lê Văn Sơn là cháu Lê Văn Duyệt, phạm tội bị giam, muốn suy tôn lên để mưu khởi sự, cùng triều đình gây biến, mối họa không trừ thì mầm họa lại mọc. Vì vậy, Nguyễn Văn Quang, Lê Văn Sơn cùng 4 người khác bị kết án xử tử lăng trì. Ông của Nguyễn Văn Quang là Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Thoại cũng liên luỵ, bị triều đình lấy lại các văn bằng đã cấp. Với lần nghị án mới, Nguyễn Văn Thoại bị tước luôn hàm Chánh ngũ phẩm.
Những sự cố liên tục xảy ra với Thoại Ngọc Hầu sau khi ông mất khiến cái nhìn của vua Minh Mạng ngày càng thiếu khách quan. Đặc biệt, sự tham gia nổi dậy chống đối triều đình của vợ chồng con gái nuôi, và vụ mưu phản của cháu họ là nguyên nhân làm cho các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không màng xem xét tận tình sự oan ức hoặc ghi nhận đúng mực công lao của Thoại Ngọc Hầu.
Không riêng gì Thoại Ngọc Hầu, những ai dính dáng ít nhiều đến việc chống đối triều đình cũng bị đối xử như vậy, thậm chí có người còn thê thảm hơn. Âu đó cũng là sự nghiệt ngã của tấn trò đời dưới chế độ phong kiến nói chung!
Một an ủi cho Thoại Ngọc Hầu và gia tộc là vào tháng 2 năm Canh Thìn (1880), sau khi Đền Trung Nghĩa được xây dựng xong ở Kinh đô Huế, theo đề nghị của Bộ Lễ, vua Tự Đức chuẩn cho thờ thêm vào Đền 1.532 người, trong đó dãy bên tây, án thứ ba thờ 390 người có tên Tòng thất phẩm Nguyễn Văn Thoại.
Sự ghi nhận Thoại Ngọc Hầu là người trung nghĩa dưới triều Tự Đức chưa thể hiện hết những đóng góp lớn lao của ông với dân với nước, cũng chưa thể bù đắp nổi những tổn thương tinh thần mà linh hồn ông và các thế hệ con cháu phải gánh chịu; nhưng dẫu sao đó cũng là sự hồi tâm của triều đại vốn thường xuyên xảy ra những vụ hãm hại công thần, mở đường cho các vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn chuẩn y việc phong thần cho Thoại Ngọc Hầu.
Ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924), vua Khải Định truy phong Nguyễn Văn Thoại là Đoan Tức Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần. Đến 15 tháng 8 năm Quý Mùi (1943), vua Bảo Đại sắc phong Nguyễn Văn Thoại là Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng Thần.
Đối với người dân các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang, ngay khi còn sinh thời, Thoại Ngọc Hầu đã được xem là vị thần hộ mệnh cho dân chúng. Còn đối với đất nước, công lao của Thoại Ngọc Hầu luôn được sánh ngang những bậc anh hùng đã dày công khai phá và bảo vệ bờ cõi của quốc gia.
 
Hạng D
13/1/11
2.365
26.561
113
thành Phiên An - Gia Định
Trang 75 :

Năm 1674 (tức là 51 năm sau khi lập đồn thu thuế và 16 năm sau sự kiện Mô Xoài) xảy ra một biến cố chính trị và quân sự quan trọng:
Vua Chân Lạp là Nặc ông Nộn bị người hoàng tộc nổi lên đánh đuổi.
Ông Nộn sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đem quân vào giúp
Ông Nộn trở lại ngôi vua, không phải làm chánh vương ở Oudong mà làm phó vương ở Sài Gòn.
Ông Nộn lập dinh cơ có lẽ ở vùng đất cao ráo từ đồi sau này gọi là <span style=""color: #ff0000;"">đồi Cây Mai</span> đến vùng Phú Thọ hiện giờ. Ông Nộn 15 năm ở Sài Gòn cũng hoạt động quân sự nhiều cuộc đối đầu với vua Chân Lạp mà không thành.


Đồi Cây Mai - Chùa Cây Mai

ngã ba Phạm Đình Hổ - Hồng Bàng TpHCM 2009
hướng về phải hình => ngã tư Nguyễn Thị Nhỏ + đầu đường Nguyễn Trãi :


từ Phạm Đình Hổ ngó thẳng qua bên kia, trên đồi : dãy nhà lầu <span style=""color: #ff0000;"">ngói đỏ</span> vắt ngang = đồi Cây Mai, là đồn lính Pháp thời Thuộc địa, nay là Doanh trại Bộ đội vẫn còn y nguyên kiến trúc Pháp :






khuôn viên rất rộng mà cấm chụp hình, tất nhiên
trở ra lộ nhựa Hồng Bàng - Nguyễn Thị Nhỏ


cổng hông đồn Cây Mai đâm ra Nguyễn Thị Nhỏ


.... các trang trước đã giới thiệu Bình Dương Thi xã của Gia Định Tam Gia

quận 11 TpHCM 08-2008 :


... ngã ba Thành, Diên Khánh QL 1A, cửa ngõ Nha Trang, còn kiu là Ngã ba Cây Dầu Đôi, 06am 09-2008 (đi thẳng = vô Nha Trang)


... ngay bên Cây Dầu Đôi là phần mộ 1 Tướng quân VN thời Vua chúa nhưng mình sơ sót không ghi hình nên giờ hổng biết danh tính
63.gif




cái Cây Dầu Đôi này nghe nói đã hơn 200 tuổi
nay 2011 hổng biết sao rùi

06.10am - mây mù đường đi thác Yang Bay - như một tác phẩm Thủy Mặc Trung Hoa :


Di tích thành xưa Diên Khánh thời Nguyễn - 09-2008 :








mặt thành




từ ngoài chạy vô thành :


... chẳng biết cái mũi tên nào ở đâu :


21.gif


... thế là chúng ta đã lọt được vào thành Diên Khánh mà khỏi cần bát bo + Sự Vụ Lệnh Thông Hành thời chiến :D
trong thành hiện là khu phố ì xèo nhà lầu máy lạnh như các khu phố khác hiện nay chẳng gì lạ
đi tiếp ra khỏi thành :




đã ra khỏi thành : nhà thờ xưa Hà Ra ; đi thẳng => thác Yang Bay, đèo Khánh Vĩnh, hồ Hang Hở Dalat :


xe Du lịch các nơi từ 4-50 chỗ phải đi đường tránh từ QL 1A ở phía Nam thành Diên Khánh 3km xong trổ ra phía trên Nhà thờ Hà Ra để lên đèo Khánh Vĩnh đi Dalat








 
Hạng F
13/1/06
13.889
35.977
113
- Miếu cạnh cây dầu đôi: Bình Tây Đại Nguyên Soái: Trịnh Phong.
- Nhà thờ rất xưa có tên..Hà Dừa. Theo hình vẽ thì đi từ sau nhà thờ tới..(Khánh Vĩnh xuống) qua cầu có khúc quẹo phải có biền bào giới hạn tốc độ 20Km/h...
080402cool_prv.gif
bash.gif

- Ngày hai bận qua lai chỗ này có dòm cái đèn trong hẽm đâu...Má ơi "cấm quẹo trái" từ chỗ này chạy tiếp khoảng 200m nữa là khúc cua chữ S...GT chơi khó kẻ vạch liền 100mm...xe xxx cán vạch tè le.:D Vì hai bên đường là cơ quan NN.
- Nhìn cái thành cổ được trùng tu...không còn thấy "dấu xưa xe ngưa hồn thu thảo" mà chỉ thấy Toy với nippon...
 
Hạng D
13/1/11
2.365
26.561
113
thành Phiên An - Gia Định
... mí cái vụ "trung tu Di tích' thì là ... chiện zài nhìu tập nói cả tỉ năm hổng hết : dù đã tìm lại được đúng các thiết kế, chất liệu nguyên bản thời xưa lúc xây nhưng muốn làm lại y hệt = tiền !!!tính ra còn mắc gấp cả tỉ lần hơn đồ chơi hột nhơn laser hiện tại !
ngay cả nước giàu như Đức nay đang xây lại vài mảng của "bức tường Berlin" làm chứng tích Lịch sử đã tốn khối tiền rùi mà cái của nợ này chỉ mới xây sau WW2 chứ nói chi Di tích xưa cả trăm cả ngàn năm trước
còn mí cái vụ "trung thực" "ăn khúc giữa" gì gì đó kể từ lúc bắt đầu có kinh phí tìm hiểu ... thì ...
24.gif


http://laodong.com.vn/Tin...-tai-tu-ngan-xua/54621

... còn cái gọi là Giáo trình Sử lề phải bắt tụi Học sinh học - tức có thể coi như tiếng nói chính thức của "nhân dân VN" hiện nay - vẫn chưa thay đổi gì ...
 
Hạng C
5/12/07
780
1.954
93
vnexpress.com.vn
Đồn Cây Mai gần nhà bà dì của em (em ruột bà ngoại - đường Lò Siêu ), hồi nhỏ em có vào chơi (76-78). Bây giờ bên trong có mấy cái chành nhận gởi hàng về miền Tây.
Q11 có 2 đường Nguyễn Thị Nhỏ, đường N.T.Nhỏ trong hình của bác Gia_Định em nghe nói ngày xưa là Dương Công Trừng. Còn 1 đường Nguyển Thị Nhỏ tại khu Cư xa Lữ Gia, chà cũng rối quá nhỉ.
Bình Dương Thi Xã hồi trước là cái hẻm kéo dài từ đường Hàn Hải Nguyên (đường số 46 cũ) ra đường Âu Cơ. Lúc mới đặt tên đường này em cứ nhầm là Thị Xã Bình Dương. :D
 
Last edited by a moderator:
Hạng D
13/1/11
2.365
26.561
113
thành Phiên An - Gia Định
@ cụ Sonokal : "cây Mai" ở đó nghĩa là 1 loài cây thuộc họ Mai, nhiều người cho rằng nó là cây Mù U chứ không phải cây Mai ngày Tết

... một người phát hiện sai sót của cụ Bảng Nhãn Lê Quý Đôn :
http://laodong.com.vn/Tin...u-chong-xam-lang/56851

... nói về Sử VN từ 1930 tới nay thì ngay cả cố GS Trần Văn Giàu, một Đảng viên lão thành phút lâm chung cũng có một số ... trăn trở - hổng tiện 8 trên đây

gom vô lun cho tiện theo dõi - bài này có tất cả 4 kỳ của TTO
http://tuoitre.vn/Chinh-t...n-Ly-giua-Sai-Gon.html
 
Last edited by a moderator:
Tập Lái
13/9/11
25
0
0
Đọc những bài các bác post hay quá. thanks các bác vì đã post kiến thức lịch sử nước ta.