Hạng F
23/3/12
9.236
19.441
113
TP. HCM
Nghiên cứ trong dự thảo thay thế QC 41/2012 thì vạch này có thể là vạch 2.2 hoặc 3.2:
b. Vạch 2.2: Vạch phân chia các làn xe cùng chiều, dạng vạch đơn, liền nét.
Áp dụng: dùng để phân chia các làn xe cùng chiều trong trƣờng hợp không cho
phép xe chuyển làn hoặc sử dụng làn khác vì lý do an toàn. Vạch 2.2 đƣợc sử dụng để
phân cách các làn xe cùng chiều ở những đoạn đƣờng cần thiết phải cấm xe thay đổi làn
xe.
Hỏi về vạch liên tục tại đoạn Hoàng Văn Thụ rẽ qua Nguyễn Văn Trỗi

- Vạch 3.2: Vạch liền nét, màu trắng, bề rộng vạch là 30 cm cho đƣờng ô tô thông
thƣờng và 45 cm cho đƣờng ô tô cao tốc.
Vạch 3.2 sử dụng để phân cách giữa làn xe cơ bản và làn xe chuyển tốc, giữa làn
xe cơ bản và làn xe phụ thêm, hoặc vạch phân cách, kênh hóa các làn xe trong khu vực
tách và nhập làn.
Xe không đƣợc phép chuyển làn qua vạch 3.2 trừ các trƣờng hợp khẩn cấp theo
quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ.

Hỏi về vạch liên tục tại đoạn Hoàng Văn Thụ rẽ qua Nguyễn Văn Trỗi
 
Hạng F
7/8/14
8.538
7.329
113
59
Nghiên cứ trong dự thảo thay thế QC 41/2012 thì vạch này có thể là vạch 2.2 hoặc 3.2:
b. Vạch 2.2: Vạch phân chia các làn xe cùng chiều, dạng vạch đơn, liền nét.
Áp dụng: dùng để phân chia các làn xe cùng chiều trong trƣờng hợp không cho
phép xe chuyển làn hoặc sử dụng làn khác vì lý do an toàn. Vạch 2.2 đƣợc sử dụng để
phân cách các làn xe cùng chiều ở những đoạn đƣờng cần thiết phải cấm xe thay đổi làn
xe.
View attachment 464485
- Vạch 3.2: Vạch liền nét, màu trắng, bề rộng vạch là 30 cm cho đƣờng ô tô thông
thƣờng và 45 cm cho đƣờng ô tô cao tốc.
Vạch 3.2 sử dụng để phân cách giữa làn xe cơ bản và làn xe chuyển tốc, giữa làn
xe cơ bản và làn xe phụ thêm, hoặc vạch phân cách, kênh hóa các làn xe trong khu vực
tách và nhập làn.
Xe không đƣợc phép chuyển làn qua vạch 3.2 trừ các trƣờng hợp khẩn cấp theo
quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ.

View attachment 464487
Chưa nghiên kíu phần này trong dự thảo QC 2015, hình như không còn phân biệt vạch cho đường > 60km/h và cho đường <60km/h ?
Chỉ có thể là vạch 2.2, tuy nhiên QC này vẫn đang là Dự thảo.
 
  • Like
Reactions: ntt61
Hạng D
8/6/12
1.193
1.762
113
Đúng là 3 làn này đi thẳng về ngã tư PN, còn làn 4 về NVT như vậy đâu có cùng hướng, phải có 1 trong 2 chuyển hướng.
- Là hai hướng khác nhau chứ không phải là chuyển hướng --> bác không nên đánh đồng 2 khái niệm chuyển hướng và hướng lưu thông.
- Điều 15 luật GTĐB quy định rất rõ : sử dụng đèn tín hiệu khi chuyển hướng --> tức chỉ có hành vi chuyển hướng thì mới sử dụng đèn tín hiệu --> trong trường hợp này, theo biển 411 và vạch kẻ đường thì làn thứ 4 (bên trái qua) có hướng di chuyển cố định từ ngã 3 HVT - PVH cho đến đường NVT --> như vậy khi đã lưu thông trong làn thứ 4 từ đầu ngã 3 HVT -PVH thì chuyển hướng đi đâu? Còn nếu hiểu một cách máy móc theo vạch kẻ, vạch trên biển báo thì chuyển hướng tức phải đi vào lề đường?

- Đúng nếu vạch liền này được vẻ đúng luật thì mới có tác dụng là vạch kẻ đường.
Đúng luật hay không thì do người có thẩm quyền xác định (cơ quan GT, TA, ..) --> ở đây đang bàn điều đó có phù hợp luật hay không --> không thể dựa vào để xác định hay phủ định cái đang bàn vì đã biết điều đó đúng hay sai đâu?

Tuy nhiên vạch tại trạm thu phí là vạch dành cho đường có tốc độ > 60km/h, khác với vạch tại đây là đường < 60 km/h.
- Về quy định vạch kẻ theo QC 41:2012 có 2 phụ lục G và H : áp dụng cho đường có vận tốc > và = hoậc <60km/h --> vậy đường có vận tốc .. được hiểu như thế nào --> theo quy định của TCVN 4054:2005 tại điểm 3.5 về phân loại cấp độ đường GT hiện nay thì tiêu chí tốc độ ở đây là : đường có tốc độ thiết kế lưu thông > và = hoặc <60km/h (thể hiện qua quy chuẩn xây dựng) chứ không phải là đường có tốc độ lưu thông > và = hoặc <60km/h (thể hiện qua biển báo).
- Ngay trong phụ lục G QC 41:2012 cũng thể hiện việc áp dụng vạch kẻ tại phụ lục này không chỉ áp dụng cho đường có tốc độ > 60 km/h mà có thể áp dụng cho cả < 60 km/h --> tiêu chí tốc độ ở đây là tốc độ thiết kế lưu thông , cụ thể :
+ Các trạm thu phí GT không chỉ đặt ở đường có tốc độ >60km/h mà có thể được lắp đặt tại bất cứ đường nào nếu được cấp phép --> tốc độ lưu thông thực tế không phải là tiêu chí áp dụng vạch.
+ Vạch kẻ 25, 26 là vạch chỉ hướng nhưng vẫn áp dụng cho đường có tốc độ lưu thông <60km/h (chỉ khác kích cỡ kẻ) --> áp dụng cho đường có tốc độ thiết kế trên 60km/h nhưng có tốc độ lưu thông <60km/h.
+ Vạch 30, 31, 32., 33 đều có thể áp dụng cho đường có tốc độ < 60km/h
+ Và một số vạch khác như vạch 35, 36, 52, 53, ... có tính chất tương tự
==> vạch kẻ được áp dụng dựa vào tốc độ thiết của đường chứ không hẳn dựa vào tốc độ lưu thông thực tế của đường --> đường có tốc độ thiết kế >60km/h nhưng bị giới hạn chỉ được lưu thông tốc độ <60km/h thì vẫn có thể sử dụng vạch kẻ của phụ lục G.
- Bác dẫn chứng giúp vạch liền phân làn đường cho dòng xe cùng chiều tại trạm thu phí
Bác xem tại hình G 30 vạch số 24 phụ lục G
- Bác dẫn chứng giúp vạch liền phân làn đường cho dòng xe cùng chiều tại trạm thu phí.
- Bác xem hình vạch số 24 kết hợp với tiểu đảo tại trạm thu thu phí tại phụ lục G
- Hoặc vạch 64 chia làn cùng chiều (kết hợp với tiểu đảo mềm)
- Bác trích dẫn giúp điều nào trong QC khi kết hợp vạch liền này với vạch 1.12 có tác dụng phân làn đường hoặc xác định ranh giới phần đường lưu thông tại giao lộ.
- Bác xem điểm e của phụ lục G : vạch liền kết hợp vạch dừng xe tại hình G45, G46
 
Hạng F
7/8/14
8.538
7.329
113
59
- Là hai hướng khác nhau chứ không phải là chuyển hướng --> bác không nên đánh đồng 2 khái niệm chuyển hướng và hướng lưu thông.
- Điều 15 luật GTĐB quy định rất rõ : sử dụng đèn tín hiệu khi chuyển hướng --> tức chỉ có hành vi chuyển hướng thì mới sử dụng đèn tín hiệu --> trong trường hợp này, theo biển 411 và vạch kẻ đường thì làn thứ 4 (bên trái qua) có hướng di chuyển cố định từ ngã 3 HVT - PVH cho đến đường NVT --> như vậy khi đã lưu thông trong làn thứ 4 từ đầu ngã 3 HVT -PVH thì chuyển hướng đi đâu? Còn nếu hiểu một cách máy móc theo vạch kẻ, vạch trên biển báo thì chuyển hướng tức phải đi vào lề đường?
Vẫn đang tranh luận với bác về lane 4 có chuyển hướng hay không, chưa ngã ngũ, mình vẫn lập luận nếu các làn 2,3,4 không đi về 1 hướng, mà đi về 2 hướng khác nhau thì chắc chắn sẽ có 1 trong 2 phải chuyển hướng, và theo biển 411 thì làn 4 vẽ mũi tên rẽ phải ==> đi lane này đến giao lộ sẽ chuyển hướng về bên phải, trừ khi GTCC lắp biển 411 sai, và mũi tên kẻ đường trên làn 4 rẽ phải cũng vẽ sai ?
Vấn đề hiện nay là bác đang chứng minh làn 4 này không giao cắt với đường NVT (giao lộ) nhưng chưa thuyết phục.


-Đúng luật hay không thì do người có thẩm quyền xác định (cơ quan GT, TA, ..) --> ở đây đang bàn điều đó có phù hợp luật hay không --> không thể dựa vào để xác định hay phủ định cái đang bàn vì đã biết điều đó đúng hay sai đâu?

Bác vẫn chưa chứng minh được vạch liền này đúng luật hay không mà vẫn khăng khăng (xác định) đây là vạch phân làn?


- Về quy định vạch kẻ theo QC 41:2012 có 2 phụ lục G và H : áp dụng cho đường có vận tốc > và = hoậc <60km/h --> vậy đường có vận tốc .. được hiểu như thế nào --> theo quy định của TCVN 4054:2005 tại điểm 3.5 về phân loại cấp độ đường GT hiện nay thì tiêu chí tốc độ ở đây là : đường có tốc độ thiết kế lưu thông > và = hoặc <60km/h (thể hiện qua quy chuẩn xây dựng) chứ không phải là đường có tốc độ lưu thông > và = hoặc <60km/h (thể hiện qua biển báo).
Cái này là bác tự ngộ nhận như vậy, trong QC không hề đề cập đường có vận tốc.(..).là đường có tốc độ thiết kế lưu thông (..)
- Ngay trong phụ lục G QC 41:2012 cũng thể hiện việc áp dụng vạch kẻ tại phụ lục này không chỉ áp dụng cho đường có tốc độ > 60 km/h mà có thể áp dụng cho cả < 60 km/h --> tiêu chí tốc độ ở đây là tốc độ thiết kế lưu thông , cụ thể :
+ Các trạm thu phí GT không chỉ đặt ở đường có tốc độ >60km/h mà có thể được lắp đặt tại bất cứ đường nào nếu được cấp phép --> tốc độ lưu thông thực tế không phải là tiêu chí áp dụng vạch.
Có thể đúng nhưng phải xem xét các vạch tại trạm thu phí có đường vận tốc < 60km/h có thể sẽ vẽ khác với đường có tốc độ >=60 km/h....
- " tốc độ lưu thông thực tế không phải là tiêu chí áp dụng vạch" ==> do bác tự ngộ nhận. QC41 không đề cập, nếu có nhờ bác dẫn chứng câu chữ rõ ràng.

+ Vạch kẻ 25, 26 là vạch chỉ hướng nhưng vẫn áp dụng cho đường có tốc độ lưu thông <60km/h (chỉ khác kích cỡ kẻ) --> áp dụng cho đường có tốc độ thiết kế trên 60km/h nhưng có tốc độ lưu thông <60km/h.
+ Vạch 30, 31, 32., 33 đều có thể áp dụng cho đường có tốc độ < 60km/h
+ Và một số vạch khác như vạch 35, 36, 52, 53, ... có tính chất tương tự
==> vạch kẻ được áp dụng dựa vào tốc độ thiết của đường chứ không hẳn dựa vào tốc độ lưu thông thực tế của đường --> đường có tốc độ thiết kế >60km/h nhưng bị giới hạn chỉ được lưu thông tốc độ <60km/h thì vẫn có thể sử dụng vạch kẻ của phụ lục G.
Bác xem có mâu thuẫn không khi các vạch này đã nằm trong Phụ lục G, theo bác là dành cho đường có thiết kế vận tốc > 60 km/h, mà vẫn chia làm 2 loại vạch ? Vạch dành cho đường tốc độ thiết kế > 60km/h và vạch cho đường có tốc độ thiết kế < 60 km/h? vậy Phụ lục H dành cho đường gì?
Như vậy Phụ lục G dành cho đường có tốc độ lưu thông > 60 km/h mới hợp lý và do đặc điểm địa hình, địa bàn nên 1 số đường vẫn cho phép lưu thông cao hơn tốc độ thiết kế ==> vạch kẻ có phân ra hai loại, 1 dành cho đường có tốc độ thiết kế >60 km/h và một dành cho đường có tốc độ thiết kế <=60 km/h, (cả hai đều có tốc độ lưu thông > 60km/h)
Ngay trong mục b của phần Qui định chung G.1 của Phụ lục G cũng đã nêu ra có nhiều loại đường (cho phép lưu thông tốc độ > 60 km/h): .." đường khai thác tốc độ cao, đường cấp 1, cấp 2, đường có tốc độ thiết kế > 60 km/h......Còn đối với các loại đường khác..."

Hàm ý là các loại đường trên, và nhiều đường khác ?, trong đó có cả đường có tốc độ thiết kế > 60 km/h trong phụ lục G được chạy với tốc độ lưu thông > 60 km/h.
Hỏi về vạch liên tục tại đoạn Hoàng Văn Thụ rẽ qua Nguyễn Văn Trỗi
 
Hạng F
7/8/14
8.538
7.329
113
59
.
diluantran nói:
- Bác dẫn chứng giúp vạch liền phân làn đường cho dòng xe cùng chiều tại trạm thu phí
Bác xem tại hình G 30 vạch số 24 phụ lục G

- Bác xem hình vạch số 24 kết hợp với tiểu đảo tại trạm thu thu phí tại phụ lục G
- Hoặc vạch 64 chia làn cùng chiều (kết hợp với tiểu đảo mềm)
.diluantran nói:
- Bác trích dẫn giúp điều nào trong QC khi kết hợp vạch liền này với vạch 1.12 có tác dụng phân làn đường hoặc xác định ranh giới phần đường lưu thông tại giao lộ.
- Bác xem điểm e của phụ lục G : vạch liền kết hợp vạch dừng xe tại hình G45, G46
Các hình và vạch này hoàn toàn không đề cập đến vạch liền phân làn tại trạm thu phí và vạch 1.5 kéo dài kết hợp với vạch 1.12 là vạch phân làn ?
Hỏi về vạch liên tục tại đoạn Hoàng Văn Thụ rẽ qua Nguyễn Văn Trỗi





Hỏi về vạch liên tục tại đoạn Hoàng Văn Thụ rẽ qua Nguyễn Văn Trỗi
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:
Hạng D
8/6/12
1.193
1.762
113
Vẫn đang tranh luận với bác về lane 4 có chuyển hướng hay không, chưa ngã ngũ, mình vẫn lập luận nếu các làn 2,3,4 không đi về 1 hướng, mà đi về 2 hướng khác nhau thì chắc chắn sẽ có 1 trong 2 phải chuyển hướng, và theo biển 411 thì làn 4 vẽ mũi tên rẽ phải ==> đi lane này đến giao lộ sẽ chuyển hướng về bên phải, trừ khi GTCC lắp biển 411 sai, và mũi tên kẻ đường trên làn 4 rẽ phải cũng vẽ sai ?
Vấn đề hiện nay là bác đang chứng minh làn 4 này không giao cắt với đường NVT (giao lộ) nhưng chưa thuyết phục.
- Khi lưu thông theo 2 hướng khác nhau không có nghĩa chắc chắn chỉ có 1 trong 2 là chuyển hướng, mà có thể : cả 2 không chuyển hướng hoặc cả 2 đều chuyển hướng hoặc 1 trong 2 chuyển hướng --> như vậy nếu chỉ căn cứ vào hướng di chuyển rồi kết luận đó là chuyển hướng thì căn cứ đó chưa phù hợp với luật cũng như thực tiễn.
- Có chuyển hướng hay không phải xem : hướng di chuyển được thể hiện như thế nào; cấu trúc đường tại đó có phải là giao lộ, ngã rẽ hay không, ..
- Biển 411 và vạch kẻ tại đoạn này không sai --> chỉ dẫn hướng di chuyển trên các làn đường chứ không phải biển báo chuyển hướng --> khi đã trong các làn đường rồi thì không còn là chuyển hướng nữa, cụ thể :
+ Nếu đã đi làn thứ 4 nhưng không đi về NVT nữa mà về ngã 4 PN thì khi đó là chuyển hướng và phải sử dụng đèn tín hiệu
+ Cũng như vậy, nếu đã trong làn 1,2,3 không về ngã 4PN nữa mà về NVT thì lúc này là chuyển hướng
Vấn đề hiện nay là bác đang chứng minh làn 4 này không giao cắt với đường NVT (giao lộ) nhưng chưa thuyết phục.
Thuyết phục hay không thì tùy vào cách nhìn nhận mỗi người và em chỉ nêu các căn cứ để không phải sử dụng đèn tín hiệu khi đã lưu thông trong làn thứ 4 theo biển báo 411 từ đầu giao lộ HVT - PVH :
- Làn đường này khi tiếp giáp với đường NVT hoàn toàn không có dấu hiệu gì như : vạch dừng xe, đèn GT, biển báo ngã rẽ, ... để xem là có giới hạn tiếp giáp giao lộ NVT --> mang tính lưu thông xuyên suốt --> đã lưu thông xuyên suốt không bị giới hạn thì không phải đi qua giao lộ cũng như chuểyn hướng.
- Vạch kẻ 1.5 không thẳng hàng không có nghĩa tại nơi vạch kẻ không thẳng hàng là giao lô vì không có văn bản nào quy định như vậy. Chỉ có quy định tại những nơi giao lộ sẽ có các biển báo, vạch dừng xe, đèn tín hiệu , .. được áp dụng --> làn đường này không có các biển báo, vạch dừng xe, đèn GT, .. --> là yếu tố loại trừ xem là giao lộ tại đây
- Đối chiếu biển 411và vạch kẻ thực tiễn chia làn trên đoạn đường này không thay đổi --> từ đoạn đầu HVT - PVH cho đến khi tiếp giáp với NVT vẫn 4 làn đường di chuyển xuyên suốt --> làn thứ 4 vẫn xuyên suốt từ HVT - PVH đến tiếp giáp NVT --> đã lưu thông liên tục xuyên suốt trên 1 làn đường thì không thể gọi là chuyển hướng.
Bác vẫn chưa chứng minh được vạch liền này đúng luật hay không mà vẫn khăng khăng (xác định) đây là vạch phân làn?
Khi tranh luận, bác có đọc kỹ nội dung em viết không ? --> chính vì vạch này chưa được xác định là vạch gì trong phụ lục H của QC thì mới có tranh luận này, nếu em đã có cơ sở rồi thì tranh luận với bác làm gì --> đã không xác định được nên không thể nói đúng hay sai mà chỉ xác định vạch này nó có cơ sở để xem là vạch phân làn hay không, nếu được thì cơ sở đó có phù hợp luật định để áp dụng không.
Cái này là bác tự ngộ nhận như vậy, trong QC không hề đề cập đường có vận tốc.(..).là đường có tốc độ thiết kế lưu thông (..)
- " tốc độ lưu thông thực tế không phải là tiêu chí áp dụng vạch" ==> do bác tự ngộ nhận. QC41 không đề cập, nếu có nhờ bác dẫn chứng câu chữ rõ ràng.
- Trong văn bản này không quy định về điều gì đó thì không có nghĩa nó không có giá trị mà có thể được thể hiện trong các văn bản khác có liên quan --> trong QC 41:2012 không giải thích đường có vận tốc là như thế nào, vận tốc đó là vận tốc gì, .. nhưng đối chiếu với văn bản quy định về xây dựng quản lý đường bộ GT hiện hành thì văn bản TCVN 4054:2005 là văn bản quy định về cấp độ đường và cũng là văn bản chi phối QC 41 --> QC 41 trên cơ sở phân cấp đường để có những quy định về biển báo, vạch kẻ phù hợp với từng loại cấp đường
- Trong văn bản TCVN 4054:2005 tại mục 3, 4 (rất dài nên em không trích ra đây được) có quy định các cấp độ đường theo tốc độ thiết kế --> các đường GT hiện nay được quản lý theo tiêu chuẩn này chứ không phân loại đường theo tốc độ thực tế.
- Về thực tiễn : các đường có tốc độ thiết kế > 60km/h nhưng không được sử dụng đúng tốc độ thiết kế (hạn chế với biển báo tốc độ = hoặc <60km/h) vẫn sử dụng vạch kẻ của phụ lục G : đường PVĐ, VVK, MCT, ĐBP, ... --> phụ lục G không chỉ áp dụng cho đường có tốc độ thực tế >60km/h mà có thể áp dụng cả cho đường có tốc độ thực tế < hoặc = 60km/h --> tốc độ của tiêu đề phụ lục G là tốc độ thiết kế hay tốc độ thực tế?
Bác xem có mâu thuẫn không khi các vạch này đã nằm trong Phụ lục G, theo bác là dành cho đường có thiết kế vận tốc > 60 km/h, mà vẫn chia làm 2 loại vạch ? Vạch dành cho đường tốc độ thiết kế > 60km/h và vạch cho đường có tốc độ thiết kế < 60 km/h? vậy Phụ lục H dành cho đường gì?
- Chính vì theo tốc độ thiết kế nên mới có trường hợp trong phụ lục G, một số vạch kẻ được chia làm hai loại áp dụng cho 2 tốc độ thực tế khác nhau :
+ Vạch chỉ dẫn : theo phụ G, nếu tốc độ thực tế > 60km/h kẻ kích cở khác tốc độ <60km/h nhưng không thay đổi kiểu dáng --> kiểu dáng vạch kẻ này không bị ảnh hưởng bởi tốc độ thực tế mà ảnh hưởng vào tốc độ thiết kế.
+ Vạch chỉ dẫn trạm thu phí : theo phụ lục G, hình vẽ sẽ khác giữa tốc độ thực tế >60km/h với tốc độ <60km/h
...
==> lý do : đường có tốc độ thiết kế là một chuyện, còn đường đó có được sử dụng đúng tốc độ thiết kế không là chuyện khác. Vì vậy trên con đường có tốc độ thiết kế >60km/h nhưng chỉ được thực hiện lưu thông tốc độ <60km/h (tốc độ thực tế) thì vạch kẻ trên đường này vẫn theo phụ lục G nhưng có kích cỡ khác với tốc độ thực tế > 60km/h -> chính là cơ sở chứng minh thêm tiêu chí tốc độ của phụ lục G và H là tốc độ thiết kế chứ không phải tốc độ thực tế.
- Phụ lục H dành cho đường có tốc độ thiết kế < hoặc = 60km/h --> áp dụng cho các đường theo TCVN 4054:2005 : cấp 4, 5, 6. Còn đường cấp 4, 5, 6 như thế nào bác xem trong TCVN hộ em.
 
  • Like
Reactions: nguyenhaqb
Hạng D
8/6/12
1.193
1.762
113
Các hình và vạch này hoàn toàn không đề cập đến ... vạch 1.5 kéo dài kết hợp với vạch 1.12 là vạch phân làn ?
View attachment 464789
Bác không thấy các chỉ dẫn trong hình à?
Các hình và vạch này hoàn toàn không đề cập đến vạch liền phân làn tại trạm thu phí View attachment 464790
[/QUOTE]
Thế cái vạch gì nằm ngay đầu tiểu đảo mềm trước trạm phí?