- Trong văn bản này không quy định về điều gì đó thì không có nghĩa nó không có giá trị mà có thể được thể hiện trong các văn bản khác có liên quan --> trong QC 41:2012 không giải thích đường có vận tốc là như thế nào, vận tốc đó là vận tốc gì, .. nhưng đối chiếu với văn bản quy định về xây dựng quản lý đường bộ GT hiện hành thì văn bản TCVN 4054:2005 là văn bản quy định về cấp độ đường và cũng là văn bản chi phối QC 41 --> QC 41 trên cơ sở phân cấp đường để có những quy định về biển báo, vạch kẻ phù hợp với từng loại cấp đường
- Trong văn bản TCVN 4054:2005 tại mục 3, 4 (rất dài nên em không trích ra đây được) có quy định các cấp độ đường theo tốc độ thiết kế --> các đường GT hiện nay được quản lý theo tiêu chuẩn này chứ không phân loại đường theo tốc độ thực tế.
Hai văn bản khác nhau một cái là quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ (QC 41) một cái là Tiêu chuẩn VN về đường ô tô và yêu cầu thiết kế, việc quản lý hay tốc độ thiết kế có thể có liên quan đến tốc độ thực tế của đường tuy nhiên phần kỹ thuật này người tham gia giao thông không cần biết mà chỉ cần biết loại vạch trên đường có tốc độ thực tế thôi.
Trong QC 41 phân rõ phụ lục H dành cho đường có tốc độ > 60 km/h và trong phụ lục này có nhiều vạch có kích cở khác nhau từ 2 hoặc 3 loại cho đường có tốc độ tính toán (thiết kế) khác nhau.
Bác xem ví dụ Vạch 25 trong Phụ lục G (theo bác là dành cho đường
có tốc độ thiết kế (tính toán) > 60 km/h)
Nếu vạch này dành cho đường có
tốc độ thiết kế > 60 km/h thì tại sao lại còn phân ra 3 loại kích thước cho 3 loại
có tốc độ thiết kế <=40, 60 - 80 và <=100 ? Có mâu thuẫn không ?
- Về thực tiễn : các đường có tốc độ thiết kế > 60km/h nhưng không được sử dụng đúng tốc độ thiết kế (hạn chế với biển báo tốc độ = hoặc <60km/h) vẫn sử dụng vạch kẻ của phụ lục G : đường PVĐ, VVK, MCT, ĐBP, ... --> phụ lục G không chỉ áp dụng cho đường có tốc độ thực tế >60km/h mà có thể áp dụng cả cho đường có tốc độ thực tế < hoặc = 60km/h --> tốc độ của tiêu đề phụ lục G là tốc độ thiết kế hay tốc độ thực tế?
Các đường này chắc là sẵn sàng cho tăng tốc > 60 km/h nên có thể vẽ vạch theo loại đường có tốc độ > 60 km/h (khỏi phải vẽ lại khi điều chỉnh cho tăng tốc độ lưu thông > 60 km/h)
- Chính vì theo tốc độ thiết kế nên mới có trường hợp trong phụ lục G, một số vạch kẻ được chia làm hai loại áp dụng cho 2 tốc độ thực tế khác nhau :
+ Vạch chỉ dẫn : theo phụ G, nếu tốc độ thực tế > 60km/h kẻ kích cở khác tốc độ <60km/h nhưng không thay đổi kiểu dáng --> kiểu dáng vạch kẻ này không bị ảnh hưởng bởi tốc độ thực tế mà ảnh hưởng vào tốc độ thiết kế.
+ Vạch chỉ dẫn trạm thu phí : theo phụ lục G, hình vẽ sẽ khác giữa tốc độ thực tế >60km/h với tốc độ <60km/h
...
==> lý do : đường có tốc độ thiết kế là một chuyện, còn đường đó có được sử dụng đúng tốc độ thiết kế không là chuyện khác. Vì vậy trên con đường có tốc độ thiết kế >60km/h nhưng chỉ được thực hiện lưu thông tốc độ <60km/h (tốc độ thực tế) thì vạch kẻ trên đường này vẫn theo phụ lục G nhưng có kích cỡ khác với tốc độ thực tế > 60km/h -> chính là cơ sở chứng minh thêm tiêu chí tốc độ của phụ lục G và H là tốc độ thiết kế chứ không phải tốc độ thực tế.
- Phụ lục H dành cho đường có tốc độ thiết kế < hoặc = 60km/h --> áp dụng cho các đường theo TCVN 4054:2005 : cấp 4, 5, 6. Còn đường cấp 4, 5, 6 như thế nào bác xem trong TCVN hộ em.
Bác nhầm rồi, chia 2,3 loại áp dụng
tốc độ thiết kế (tính toán) khác nhau chứ không phải tốc độ thực tế, bác xem lại ví dụ mình nêu trên của vạch 25.