RE: Những vụn vặt lượm lặt từ ... ký ức
Trong lúc đợi cụ Phunni em câu vài bài ...
Những trận đánh mở đầu
Tây Nguyên đã bước vào mùa mưa. Buổi sáng và trưa trời vẫn nắng nóng, nhưng thường hay mưa vào buổi chiều “Nắng ba trưa, mưa ba chiều” có nghĩa là buổi trưa nắng nóng, càng gay gắt thì buổi chiều mưa càng to. Sau mấy ngày có mưa, trời lại tiếp tục nắng nóng. Khí hậu ở đây thường trở mặt đột ngột: từ nắng chuyển sang mưa, nhưng ban đêm và buổi sáng lại lạnh, rét. Trong một ngày đêm, có khí hậu của bốn mùa. Thời tiết thay đổi đột ngột đã ảnh hưởng đến sức khỏe của bộ đội. Nhất là đối với những đơn vị từ đồng bằng lên, hoặc những ai chưa trải qua chiến trường Tây Nguyên.
Các tỉnh của Campuchia tiếp giáp với Tây Nguyên, có khí hậu đều giống nhau. Tỉnh Ratanakiri-là địa bàn hoạt động của sư đoàn bộ binh 309 nói riêng và của các đơn vị thuộc Quân khu 5 nói chung. Phía Bắc tỉnh này có con sông Xêxan và Xêrêpốc. Tỉnh có một phần giáp Lào tạo thành khu “ngã ba biên giới” (Lào-Campuchia-Việt Nam).
Con đường quốc lộ 19 từ Việt Nam chạy thẳng và xuyên qua hầu như chính giữa và chia đôi tỉnh Ratanakiri thành phía Bắc và phía Nam.
Từ đồn biên phòng 23, đi sâu vào đất Campuchia khoảng 10 km phải đi qua 2-3 con suối, trong đó có ngầm Ô Gia Đao. Phía Bắc đường 19 là điểm cao 312-mục tiêu mà sau này đã diễn ra trận đánh quyết liệt nhằm giải toả trục đường 19, đã bị địch chia cắt các đơn vị của ta ở phía trước với phía sau. Đoạn đường 19 từ đồn biên phòng 23 về Đức Cơ, lại càng xấu hơn. Mùa khô đất bột lội đến mắt cá chân. Mùa mưa từ lớp đất bột này trở thành một lớp bùn nhão nhoét, xe cộ không tài nào cơ động được. Lợi dụng vào con đường huyết mạch hậu cần duy nhất, địch tăng cường đánh phá, kể cả mùa khô và mùa mưa. Vì vậy công tác vận chuyển tiếp tế từ hậu phương ra phía trước vô cùng khó khăn.
Dọc theo tuyến biên giới chạy thẳng vào phía Nam, đối diện với tỉnh Đắc Lắc là tỉnh Munđunkiri (Campuchia). Trên phạm vi 30-40 km tiếp giáp giữa 2 nước chưa có đường ô tô, chủ yếu là đường đi bộ. Nhưng càng đi vào phía Nam thì đường quốc lộ 14 của ta càng gần biên giới. Có nơi đường 14 chạy sát đường biên. Ở những nơi này, địch hay lợi dụng để xâm nhập vào lãnh thổ nước ta phục kích, gài mìn…
Nhìn chung, toàn bộ địa hình khu vực Đông Bắc Campuchia thuộc địa hình rừng núi. Rừng già nguyên sinh, xen kẽ với rừng tái sinh và nương rẫy do con người tạo nên. Đặc biệt là hai bên trục đường 19 kéo dài, phần nhêìu là bằng phẳng với cây gai ô rô ken dày, gây rất nhiều khó khăn cho ta khi vận động; ngược lại, rấ thuận tiện cho sở trường đánh du kích của đối phương. Rõ ràng, chúng tôi bước vào chiến đấu trên chiến trường Đông Bắc này đã gặp hai bất lợi trong yếu tố là ” thiên thời, địa lợi, nhân hoà”.
Để chuẩn bị cho những trận đánh sắp tới, sau khi trung đoàn bộ binh 31 cơ động từ Quảng Nam-Đà Nẵng lên đứng chân tại xã EaKhanh (Đắc Lắc); chúng tôi bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị bộ đội và sau khi đi khảo sát tình hình trên tuyến biên giới, chúng tôi đã hình dung được những việc phải làm đồng thời trong một thời gian. Đó là nhanh chóng ổn định mọi mặt ở vị trí mới và bắt tay vào huấn luyện, sao cho, gần sát với thực tế chiến đấu trên địa hình và đối tiượng tác chiến.
Sở chỉ huy trung đoàn nhộn nhịp hẳn lên. Cơ quan trinh sát và tác chiến lên kế hoạch và tác nghiệp lên bản đồ về hình thái địch-mà chúng tôi đã có dịp copy được ở trung đoàn bộ binh 95 và tiền phương Quân khu 5.
Một vấn đề rất khó khăn cho công tác tham mưu là bản đồ khu vực tác chiến không có. Đối với những người chỉ huy chiến đấu mà không có bản đồ thì cũng như người mù. Theo yêu cầu chiến đấu, khi nhận nhiệm vụ, ít nhất mỗi chỉ huy đại đội phải có một mảnh bản đồ. Như vậy, mỗi tiểu đoàn, ít nhất phải có 5-6 mảnh. Đối với mỗi trung đoàn bộ binh thì phải nhân bốn số trên; chưa tính đến các cơ quan chỉ huy trung đoàn nhất thiết phải có: như tác chiến, trinh sát, pháo binh, v.v… Hiện tại toàn bộ trung đoàn mới chỉ có một tấm bản đồ tỷ lệ 1/100.000 mà tôi vừa mới “xin” được ở trung đoàn bộ binh 95.
Vì vậy, trong khi chờ được cấp bản đồ, chúng tôi đã cho anh em đồ bản sao chép, phóng to từng khu vực, cấp cho các đơn vị và treo tại Sở chỉ huy để phục vụ cho các cuộc giao ban hàng ngày.
Thông tin liên lạc là một vấn đề gay cấn. Sau năm 1975, phương tiện thông tin liên lạc của trung đoàn hầu như bị xếp xó, hoặc chủ yếu để phục vụ cho huấn luyện. Việc chỉ đạo hàng ngày chủ yếu là dùng mạng thông tin hữu tuyến. Cả trung đoàn bộ binh chỉ có trên 10 máy vô tuyến PRC25 của Mỹ, nhưng nguồn pin lại rất hiếm. Con người ta có ăn thì mới sống và làm việc đuợc; còn cái máy cũng phải có nguồn pin mới phát huy được tác dụng. Thông tin hữu tuyến thì chưa được chục km dây. So với yêu cầu nhiệm vụ sắp đến, thì số lượng phương tiện thông tin liên lạc chưa được 1/3 theo yêu cầu. Đó là chưa nói đến chất lượng phương tiện và trình độ sử dụng của lớp chiến sĩ trẻ.
Toàn bộ cơ sở vật chất, tuy còn khó khăn, nhưng không đáng lo. Với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ ngành Hậu cần-Kỹ thuật, lương thực, thực phẩm, đạn dược, quân trang, quân dụng đã đảm bảo đạt mức yêu cầu tối thiểu và đã được đưa vào kho ở vị trí mới và đang tiếp tục vận chuyển để đáp ứng yêu cầu cơ bản trước mùa mưa. Như vậy có thể nói là tương đối yên tâm về công tác bảo đảm hậu cần-kỹ thuật cho nhiệm vụ sắp tới. Chỉ còn chờ lệnh để trang bị cho từng người. Những công việc mà cơ quan tham mưu tiếp tục phải làm là kiểm tra công tác huấn luyện bộ đội, chuẩn bị mẫu biểu và các văn kiện chiến đấu, tổ chức tiếp nhận phương tiện thông tin bổ sung và sửa chữa những phương tiện hư hỏng, quan hệ với cơ quan cấp trên để nhận bản đồ, địa bàn. Những công việc trên tuy nhiều và phải triển khai một lúc, nhưng cơ quan tham mưu của chúng tôi đã trải qua trong cuộc chiến đấu nên đã hoàn thành công việc một cách tốt đẹp. Đứng đầu là tham mưu trưởng Trương Đình Xướng, trưởng ban tác chiến Nguyễn Hồng Vân, chủ nhiệm trinh sát Dương Minh Thi, chủ nhiệm thông tin liên lạc Chu Huy Nhân, chủ nhiệm công binh… và nhiều đồng chí khác. Sau cuộc chiến tranh vừa qua đã để lại cho chúng ta một đỗi ngũ cán bộ quý giá. Tiếc rằng đã có không ít người từng trải qua phải sống lang bạt kỳ hồ trên các nẻo đường đất nước trong cuộc mưu sinh này.
Về công tác Đảng-công tác chính trị, chúng tôi đã bàn bạc, trao đổi với nhau những nội dụng cần tập trung lãnh đạo để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt. Đó là công tác chuẩn bị thật tốt bộ đội. Đồng chí Nguyễn Thanh Mai-chính uỷ trung đoàn, Bí thư Đảng uỷ là một người trông bề ngoài có vẻ chậm chạp, không phù hợp với dáng người cao 1m70, nhưng đồng chí nắm rất chắc về công tác Đảng-công tác chính trị và chất lượng của đội ngũ cán bộ lúc bấy giờ. Chúng tôi (trung đoàn trưởng, chính uỷ, tham mưu trưởng) vừa là người chỉ huy vừa là những uỷ viên thường vụ Đảng uỷ trung đoàn, đã luôn bàn bạc thống nhất với nhau trước khi triệu tập cuộc họp Đảng uỷ bất thường.
Vào ngày 20-6-1978, chúng tôi đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và điện báo cáo về tiền phương Quân khu 5.
Lúc này, trên tuyến biên giới, địch gia tăng hoạt động. Số vụ xâm nhập biên giới từ 5 lần một ngày đã tăng lên 7-8 lần một ngày, trên một chiều dài chưa đầy 20 km. Số lần tập kích bằng hoả lực vào đồn biên phòng 23 và các điểm chốt khác của ta cũng tăng lên.
Quân khu quyết định đánh đòn phủ đầu, vừa là để cảnh cáo, vừa để tạo thế cho các hoạt động sau vào đất đối phương sau này.
Mục tiêu được chọn đầu tiên là hai căn cứ (mật danh là XA và XB), nằm sâu vào đất Campuchia khoảng 10-15 km, về phía Nam trục đường 19 kéo dài thuộc tỉnh Ratanakiri.
Đây là hai mục tiêu, là căn cứ của hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh 81 sư đoàn bộ binh 801 Pol Pot, Quân khu 109.