Status
Không mở trả lời sau này.
23/8/12
1.162
3
38
Mỹ có vũ khí rẻ giật mình "làm mù" sát thủ tàu sân bay của TQ

Hải quân Mỹ đang thử nghiệm hệ thống phòng thủ sương mù mới được cho là có thể đánh lừa tên lửa chống hạm của Trung Quốc.

Nguồn tin từ tạp chí National Defense của Nga cho biết, từ ngày 21-25 tháng 6 vừa qua, Hạm đội 7 Hải quân Mỹ đã tiến hành thử nghiệm hệ thống phòng thủ tên lửa mới tại đảo Guam. Không phải là các tên lửa đánh chặn tốc độ cao hay hệ thống laze, thiết bị này có khả năng tạo một lớp sương mù bào vệ tàu chiến trước các mối đe dọa từ tên lửa chống hạm. Các chuyên gia Mỹ giải thích rằng, lớp sương mù này bao gồm các hạt carbon có thể hấp thụ sóng vô tuyến, điều này làm radar tìm kiếm trên các tên lửa bị mất mục tiêu khiến tên lửa bay chệch hướng.
Cuộc thử nghiệm mang mật danh "Sương mù Pandora" có sự tham gia của 2 tàu khu trục lớp Arleigh Burke là tàu USS Mustin, USS Wayne E. Meyer (DDG-108) cùng tàu hỗ trợ tàu ngầm USS Frank Cable (AS-40). Trong cuộc diễn tập này, tàu USS Frank Cable đóng vai trò là mục tiêu giả định thay thế cho tàu sân bay (hoặc các tàu cỡ lớn như tàu đổ bộ). Sau khi phát hiện tên lửa chống hạm, thiết bị trên 2 tàu [BCOLOR=transparent]USS Mustin (DDG-89) và USS Wayne E. Meyer[/BCOLOR] đã tự động phóng sương mù chứa các hạt carbon và nhờ đó đã bảo vệ thành công tàu [BCOLOR=transparent]USS Frank Cable[/BCOLOR].
my-co-vu-khi-re-giat-minh-lam-mu-sat-thu-tau-san-bay-cua-tq.jpg

Hình ảnh từ cuộc thử nghiệm.​
Đại diện Hải quân Mỹ không cho biết rõ liệu rằng tên lửa sử dụng trong cuộc thử nghiệm dùng đầu dò chủ động hay không nhưng trong phần lớn các cuộc thử nghiệm trước đây đều không sử dụng tên lửa có đầu dò. Các thông tin thu thập từ các tàu chiến khác cũng như máy bay và trực thăng cho thấy radar của tên lửa không thể "nhìn" xuyên qua lớp sương mù dày đặc này.
BÀI LIÊN QUAN
Việc phát triển một thiết bị phòng thủ tên lửa như vậy rất có ý nghĩa và điều quan trọng hơn cả là chi phí của hệ thống này rất rẻ so với các hệ thống khác. Không chỉ [BCOLOR=transparent]sử dụng để bảo vệ các mục tiêu có kích thước lớn, hệ thống tạo sương mù này còn có thể trang bị các tàu chiến cỡ nhỏ. Nhìn lại các cuộc hải chiến ở Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai thì khói được sử dụng phổ biến ở các bên tham chiến. Và không chỉ dùng để phòng thủ, lớp khói ngụy trang còn được sử dụng cho mục đích tấn công, ví dụ như các tàu phóng lôi khi tham chiến thường phát ra màn khói nhằm cản trở tầm quan sát của pháo hạm đối phương.[/BCOLOR]​
[BCOLOR=transparent]Nhưng sử dụng sương mù nhằm phòng thủ tên lửa cũng có 1 số vấn đề như làm thế nào để nó có thể hoạt động trong điều kiện thời tiết gió to hay mưa bão? Cần biết rằng lớp sương mù chứa các hạt carbon này không những làm mù radar tên lửa đối phương mà còn ảnh hưởng đến các radar phát hiện mục tiêu trên tàu mẹ, việc sử dụng hệ thống này có thể là 1 con dao 2 lưỡi.[/BCOLOR]​
[BCOLOR=transparent]Nhà [/BCOLOR][BCOLOR=transparent]sản xuất cũng không cho biết rõ liệu hệ thống trên có thể phòng thủ trước các loại tên lửa có đầu dò hồng ngoại hay không vì bản thân hệ thống phóng mồi bẫy sương mù cũng tạo ra nhiệt lượng là điểm yếu dễ bị tên lửa có đầu dò hồng ngoại tấn công.[/BCOLOR]
[BCOLOR=transparent]Cuộc thử nghiệm "Sương mù Pandora" diễn ra sau khi Hải quân Mỹ hoàn thành cuộc điều tra về sự cố xảy ra với tuần dương hạm [/BCOLOR]USS Chancellorsville (CG-62) lớp Ticonderoga vào ngày 16-10-2013. Trong ngày hôm đó, con tàu đã tiến hành thử nghiệm hệ thống Aegi[BCOLOR=transparent]s thế hệ mới kết hợp tiêu diệt các mục tiêu giả định trên không và trên biển. Một bia bay không người lái loại BQM-74 đã mất điều khiển và đâm vào con tàu. May mắn là không có thiệt hại lớn về người và chỉ có 2 thủy thủ bị thương nhưng thiệt hại này sẽ không nhỏ nếu đó không phải là bia bay mà là 1 tên lửa chống hạm. Tàu [/BCOLOR][BCOLOR=transparent]USS Chancellorsville sau sự cố này đã phải nằm sửa chữa trong vòng nửa năm.[/BCOLOR]
my-co-vu-khi-re-giat-minh-lam-mu-sat-thu-tau-san-bay-cua-tq.jpg

Tàu USS Chancellorsville sau khi bị bia bay BQM-74 đâm trúng.​
Điều gì đã xảy ra? Tại vì sao 1 con tàu được trang bị những hệ thống phòng thủ tối tân nhất trên thế giới như tàu [BCOLOR=transparent]USS Chancellorsville lại gặp sự cố như vậy? Các số liệu từ cuộc điều tra cho thấy, sự cố này xảy ra do yếu tố con người. Hệ thống Aegis trong cuộc thử nghiệm nói trên đóng vai trò phát hiện mục tiêu để người vận hành ra lệnh tiêu diệt bằng tên lửa (hệ thống tiêu diệt tự động đã bị ngắt). Sĩ quan vận hành đã không thực hiện tốt hoặc anh ta không hiểu chuyện gì đang diễn ra nên không thể xử lý đúng.[/BCOLOR]
[BCOLOR=transparent]Bia bay BQM-74 sau khi được phóng đi đã mất điều khiển và bay hướng về phía con tàu. Bản thân bia bay này đã được lập trinh để tự hủy khi cách tàu 4,63km nhưng điều này đã không xảy ra. Hệ thống CIWS Phalanx đã phát lệnh tiêu diệt mục tiêu trên màn hình điều khiển. Sĩ quan trực tiếp vận hành hệ thống Phalanx đã báo cáo cấp trên yêu cầu được tiêu diệt mục tiêu như bị từ chối. Chỉ đến khi sĩ quan phụ trách thử nghiệm thông báo rằng bia bay đã bị mất điều khiển, lúc này là 13h14'17", thì tất cả mới nhận ra nhưng lúc này đã quá muộn. Báo cáo cũng chỉ ra rằng kíp điều khiển không sử dụng bất kỳ chất kích thích nào như: cần sa, bia, rượu,... trước cuộc thử nghiệm và đây hoàn toàn do lỗi sơ suất.[/BCOLOR]
3 nguyên nhân chính được chỉ ra trong vụ tai nạn trên: đầu tiên là việc mất điều khiển giữa tàu mẹ và bia bay, thứ 2 là việc thiếu tự tin cũng như thiếu sót trong trách nhiệm của sĩ quan vận hành, thứ 3 là việc thay đổi trong hệ thống tự động phản ứng của con tàu. Điều này chỉ ra rằng bản thân trong hệ thống, dù là có tối tân thế nào đi nữa cũng xảy ra lỗi.
Nói một cách khác, Hải quân Mỹ cần thêm các hệ thống phòng thủ tên lửa khác và cuộc thử nghiệm "Sương mù Pandora" đã chứng minh điều này. Đặc biệt khi các mối lo ngại về nguy cơ đến từ tên lửa chống hạm của Trung Quốc như C-602, C-805 và DF-21D đang ngày càng tăng cao với các chỉ huy Hải quân Mỹ,
Trung Quốc hiện nay đang tăng cường sức mạnh Hải quân để đối đầu với Hải quân Mỹ. Tên lửa đạn đạo DF-21D đã đạt được những mốc quan trọng đầu tiên trong quá trình thử nghiệm với khả năng tấn công bằng đầu đạn thông thường ở khoảng cách 1.450km với độ chính xác cao. Những hình ảnh chụp từ sa mạc Gobi cho thấy tên lửa DF-21D đã đánh trúng một mục tiêu dài 200m mô phỏng tàu sân bay.
Các tên lửa DF-21D được dẫn đường từ vệ tinh và nhằm tăng khả năng chính xác, Trung Quốc đã thực hiện thử nghiệm kết hợp cùng với các máy bay trinh sát. Hiện nay, Trung Quốc đã triển khai đủ số lượng vệ tinh giúp tên lửa DF-21D có thể bắn chính xác. Với động năng của tên lửa khi đánh trúng mục tiêu sẽ không cho phép nó có cơ hội sống sót.
my-co-vu-khi-re-giat-minh-lam-mu-sat-thu-tau-san-bay-cua-tq.jpg

Ảnh đồ họa vũ khí siêu vượt âm WU-14 của Trung Quốc.​
Ngoài DF-21D, vào ngày 09-01-2014, Trung Quốc cũng đã thử nghiệm vũ khí siêu vượt âm WU-14 (có một số nguồn gọi là DF-26), loại vũ khí này có tốc độ bay lên đến 10 Mach và tầm bắn lên đến 3.200km. Các chuyên gia Mỹ đã tính toán rằng các hệ thống phòng thủ tên lửa tương lai của Mỹ chỉ có thể tiêu diệt được tên lửa bay với vận tốc 5 Mach, điều này có nghĩa rằng khả năng đánh chặn WU-14 là không thể.
Trong khi đó, tên lửa DF-21D có thể sử dụng nhiều đầu đạn để tiêu diệt cùng lúc nhiều mục tiêu khác nhau và nhằm cung cấp thông tin chính xác nhất thì DF-21D còn cần các radar dẫn bắn qua đường chân trời.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng vừa trình làng mẫu tên lửa tiêu diệt radar PL-16 được quảng cáo là vượt trội hoàn toàn loại tên lửa tương tự của Mỹ là loại AGM-88 HARM. PL-16 có tốc độ bay lên đến 2.880km/giờ và được sử dụng nhằm mục đích tiêu diệt các radar trên mặt đất hoặc radar của hệ thống Aegis. Nếu PL-16 đánh trúng mục tiêu thì trên 60% các thiết bị điện tử trên tàu chiến của Mỹ sẽ bị tê liệt và trong trường hợp này thì hệ thống sương mù cũng không thể giúp được con tàu.
 
23/8/12
1.162
3
38
Kho tên lửa chống hạm đa dạng & mạnh nhất thế giới của Nga

Kh-35/3M24 Uran - Tên lửa đối hạm Nga mang phong cách phương Tây


(Soha.vn) - Kh-35/3M24 Uran còn được gọi là Harpoonski vì giống tên lửa chống tàu AGM/RGM-84 Harpoon của Mỹ từ ý tưởng đến hình dạng và các đặc tính kỹ chiến thuật.

Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P8)
Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P9)
kh353m24-uran-ten-lua-doi-ham-nga-mang-phong-cach-phuong-tay.jpg
Thông số cơ bản của tên lửa Kh-35/3M24 Uran (SS-N-25 Switchblade)
Dài: 3,85 m​
Đường kính: 420 mm​
Sải cánh: 930 mm​
Tầm bắn: 130 km​
Tốc độ: Mach 0,8​
Đầu đạn: 145 kg HE​
Trọng lượng phóng: 610 kg​
Khí tài trang bị:​
Tàu hộ vệ tên lửa dự án 1135.4-Krivak IV, dự án 1454-Neustrashimy, dự án 1166.1-Gepard; Tàu tên lửa cỡ nhỏ dự án 1241.8-Molniya và dự án 151A-Sassnitz.​
Máy bay: Tu-142 Bear, MiG-29K Fulcrum, Su-27SKM Flanker, Su-32/34 Fullback và trực thăng Ka-27 Helix.​
Nước sử dụng: Nga, Việt Nam, Ấn Độ và Algeria.​
Theo một quyết định được đưa ra vào tháng 4/1984, OKB Zvezda bắt đầu tiến hành nghiên cứu chế tạo một loại tên lửa chống tàu đa năng thế hệ mới có thể phóng đi từ tàu mặt nước, máy bay hoặc từ xe phóng trên đất liền. Loại tên lửa này sau đó được định danh là Kh-35 (phiên bản phóng từ máy bay) hay 3M24 (phiên bản phóng từ tàu chiến). Nó gần như là bản copy của tên lửa chống tàu AGM/RGM-84 Harpoon khi giống từ ý tưởng đến hình dạng và các đặc tính kỹ chiến thuật.​
Phiên bản phóng từ trên không Kh-35 có thể được bắn ở độ cao từ 200-5.000m và đạt tới tầm xa 150 km. Kh-35 được thiết kế để tấn công các tàu chiến nhỏ có tốc độ cao như tàu tên lửa, tàu phóng lôi của kẻ thù và cũng có thể sử dụng để tấn công tàu vận tải có lượng giãn nước lên đến 5.000 tấn. Đối tượng tác chiến của Kh-35 (3M24) Uran thường là những mục tiêu mà không yêu cầu phải triển khai các hệ thống tên lửa đối hạm tinh vi như Moskit hay Oniks, đó là lí do vì sao Kh-35 Uran có kích thước khá nhỏ và ít phức tạp. Đầu dò của tên lửa được tối ưu hóa cho việc tấn công những tàu xuồng có diện tích phản xạ radar thấp và tốc độ di chuyển cao. Tên lửa được trang bị một đầu đạn HE nhẹ có trọng lượng 145 kg mặc dù một vài nguồn khác cho rằng trọng lượng thực sự của đầu đạn chỉ là 90 kg.​
kh353m24-uran-ten-lua-doi-ham-nga-mang-phong-cach-phuong-tay.jpg

Sơ đồ cấu tạo tên lửa Uran​
Vào đầu những năm 1990, phiên bản phóng từ tàu chiến với ký hiệu 3M24 được thử nghiệm, tầm bắn tối đa của phiên bản này đạt 130 km, tên lửa sử dụng động cơ khỏi tốc nhiên liệu rắn và động cơ hành trình turbojet nhiên liệu lỏng. Ở giai đoạn hành trình, 3M24 bay ở độ cao 10-15m với tốc độ 280 m/s. Đến giai đoạn cuối, tên lửa hạ độ cao xuống rất thấp, chỉ cách mặt biển 3-5m và giữ nguyên tốc độ. Đầu dò radar chủ động ARGS-35 của tên lửa quét được ở góc phương vị từ -45[sup]0 [/sup]- +45[sup]0[/sup], góc tà -20[sup]0 [/sup]- +10[sup]0[/sup], tầm hoạt động tối đa đạt 20 km.​
Tên lửa Uran được phóng đi từ bệ phóng tiêu chuẩn dạng container KT-184 gồm 4 ống phóng hình trụ được đặt nghiêng so với thân tàu một góc 35[sup]0[/sup] với các đường dẫn hướng gắn ở phía bên trong, hai đầu ống phóng được bịt bằng các nắp đậy và sẽ được mở ra khi chuẩn bị phóng. 4 bệ phóng KT-184 (16 tên lửa) đã được lắp đặt trên các tàu hộ vệ tên lửa cỡ nhỏ Molniya dự án 1241.8, những tàu này được xuất khẩu cho Việt Nam và chỉ có 1 chiếc cùng loại được Hải quân Nga dùng với mục đích thử nghiệm và huấn luyện thủy thủ nước ngoài.​
kh353m24-uran-ten-lua-doi-ham-nga-mang-phong-cach-phuong-tay.jpg

Tàu tên lửa cỡ nhỏ Molniya dự án 1241.8​
Kiểu bố trí hệ 4 bệ phóng KT-184 cũng được nhìn thấy trên chiếc tàu hộ vệ tên lửa duy nhất của Nga thuộc dự án 1154 mang tên Neustrashimy được đưa vào phục vụ từ năm 1993 trong thành phần Hạm đội Baltic, tuy nhiên các bệ phóng thực ra chưa bao giờ được gắn lên. Ngoài ra, 2 chiếc tàu hộ vệ cũ thuộc dự án 1135 Krivark I gồm Legkiy và Pilkiy đã hiện đại hóa lên chuẩn “1135.2” cũng được trang bị 2 bệ phóng KT-184 gồm 8 ống phóng cho tên lửa 3M24 Uran. Trong suốt năm 2002, những tàu này chưa mang theo tên lửa trong những chuyến tuần tra mà đó chỉ là những ống phóng rỗng. Các tàu trên đều sử dụng radar MR-755 Fregat (NATO: Half Plate) cho việc trinh sát mục tiêu trên không, trên biển và radar Garpun-Bal (NATO: Plank Shave) để kiểm soát hỏa lực.​
Radar Garpun-Bal có khả năng kết hợp và nhanh chóng chuyển đổi từ chế độ làm việc chủ động sang thụ động. Ở chế độ chủ động, radar hoạt động trên băng tần I/J, có thể xác định và theo dõi cùng lúc 150 mục tiêu, tầm hoạt động tối đa của radar ở chế độ này là 35-45 km. Kênh bị động sẽ tìm kiếm những tín hiệu dạng xung và sóng liên tục. Khi một tín hiệu được định vị, radar sẽ xác định đối tượng phát ra tín hiệu thù địch này thông qua thư viện gồm hơn 1.000 mẫu sẵn có, sau đó sẽ tiến hành đo đạc và tính toán các tham số mục tiêu. Tầm tối đa của kênh bị động lên tới trên 100 km phụ thuộc vào tần số.​
kh353m24-uran-ten-lua-doi-ham-nga-mang-phong-cach-phuong-tay.jpg

Tàu hộ vệ tên lửa Neustrashimy dự án 1154​
Ngoài Việt Nam, một khách hàng khác của hệ thống tên lửa Uran là hải quân Ấn Độ với 4 chiếc khu trục hạm lớp Delhi được vũ trang 16 ống phóng mỗi chiếc. Những tàu này cũng được trang bị radar MR-755 Fregat và Garpun-Bal. Một loại chiến hạm khác của Ấn Độ sử dụng 3M24 Uran là 4 chiếc tàu tuần tiễu P-25A Kora với 4 bệ phóng KT-184 mang theo 16 đạn tên lửa.​
kh353m24-uran-ten-lua-doi-ham-nga-mang-phong-cach-phuong-tay.jpg

Khu trục hạm lớp Delhi​
Bên cạnh phiên bản tên lửa đối hạm, một phiên bản tên lửa hành trình tấn công mặt đất phóng từ tàu mặt nước sử dụng hệ thống dẫn đường Glonass cũng đã được phát triển với tên gọi 3M24M Uranium (3M24E1 dành cho xuất khẩu). Tên lửa 3M24E1 dự kiến sẽ đi vào phục vụ trong Hải quân Ấn Độ. Để đáp ứng nhiệm vụ mới phần thân của tên lửa được kéo dài để mang theo nhiều nhiên liệu hơn, nhờ vậy tầm bắn tối đa tăng lên tới 250 km.​
Khác với Uran, Uranium được lắp một đầu dò sử dụng công nghệ ảnh hồng ngoại tại vị trí của radar chủ động (có một báo cáo cho rằng đầu dò hồng ngoại này cũng đã được thử nghiệm lắp đặt trên tên lửa đối hạm 3M24). Phiên bản tên lửa hành trình không đối đất trang bị cho máy bay được định danh Kh-37 có thêm biến thể dẫn đường bằng TV so với chỉ sử dụng đầu dò hồng ngoại như trên 3M24M.​
P-900 Klub - Tên lửa đối hạm kỳ lạ nhất của Nga

(Soha.vn)- Gia đình tên lửa Klub với nhiều phiên bản được phát triển dành cho các mục đích và phương tiện mang phóng khác nhau được đánh giá là vũ khí lợi hại nhất của Hải quân Nga

Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P7)
Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P8)
p900-klub-ten-lua-doi-ham-ky-la-nhat-cua-nga.jpg
Thông số cơ bản của tên lửa P-900 Klub (SS-N-27 Sizzler)
Dài: 6,2 - 8,22 m
Đường kính: 533 mm
Sải cánh: 3,08 m
Tầm bắn: 220 - 300 km (500 km với phiên bản nội địa)
Tốc độ: Mach 0.8 - 2.9 (tùy phiên bản)
Đầu đạn: 200 - 400 kg xuyên thép
Trọng lượng phóng: 1.780 - 2.300 kg
Khí tài trang bị: Tàu hộ vệ tên lửa dự án 11356-Talwar, tàu hộ vệ tên lửa cỡ nhỏ dự án 21631-Buyan-M; tàu ngầm diesel điện dự án 636/877-Kilo, dự án 677-Lada; tàu ngầm hạt nhân dự án 885-Yasen; máy bay hải quân Tu-142, Tu-22M3
Nước sử dụng: Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam
Gia đình tên lửa Klub được phát triển bởi NPO Novator tại Yekaterynburg, một công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất tên lửa đất đối không (SAM), có thể kể ra đây một vài sản phẩm tiêu biểu như Krug, Buk,và S-300V (đã hợp thành các hệ thống SAM bởi Antey). Chương trình phát triển tên lửa Klub bắt đầu vào cuối những năm 1980 và dẫn đến một công nghệ được biết dưới tên gọi 3M51 Alfa (còn gọi là Beryuza). Gia đình hiện tại thường được gọi là 3M54 Klub gồm có Klub-S phóng từ tàu ngầm và Klub-N dùng cho tàu mặt nước.​
Tên lửa Klub-S được phóng bằng ống phóng ngư lôi trong khi Klub-N được bắn từ ống phóng thẳng đứng 533 mm, biến thể của loại tên lửa dùng cho tàu ngầm và tàu mặt nước khác nhau ở bộ phận khởi tốc. Có tất cả 5 phiên bản tên lửa Klub, 2 trong số đó là những phiên bản “dài” 3 giai đoạn với chiều dài khoảng 8m. Chúng vừa với các ống phóng ngư lôi của Nga nhưng không vừa với các ống phóng 533 mm theo chuẩn phương Tây có chiều dài chỉ 6,5m. Điều này nghĩa là cả 5 phiên bản trên có thể sử dụng cho các tàu ngầm Nga trong khi các tàu ngầm phương Tây chỉ có thể sử dụng 3 phiên bản “ngắn”.​
p900-klub-ten-lua-doi-ham-ky-la-nhat-cua-nga.jpg

Các thành viên trong gia đình tên lửa Klub​
Tên lửa siêu âm 91RE1 (dài) và 91RE2 (ngắn) là phiên bản chống tàu ngầm, đầu đạn của tên lửa là loại ngư lôi tự tìm mục tiêu 324 mm. Sau khi phóng, cả hai bay trực tiếp đến mục tiêu theo quỹ đạo “đường đạn” thông qua hệ dẫn đường quán tính (INS). Tầm xa của chúng tương ứng là 50 km và 40 km.​
BÀI LIÊN QUAN
Tên lửa siêu âm 3M14 (NATO : SS-N-30) là phiên bản tên lửa hành trình tấn công mặt đất có tầm xa 300 km sử dụng hệ thống định vị giai đoạn giữa tổng hợp INS/GLONASS và đầu dò “So khớp ảnh” (tương tự như công nghệ DSMAC của tên lửa BGM-109 Tomahawk)​
Hai loại cuối là phiên bản tên lửa hành trình đối hạm. Biến thể “dài” 3M54 (hay 3M54E dành cho xuất khẩu) là tên lửa siêu âm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 là khởi tốc trong khi giai đoạn 2 là bay hành trình. Tên lửa có thể được phóng đi từ bệ phóng thẳng đứng, bệ phóng nghiêng hay từ ống phóng ngư lôi. Khi lên tới độ cao 150m, động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn được vứt bỏ, cửa lấy khí dưới thân tên lửa sẽ mở ra và động cơ turborjet được khởi động, cùng lúc này các cánh chính và cánh đuôi cũng được duỗi ra. Tên lửa chuyển sang chế độ bay hành trình ở độ cao 10-15m trên mực nước biển.​
Ở cách mục tiêu 30-40 km, tên lửa leo lên cao và khởi động radar tìm đường chủ động ARGS-54. Sau khi mục tiêu được định vị và chế độ quán tính được cập nhật, tại cự ly cách mục tiêu 20 km tên lửa chuyển sang giai đoạn 3 khi tăng tốc độ lên Mach 2,9 rồi lao xuống tấn công mục tiêu thông qua sự điều khiển của đầu dò radar chủ động/thụ động ARGS-54. Từ 15-20 km cuối, tên lửa bay lướt sóng ở độ cao 3-5m và giảm tốc độ đôi chút.​
Đầu dò ARGS-54 của Klub được phát triển bởi Radar MMS 083 St.Petersburg có thể phát hiện mục tiêu cỡ tàu khu trục ở cự ly 60 km tại góc quét 45[sup]0[/sup]. Đầu đạn của tên lửa siêu âm 3M54E là loại xuyên thép nặng 200 kg. Với tốc độ cao cùng khả năng thao diễn tốt và có tín hiệu phản xạ radar thấp do được bao phủ bởi một lớp sơn hấp thụ sóng radar đặc biệt, tên lửa Klub được đánh giá là có thể xuyên thủng mọi hệ thống phòng thủ của chiến hạm. Tầm bắn tối đa của 3M54E đạt 200 km.​
Phiên bản 3M54E1 được thiết kế chỉ để xuất khẩu, nó là biến thể “ngắn” có tốc độ dưới âm. Tên lửa cũng được trang bị đầu dò ARGS-54 như 3M54E sử dụng trực tiếp trong giai đoạn 2 cùng với đầu đạn nặng 400 kg. 3M54E1 bay với tốc độ Mach 0,6-0,8 ở tầm cao 150m trong giai đoạn đầu và giảm dần xuống đến 15m ở gian đoạn bay hành trình. Khi cách mục tiêu 40-50 km, tên lửa leo lên cao để định vị mục tiêu và khi định vị được nó giảm độ cao xuống rất thấp (3-5m khi biển êm và 5-10 m khi biển động). Đầu dò của tên lửa sẽ được kích hoạt lại ở khoảng cách 20-30 km cho việc tấn công ở giai đoạn cuối. 3M54E1 có tầm xa 300 km.​
Gia đình tên lửa Klub từ khi chưa được chấp nhận phục vụ trong hải quân Nga đã được xuất khẩu cho một vài quốc gia khác. 3 chiếc frigate lớp Talwar của Ấn Độ đóng ở Nga được vũ trang 8 bệ phóng thẳng đứng mỗi chiếc. Ngoài ra, tên lửa Klub cũng đã được chấp nhận trang bị cho tàu ngầm lớp Lada đóng cho hải quân Nga và có thể trên cả phiên bản Amur dành cho xuất khẩu. Bên cạnh tàu ngầm Lada, tên lửa Klub-S cũng đã được tích hợp lên thế hệ tàu ngầm Kilo cũ hơn ở cả 2 biến thể 636 và 877 EKM.​
p900-klub-ten-lua-doi-ham-ky-la-nhat-cua-nga.jpg

Tàu ngầm St. Petersburg lớp Lada​
Điều thú vị là hệ thống tên lửa Klub-S cũng được trang bị cho cả tàu ngầm hạt nhân lớp Yasen và nó được bắn đi từ ống phóng ngư lôi 533 mm trong khi tàu đã có sẵn 24 bệ phóng thẳng đứng dùng để bắn tên lửa Oniks.​
Theo một số nguồn tin thì phiên bản chính thức của tên lửa Klub dùng cho hải quân Ấn Độ sẽ là phiên bản tấn công đất liền. Đã có một số dự đoán về việc Ấn Độ sẽ trang bị đầu đạn hạt nhân cho những tên lửa này mặc dù cho đến nay thông tin trên vẫn chưa được xác thực.​
Hiện tại đã có dự đoán về một biến thể phóng từ trên không của tên lửa Klub sẽ phát triển để trang bị cho máy bay Hải quân Tu-142. Nếu phiên bản phóng từ máy bay của Alfa được sản xuất thì chắc chắn những chiếc Tu-22M3 sẽ cũng được trang bị để mang chúng.​
P-270 Moskit-M - Tên lửa đối hạm nhanh nhất thế giới

(Soha.vn) - Với tốc độ tối đa lên tới Mach 3, P-270 Moskit-M chính là tên lửa đối hạm nhanh nhất thế giới hiện nay.

Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P5)
Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P6)
p270-moskitm-ten-lua-doi-ham-nhanh-nhat-the-gioi.jpg
Thông số cơ bản của tên lửa P-80 Zubr (3M80)/ P-80M Moskit (3M82)/ P-270 Moskit-M (3M82M) - (SS-N-22 Sunburn)
Dài: 9,385/ 9,72/ 9,73 m
Đường kính: 1,298 m
Sải cánh: 1,9/ 2,1/ 2,1 m
Tầm bắn: 93/ 120/ 160 km
Tốc độ: Mach 2,6/ Mach 3/ Mach 3
Đầu đạn: 320 kg HE hay 200 kT
Trọng lượng phóng: 3.950/ 4.150/ 4.150 kg
Tàu trang bị: Khu trục hạm dự án 956-Sovremenny, dự án 1155B-Udaloy II; Tàu tên lửa cỡ nhỏ dự án 1242.1-Molniya; tàu tên lửa chạy trên đệm khí dự án 1239-Bora.
Nước sử dụng: Nga,Trung Quốc
Vào những năm đầu 1970, nhận thấy gia đình tên lửa P-15 không còn đáp ứng được những yêu cầu của tác chiến Hải Quân hiện đại khi có khả năng thâm nhập kém cùng tầm bắn gần. Một nhóm các nhà thiết kế từ MKB Raduga (Dubna) đã bắt đầu phát triển một loại tên lửa chống tàu siêu âm mới được định danh 3M80 Zubr (SS-N-22 Sunburn theo mã NATO) hay còn được gọi với tên khác là P-80. Tên lửa được trang bị một hệ thống dẫn đường mới bằng radar chủ động / thụ động được phát triển bởi GosNPO Altair. Radar của tên lửa có thể chuyển đổi từ chế độ chủ động sang thụ động khi gặp phải các biện pháp đối kháng điện tử mạnh của đối phương.​
BÀI LIÊN QUAN
Cuộc thử nghiệm đầu tiên diễn ra vào năm 1973 và đến năm 1981 tên lửa được chính thức đưa vào biên chế với phiên bản đầu tiên 3M80/P-80 có tầm bắn 93 km. Đến năm 1984 xuất hiện phiên bản hiện đại hóa 3M82/ P-80M (phiên bản xuất khẩu 3M80E), tầm bắn tăng lên 120 km và phiên bản cuối cùng 3M82M Moskit-M/ P-270 tầm bắn tối đa đã lên tới 160 km, bệ phóng sử dụng cho tên lửa là loại KT-190. Các tên lửa Moskit hiện vẫn đang được sản xuất tại nhà máy AKK Progress ở Arsenyev .​
Moskit có hình dáng đặc trưng với những cánh lái cánh hình chữ "X" ở giữa thân và phần đuôi. Tên lửa có động cơ khởi tốc sử dụng nhiên liệu rắn hoạt động trong 4 giây đầu tiên sau khi phóng và động cơ phản lực dòng thẳng nhiên liệu lỏng cho giai đoạn bay hành trình. Tầm bắn tối đa đạt 120 km khi bay ở chế độ cao-thấp hoặc 80 km với chế độ thấp-thấp, cự ly tương ứng là 160 km và 120 km cho bản nâng cấp 3M82M.​
Các thông số trên là tầm bắn đã tính tới đường bay thao diễn còn thực tế tên lửa có thể đạt tầm bắn xa hơn nếu bay trực tiếp đến mục tiêu. Tốc độ của tên lửa đạt Mach 3 ở tầm cao và Mach 1,5 khi bay tầm thấp. Moskit thường chỉ có thể bị phát hiện khi đã tiến sát, cách mục tiêu dưới 30 km, với tốc độ đó mục tiêu chỉ có chưa đầy 30 giây để phản ứng. Đồng thời phương thức dẫn bắn bằng radar thụ động cho phép tên lửa nhận diện những nguồn gây nhiễu tích cực và sử dụng chúng làm kênh dẫn đường. Đặc tính này khiến cho Moskit có khả năng chống chế áp điện tử rất cao.​
Những hệ thống tên lửa 3M80 và 3M82 được giới thiệu để trang bị cho lớp tàu khu trục Sovremenny thuộc dự án 956 trong khi 3M82M được trang bị cho các tàu thuộc thế hệ sau. Có tổng cộng 18 tàu khu trục Sovremenny đã được đóng cho Hải quân Liên Xô và Nga trong giai đoạn từ 1980-1999 và có 2 tàu được bán lại cho Trung Quốc (kèm tên lửa 3M80E). Mỗi khu trục hạm vũ trang với 8 bệ phóng KT-190 chia thành 2 cụm 4 ống phóng.​
p270-moskitm-ten-lua-doi-ham-nhanh-nhat-the-gioi.jpg

Khu trục hạm dự án 956 Sovremenny​
Trong những năm 1980-1990, Hải Quân Liên Xô và sau đó Hải quân Nga đã nhận được 34 tàu tên lửa cỡ nhỏ thuộc dự án 1242.1 Molnya-M (NATO: Tarantul III), 28 trong số trên vẫn còn phục vụ trong Hải Quân Nga ngày nay, 1 được chuyển tới Ukraine vào 1997 và 5 chiếc không hoàn thành vì thiếu vốn. Những tàu trên là phiên bản hiện đại hóa của dự án 1241RE (Tarantul II) được vũ trang với 4 hệ thống phóng tên lửa P-15M Termit. Ở dự án 1242.1, tàu được trang bị 4 hệ thống phóng tên lửa P-270 Moskit-M cùng radar điều khiển hỏa lực Monolit.​
p270-moskitm-ten-lua-doi-ham-nhanh-nhat-the-gioi.jpg

Tàu tên lửa dự án 1242.1 Molniya-M​
Kiểu tàu cuối cùng: Dự án 1239 Sivuch (Bora/Dergach) là tàu tên lửa nhỏ chạy trên đệm khí với 2 chiếc đã được đóng trong năm 1989 và 1992. Bora cũng được vũ trang với 8 bệ phóng tương tự như khu trục hạm Sovremenny. Hiện tại, 1 tàu đang phục vụ trong hạm đội Baltic (Lữ đoàn 41), và 1 phục vụ trong hạm đội Biển Đen (Lữ đoàn 36).​
p270-moskitm-ten-lua-doi-ham-nhanh-nhat-the-gioi.jpg

Tàu đệm khí mang tên lửa dự án 1239 Bora​
3M80/ 3M82/ 3M82M Moskit là một trong số những tên lửa chống tàu thành công nhất của Nga. Nó được thiết kế để chống lại những hạm đội nhỏ hơn của hải quân NATO trên Biển Baltic (Đan Mạch và Đức), Biển Đen (Thổ nhĩ kỳ) và những nước không thuộc NATO trong khu vực Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc...) mục tiêu chính khác là những nhóm tàu đổ bộ của NATO.​
Khi chống lại các mục tiêu đó, những tàu chiến nhỏ sẽ đánh theo biên đội gồm 2 đến 4 chiếc và sẽ tấn công kiểu “bắn và bỏ chạy” với từ 8 đến 16 tên lửa được bắn đi trong cùng một loạt. Tên lửa Moskit được lập trình tọa độ, khai hỏa trong cùng một thời gian và bay theo hành trình dự kiến đến mục tiêu gần như cùng một lúc. Chiến thuật tương tự sẽ được sử dụng chống lại các tàu vận tải ven bờ, mặc dù số lượng tên lửa được phóng sẽ ít hơn (2 tới 4 tên lửa chống lại một mục tiêu).​
Những tàu khu trục trang bị Moskit được tổ chức thành các nhóm tấn công lớn của hải quân, hình thành xung quanh hạt nhân là các tàu tuần dương. Mục đích của nhóm này trong Chiến tranh Lạnh là để bảo vệ khu vực phía Bắc (còn gọi là "Bastion") chống lại sự xâm nhập của tàu ngầm Mỹ và các nhóm tàu sân bay, để hỗ trợ những chiến dịch đổ bộ của Hải Quân Xô viết, và trong những điều kiện thuận lợi - để kiểm soát và cắt đứt tuyến đường vận chuyển trên Đại Tây Dương, phá vỡ những kênh thông tin biển giữa Mỹ và Châu Âu.​
Hiện nay trong Hải quân Nga, các khu trục hạm trang bị tên lửa Moskit vẫn được dùng với nhiệm vụ tiêu diệt những đối tượng như tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu hộ vệ cỡ lớn là thành phần trong hạm đội tàu sân bay Mỹ vì mặc dù Chiến Tranh Lạnh đã qua nhưng Hải quân Mỹ vẫn được coi là đối tượng tác chiến chính của Hải quân Nga.​
P-700 Granit - Sát thủ diệt tàu sân bay

(Soha.vn) - Là vũ khí chủ lực của tuần dương hạm hạt nhân lớp Kirov và tàu ngầm hạt nhân lớp Osca, P-700 Granit được coi là sát thủ đối với hạm đội tàu sân bay Mỹ.

Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P4)
Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P5)
1-58e62.jpg
Thông số cơ bản của tên lửa P-700 Granit (SS-N-19 Shipwreck)
Dài: 10 m
Đường kính: 835 mm
Sải cánh: 2,6 m
Tầm bắn: 550 km
Tốc độ: Mach 2,5
Đầu đạn: 750 kg HE hay 200/ 350 kT
Trọng lượng phóng: 7.000 kg
Tàu trang bị: Tàu ngầm dự án 949-Osca I và dự án 494A-Osca II; Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov-dự án 1143.5 và Tuần dương hạm hạt nhân lớp Kirov.
Nước sử dụng: Liên Xô/ Nga
Trong suốt những năm 1970, hệ thống phòng thủ ASW xung quanh các hạm đội tàu sân bay Mỹ đã làm giảm khả năng tác chiến của các tàu ngầm Liên Xô vũ trang với tên lửa Ametist/ Malakhit (SS-N-7/9 Starbright/ Siren). Cùng thời điểm này Hải quân Liên Xô mong muốn sẽ vững mạnh lên bằng các hệ thống phòng thủ SSBN Bastion, điều này dẫn đến yêu cầu trang bị một loại tên lửa mới sử dụng động cơ turbojet có hiệu suất cao hơn P-500 Bazalt (SS-N-12 Sandbox). Đây sẽ là loại tên lửa chống tàu tầm xa bay thấp được phóng đi từ tàu mặt nước và các tàu ngầm hạt nhân lớp Osca.​
Hệ thống tên lửa P-700 được bắt đầu phát triển vào năm 1969 nhưng quá trình này bị kéo dài vì sự phức tạp của công việc. Tên lửa Granit được dẫn đường chủ yếu thông qua hệ thống vệ tinh do thám và nó có khả năng giao tiếp trực tiếp với vệ tinh ngay sau khi được phóng lên. Các thông tin ban đầu về mục tiêu được nhận bởi một tàu ngầm di chuyển ở độ sâu khoảng 30 m thông qua một hệ thống thông tin liên lạc sóng dài từ các căn cứ mặt đất.​
Cuộc tấn công của tàu ngầm thường được phối hợp với một nhóm máy bay chống tàu tầm xa Tu-22M. Nhóm tàu ngầm tấn công gồm có từ 3-5 chiếc Osca I và Osca II, mỗi chiếc mang 24 tên lửa P-700. Những tàu ngầm này sẽ phóng đi từ 70-120 tên lửa để chống lại hạm đội tàu sân bay trong cuộc tấn công phủ đầu. Khoảng 30-50% số tên lửa là dành cho tàu sân bay trong khi những tên lửa còn lại dành cho các tàu hộ tống. Một loạt đạn khác từ 12-24 tên lửa được phóng từ các máy bay để dập tắt cuộc phản công từ hạm đội đối phương. Tốc độ 30 Knot của các tàu ngầm Osca I/II sẽ giúp nó tiếp cận nhanh chóng khu vực tác chiến cách nhóm tàu sân bay khoảng 450 - 500 km và nhanh chóng tẩu thoát sau khi tấn công.​
2-58e62.jpg

Máy bay ném bom Tu-22M Backfire​
P-700 Granit sử dụng tất cả các công nghệ của Bazalt và Vulkan. Mỗi tên lửa dẫn đầu trong loạt đạn 24 tên lửa sẽ bay ở tầm cao để tìm mục tiêu, nó sử dụng radar ở cả chế độ chủ động và thụ động trong đó chế độ chủ động dùng để tìm nhanh rồi chuyển sang chế độ thụ động để tăng khả năng thâm nhập. Tên lửa dẫn đầu sẽ chỉ định mục tiêu cho những tên lửa trong nhóm và giao tiếp với các tên lửa dẫn đầu khác để phối hợp tấn công trong một loạt đạn lớn.​
BÀI LIÊN QUAN
Để tăng xác suất thành công, các tên lửa được trang bị 1 máy tính kỹ thuật số mạnh gồm 3 bộ vi xử lý và bộ thiết bị chống đối kháng điện tử để tránh các tên lửa phòng không và biện pháp gây nhiễu của kẻ thù. Máy tính có thể ra lệnh cho tên lửa thực hiện đường bay thao diễn đa dạng ở nhiều độ cao khác nhau. Ở tầm cao tên lửa có tốc độ Mach 2.5 và ở tầm thấp là Mach 1.5. Các phần chính của tên lửa được bọc thép để có thể chịu được các loại hỏa lực như đạn 20mm của hệ thống Phalanx hoặc các mảnh vỡ của tên lửa phòng không. P-700 Granit có thể mang theo đầu đạn hạt nhân với nhiều lựa chọn từ 200kT - 350kT hay đầu đạn quy ước nặng 750 kg với thuốc nổ AP, HE cho mục đích chính là chống tàu nhưng cũng có thể dùng để tấn công các mục tiêu trên đất liền.​
Granit sử dụng động cơ turbojet KR-93 cho giai đoạn bay hành trình sau khi được phóng lên bằng động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn ở đuôi. Đầu dò của tên lửa được cho là hoạt động ở các chế độ ESM trên băng tần J (10-12 Ghz) và băng tần K (27-40Ghz) dùng ở giai đoạn cuối cho việc lựa chọn mục tiêu.​
P-700 được nghiên cứu phát triển trong OKB-52 (sau là NPO Mashinostoyeniya) dưới sự dẫn dắt của Chelomey, sau khi ông qua đời vào năm 1984 công việc được tiếp tục dưới sự chỉ đạo của Gerberd Efremov. Hệ thống dẫn đường của tên lửa được phát triển bởi TsNII "Granit". Tên lửa được thử nghiệm lần đầu vào tháng 11/1975 và đã trải qua nhiều cuộc kiểm tra nghiêm ngặt cấp nhà máy đến tận năm 1979, vào mùa thu năm đó tên lửa đã bắt đầu được thử nghiệm nhà nước. Do phát sinh nhiều khó khăn về kỹ thuật mà phải đến tháng 3/1983 tên lửa đã mới chính thức chấp nhận đưa vào phục vụ. Tại thời điểm này, hệ thống trinh sát vũ trụ Legenda đã được triển khai đầy đủ. Ngoài vệ tinh, tàu ngầm cũng có thể sử dụng sonar MGK-540 Skat-3 của mình để nhắm mục tiêu.​
Tên lửa P-700 cũng được giới thiệu để trang bị cho tàu chiến mặt nước. Bốn chiếc tuần dương hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Kirov được đưa vào làm nhiệm vụ từ năm 1980 đến năm 1998 gồm Kirov (đổi tên thành Đô đốc Ushakov), Frunze (đổi tên thành Đô đốc Lazarev), Kalinin (đổi tên thành Đô đốc Nakhimov) và Yuriy Andropov (đổi tên thành Pyotr Velikiy). Chúng được trang bị 20 ống phóng thẳng đứng tương tự như tàu ngầm để phóng P-700.​
3-58e62.jpg

Tuần dương hạm hạt nhân lớp Kirov​
Do được chuyển trực tiếp từ tàu ngầm lên tàu nổi nên các bệ phóng yêu cầu phải được mô phỏng bằng cách làm ngập nước trước khi phóng. Hệ thống kiểm soát hỏa lực của P-700 gồm radar MR-212 Vaygach-U lắp trên tàu và các hệ thống điện tử khác chẳng hạn như hệ thống trinh sát thụ động Gurzuf hay Kantata-M. Hai chiếc tuần dương hạm hạt nhân lớp Kirov đầu tiên đã ngưng hoạt động từ cuối những năm 1990, nhưng chiếc Đô đốc Nakhimov và Pyotr Velikiy vẫn tiếp tục phục vụ. Chỉ duy nhất 1 tàu khác được trang bị P-700 Granit là hàng không mẫu hạm Đô đốc Kuznetsov được đưa vào phục vụ từ năm 1990 và hoạt động trong hạm đội Biển Bắc của Nga từ năm 1995, chiếc tàu này vũ trang với 12 ống phóng P-700. Việc bố trí tên lửa đối hạm tầm xa giữa đường cất hạ cánh của máy bay khiến người Nga xếp con tàu này vào loại "Tuần dương hạm hạng nặng mang máy bay" bất chấp tất cả phần còn lại của thế giới đều gọi nó là tàu sân bay.​
4-58e62.jpg

Các ống phóng P-700 trên boong tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov​
 
23/8/12
1.162
3
38
P-500 Bazalt -Tên lửa đối hạm đầu tiên có thể tác chiến theo nhóm

(Soha.vn) - Điểm đặc biệt của các tên lửa đối hạm Liên Xô và Nga bắt đầu từ P-500 trở đi chính là khả năng chia sẻ dữ liệu mục tiêu trong nhóm phóng.

Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P3)
Gia đình tên lửa hành trình đối hạm của Liên Xô và Nga (P4)
1-2db6c.jpg
Thông số cơ bản của P-500 Bazalt/ P-1000 Vulkan (SS-N-12 Sandbox)
Dài: 11,7m
Đường kính: 884 mm
Sải cánh: 2,6 m
Tầm bắn: 550/ 700 km
Tốc độ: Mach 2.5/ Mach 2.8
Đầu đạn: 1.000 kg HE hay 350 kT
Trọng lượng phóng: 4.800 kg
Tàu trang bị: Tuần dương hạm mang máy bay lớp Kiev-dự án 1143, Tuần dương hạm lớp Slava-dự án 1164; Tàu ngầm hạt nhân dự án 675-Echo II
Nước sử dụng: Liên Xô/ Nga, Ukraine
P-500 Bazalt hay SS-N-12 Sandbox được thiết kế nhằm thay thế cho tên lửa P-6/ P-35 (SS-N-3 Shaddock), hiện tại chỉ còn được sử dụng trên tàu mặt nước. Tên lửa này ngày nay vẫn là một trong những loại vũ khí lợi hại nhất của Hải Quân Nga. Ban đầu, tên lửa được thiết kế có thể phóng từ cả tàu mặt nước và tàu ngầm nhằm tấn công hạm đội tàu sân bay ở cự ly trên 500 km, ngoài tầm radar của đội tàu hộ tống.​
BÀI LIÊN QUAN
Cũng như các tên lửa đối hạm khác của Nga, P-500 sử dụng động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và động cơ hành trình nhiên liệu lỏng cho phép đạt tới tốc độ tối đa Mach 2,5 khi bay cao và Mach 1,5 - 1,6 khi bay ở tầm thấp, độ cao hành trình của tên lửa từ 30 - 7.000 m.​
Điểm đặc biệt của các tên lửa đối hạm Liên Xô và Nga bắt đầu từ P-500 trở đi chính là khả năng chia sẻ dữ liệu mục tiêu trong nhóm phóng. Thông thường tên lửa đầu tiên được phóng sẽ bay ở tầm cao để xác định mục tiêu thông qua radar chủ động trong khi các tên lửa khác bay tầm thấp và ở chế độ thụ động. Tên lửa dẫn đầu sẽ truyền dữ liệu về mục tiêu cho các tên lửa còn lại và chỉ định từng mục tiêu cho mỗi tên lửa.​
Thông thường một nửa số tên lửa sẽ tấn công vào tàu sân bay và nửa còn lại sẽ tấn công các tàu khác trong khu vực. Nếu tên lửa dẫn đường bị bắn hạ thì ngay lập tức một tên lửa khác sẽ bay lên cao để tiếp tục chỉ huy. Mọi tên lửa trong nhóm phóng đều có hệ thống gây nhiễu tích cực nhằm phá vỡ tuyến phòng thủ của các loại máy bay, tàu chiến đối phương và để tăng khả năng sống sót các bộ phận tên lửa đều được bọc thép.​
Được thử nghiệm lần đầu vào những năm 1969-1970 và thử nghiệm lần cuối vào giai đoạn 1971-1975, tên lửa khi hoàn thành có tầm bắn 550 km, mang đầu đạn 1.000 kg HE hoặc đầu đạn hạt nhân 350 kT. Đã có 10 trong số 29 chiếc tàu ngầm hạt nhân Echo II đã được trang bị P-500. Khi tuần tra, các tàu ngầm sẽ trang bị 6 tên lửa mang đầu đạn thường và 2 tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Toàn bộ số tàu ngầm này đã ngưng phục vụ từ giữa những năm 1990.​
2-2db6c.jpg

Tàu ngầm hạt nhân dự án 675 Echo II​
Từ năm 1977, P-500 được trang bị cho tuần dương hạm mang máy bay lớp Kiev. Có tất cả 4 chiếc loại này đã được chế tạo, 3 chiếc đầu có 8 dàn phóng trên boong trước, chiếc cuối cùng có tên Baku trang bị 12 dàn phóng về sau được đổi tên thành Đô Đốc Gorshkov và bán cho Ấn Độ. Trước khi mang bán, con tàu đã bị tháo dỡ toàn bộ tên lửa và trang bị.​
3-2db6c.jpg

Tuần dương hạm mang máy bay lớp Kiev​
Những tàu chiến cuối cùng còn trang bị P-500 là tuần dương hạm lớp Slava. Chiếc đầu tiên phục vụ từ năm 1983, được đại tu lại vào những năm 1990 và đổi tên thành Moskva, chiếc này hiện đang biên chế trong Hạm đội Biển Đen. Chiếc thứ 2 Nguyên Soái Ustinov phục vụ từ năm 1986 trong hạm đội Biển Bắc. Chiếc cuối cùng Varyag phục vụ từ năm 1989 trong Hạm đội Biển Bắc sau này được trang bị lại bằng tên lửa P-1000 Vulkan có hình dạng tương tự P-500 nhưng tầm bắn tăng lên 700 km.​
Cả 3 chiếc được trang bị 16 dàn phóng P-500 với sự chỉ thị mục tiêu thông qua trực thăng Ka-27 Helix. Chiếc thứ 4 được trang bị P-500 là chiếc Ukrainian được hoàn thành cuối 2001 nhưng sau những tranh cãi nó đã không bao giờ được biên chế cho Hải Quân Ukraine và hiện tại đã được bán ra nước ngoài, tất nhiên trong tình trạng đã bị tháo bỏ toàn bộ vũ khí - khí tài.​
4-2db6c.jpg

Tuần dương hạm Moskva lớp Slava​
P-1000 Vulkan là tên lửa "huyền thoại" nhất của Liên Xô, nó cũng là tên lửa cuối cùng yêu cầu tàu ngầm phải nổi lên trước khi phóng. Ban đầu NATO không phát hiện ra sự phục vụ của P-1000 trong hải quân Liên Xô mặc dù nó đã được trang bị cho 5 tàu ngầm.​
P-1000 gần như tương tự P-500 nhưng có vỏ cùng nhiều bộ phận bằng thép khác được thay thế bằng Titan. Điều này giúp giảm đáng kể trọng lượng, động cơ tên lửa mạnh hơn và có hiệu suất cao hơn cho phép nâng tầm bắn lên tới 700 km. Tên lửa được phát triển từ tháng 5/1979, trải qua các cuộc thử nghiệm giữa những năm 1980 và đưa vào phục vụ từ năm 1987. Cuối những năm 1980, tên lửa được trang bị cho 5 tàu ngầm Echo II hiện đại hóa. Do đến giữa những năm 1990 các tàu ngầm này đã ngừng phục vụ nên thực tế P-1000 chỉ phục vụ được 7-8 năm trên tàu tuần dương Varyag.​
Do có tầm bắn rất xa nên trong pha giữa tên lửa P-500/ P-1000 thường được cập nhật tham số mục tiêu ở ngoài đường chân trời thông qua các máy bay như Tu-95 RC Bear-D, Ka-25 Hormone-B hoặc Ka-27 Helix-B. Cấu hình của tên lửa tương tự như Shaddock nhưng radar chủ động lắp ở mũi đã được nâng cấp năng lực chống đối kháng điện tử khi có khả năng chuyển sang chế độ thụ động tấn công thẳng vào nguồn gây nhiễu của đối phương.​
Vì được phát triển dựa trên P-35 Shaddock nên P-500 Bazalt có hình dáng bên ngoài khá tương đồng, nhiều nguồn tin Trung Quốc vẫn cho rằng Việt Nam có P-500 có lẽ là do nhầm lẫn giữa 2 loại tên lửa này. Tuy nhiên phiên bản P-35B hiện đại hóa của hệ thống Redut-M cũng đã tiệm cận được các tính năng với P-500.​
 
23/8/12
1.162
3
38
Mỹ lấy đại bác giết “muỗi” ở Iraq

Mỹ đang điều những chiếc máy bay trị giá hàng chục triệu USD để phá hủy các xe Humvee do chính nước này trao cho quân đội Iraq nhưng nay lại lọt vào tay Tổ chức Nhà nước Hồi giáo

Tổng thống Mỹ Barack Obama tối 10-9 đã vạch ra chiến lược nhằm làm suy yếu và tiêu diệt Tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS), bật đèn xanh cho quân đội không kích IS không chỉ ở Iraq mà cả Syria.
Tiêu tốn 7,5 triệu USD/ngày
Quân đội hùng mạnh nhất thế giới đang phái đi những chiếc máy bay trị giá hàng chục triệu USD và cả phi công được đào tạo bài bản nhằm phá hủy các xe Humvee do Mỹ sản xuất (giá ban đầu là 70.000 USD nhưng đã tăng lên 160.000-220.000 USD/chiếc).
Với sự giúp sức của binh sĩ người Kurd và Iraq dưới mặt đất, các cuộc không kích kể từ ngày 8-8 đã đạt được một số thành công nhất định khi đẩy lùi các tay súng IS ra khỏi đập Mosul (Iraq). Bộ Chỉ huy trung ương Mỹ xác nhận các vụ không kích từ ngày 22-8 đã phá hủy 5 xe bọc thép đa dụng và lưu động Humvee.
Mỉa mai thay, những chiếc xe này do chính Mỹ trao cho quân đội Iraq. IS đã tràn vào Mosul, cướp bóc các kho vũ khí của Iraq, trong đó có xe Humvee, cách đây 2 tháng.
my-lay-dai-bac-giet-muoi-o-iraq.jpg

Loại máy bay chiến đấu F/A-18 Hornet tham gia không kích ở Iraq có giá từ 30-50 triệu USD tùy theo phiên bản Ảnh: US NAVY​
Trong khi hầu hết người dân Mỹ không muốn chính phủ can thiệp quân sự nhiều hơn ở Trung Đông thì người phát ngôn Lầu Năm Góc John Kirby hồi cuối tháng 8 đã tung tin sốc. Chuẩn đô đốc này tiết lộ trung bình mỗi ngày, Mỹ tiêu tốn 7,5 triệu USD cho các hoạt động chống IS ở Iraq. Còn tại Afghanistan, Lầu Năm Góc đã “đốt” 1,3 tỉ USD chỉ trong 1 tuần.
BÀI LIÊN QUAN
Hãng tin Reuters ước tính đó là các khoản như nhiên liệu cho máy bay thực hiện sứ mệnh do thám và không kích, chi phí tên lửa và các loại bom đạn cũng như tiền chi cho nhân lực.​
Đến nay, quân đội Mỹ đã thực hiện khoảng 160 vụ không kích ở Iraq trong khi tiến hành khoảng 60 lần do thám mỗi ngày. Chi phí này trích từ ngân sách chiến tranh khoảng 80 tỉ USD trong năm 2014 của Lầu Năm Góc.​
Ông Kirby nhấn mạnh: “Các khoản chi tiêu vẫn nằm trong giới hạn cần thiết cho năm 2014”. Đồng thời, ông lưu ý rằng Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel trước đây từng tuyên bố Lầu Năm Góc sẽ không cần bổ sung ngân sách cho chi phí ở Iraq trong năm nay nhưng có thể yêu cầu quốc hội chuẩn chi thêm trong năm tài khóa 2015 bắt đầu từ tháng 10 tới.​
Lầu Năm Góc đang đối mặt với vấn đề ngân sách lớn hơn vào năm 2016 nếu ngân sách tự động bị cắt giảm trong khi quân đội đang được lệnh cắt giảm dự toán chi tiêu gần 1.000 tỉ USD trong vòng 10 năm.
Không nhằm nhò gì với IS
Dù đang phải tiêu tốn những khoản tiền khổng lồ cho chiến dịch quân sự ở Iraq, một quan chức cao cấp Lầu Năm Góc dự kiến các cuộc không kích hiện nay của Mỹ ở Iraq chỉ có tác động tối thiểu và thoáng qua đối với IS. Thậm chí, tạp chí Time ví von Mỹ đang sử dụng đại bác để giết muỗi ở Iraq.
Trung tướng William Mayville, tư lệnh các chiến dịch của Bộ Tham mưu Liên quân Mỹ, thừa nhận: “Ở các khu vực tập trung không kích, chúng tôi đạt được hiệu quả rất tạm thời”. Ngoài ra, tướng Mayville - từng chỉ huy một lữ đoàn trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003 - nhận định các vụ không kích ít có khả năng ảnh hưởng đến năng lực nói chung hoặc các hoạt động của IS tại các khu vực khác ở Iraq, Syria.
Thêm vào đó, theo tạp chí Newsweek, trong khi Mỹ tiếp tục không kích ở Iraq và dự kiến tiến hành trên lãnh thổ Syria, các vụ không kích tỏ ra không hiệu quả khi chống lại mìn, các thiết bị gây nổ (IED) và bom cài bên đường của các phần tử nổi dậy Hồi giáo.
Hay nói cách khác, chỉ với các phi vụ không kích, Mỹ không thể giúp các lực lượng Iraq và người Kurd đánh bại IS. Việc sử dụng mìn và IED của IS tỏ ra hiệu quả khi giúp phiến quân chiếm thành phố Tikrit, miền Bắc Iraq, bằng cách cầm chân bước tiến của các lực lượng chính phủ Iraq.
“Điều quan trọng là chặn đứng đà tiến của IS. Nếu như chúng ta đến Iraq, đuổi IS ra khỏi đập Mosul và ở lại đó, tôi cam đoan rằng IS sẽ có lúc quay lại. Các cuộc không kích quan trọng và có thể hữu ích nhưng chúng không đạt hiệu quả về lâu về dài” - ông Janine Davidson, quan chức cấp cao tại Hội đồng Quan hệ đối ngoại, nhận định.
Bom Mỹ giá bao nhiêu?
Theo trang web Defense Update, các loại bom có tia laser dẫn đường giá thấp nhất 15.000 USD/quả, còn loại bom tinh vi đa năng nhất có giá đến 250.000 USD/quả. Cách đây hơn 10 năm, Lầu Năm Góc trả khoảng 40.000 USD/quả cho bom GBU-31 JDAM - loại bom thông minh có bộ điều khiển quỹ đạo gắn ở phần đuôi bom. Tuy nhiên, sau khi sản xuất khoảng 250.000 quả bom, hãng Boeing giảm xuống còn khoảng 25.000 USD/đơn vị vũ khí.
Khi vũ khí trở nên tinh vi hơn, giá của chúng cũng tăng lên. Chẳng hạn như loại bom GBU-12 Paveway II được laser dẫn đường được bán 12.000 USD/quả cách đây hơn 10 năm nhưng sau này đã tăng lên từ 4-7 lần khi được trang bị bộ dò tìm, hệ thống điện tử và hệ thống định vị toàn cầu cải tiến kết hợp với phiên bản Paveway III. Ngoài ra, giá cả còn tùy thuộc vào trọng lượng của từng quả bom - 40.000 USD đối với loại 1.000 pound (453,5 kg) và 70.000 USD đối với đầu đạn 2.000 pound (907 kg). GBU-39, loại bom nhỏ hơn nhưng độ chính xác tương đương, được bán với giá 40.000 USD/quả.
 
23/8/12
1.162
3
38
Mỹ không có cái nào

Những hệ thống phòng không tầm thấp đáng gờm nhất

Sự kết hợp giữa hai pháo bắn siêu nhanh 30 mm cùng 12 tên lửa đánh chặn biến Pantsir-S1 thành sát thủ phòng không tầm thấp đáng gờm.

nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Rapier phục vụ trong lực lượng phòng không quân đội Hoàng gia Anh từ năm 1971 đến nay. Nhiệm vụ của Rapier là đối phó với các mục tiêu bay siêu âm ở độ cao thấp. Hệ thống có thể gắn trên bệ phóng bán cố định hoặc xe kéo bán di động, mỗi giá phóng lắp 4-8 đạn tên lửa trên đó tích hợp một hệ thống nhắm mục tiêu quang học về sau được bổ sung một radar. Rapier có tầm bắn từ 400-8.200 mét, trần bay 3.000 mét. Ảnh: Getty Images
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

9K33 Osa (SA-8 Gecko) là hệ thống phòng không tầm thấp di động đầu tiên được tích hợp sẵn radar tìm kiếm mục tiêu và điều khiển hỏa lực trên cùng một xe mang phóng. SA-8 có nhiệm vụ đánh chặn các mục tiêu đường không tầm thấp như trực thăng, UAV, tên lửa hành trình, máy bay cánh cố định bay thấp. Mỗi xe mang phóng được trang bị một radar tìm kiếm mục tiêu 1S51M3-2, radar có một ăng-ten lớn ở giữa đảm đương nhiệm vụ tìm kiếm và phát hiện mục tiêu ở khoảng cách 30 km, hai ăng-ten nhỏ hơn ở hai bên làm nhiệm vụ dẫn đường cùng lúc 6 đạn tên lửa. Hệ thống điều khiển hỏa lực của SA-8 có thể cung cấp kênh dẫn hướng cho hai tên lửa đánh chặn mục tiêu cùng lúc. Đạn tên lửa 9M33M3 có tầm bắn từ 10-15.000 mét, độ cao 12.000 mét. Xác suất tiêu diệt mục tiêu của hệ thống được đánh giá ở mức 55-85%. Ảnh: Wikipedia
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Crotale được đưa vào sử dụng trong quân đội Pháp từ năm 1978, một sản phẩm của tập đoàn Thomson CSF. Hệ thống được chế tạo để đối phó với các mục tiêu đường không tầm thấp như máy bay và đánh chặn tên lửa chống hạm. Crotale có thể sử dụng trên xe phóng di động trên mặt đất hoặc trên tàu chiến. Mỗi xe phóng trang bị đi kèm một radar điều khiển hỏa lực, một hệ thống quang truyền hình cùng 8 đạn tên lửa. Biến thể hiện đại hóa Crotale-NG bổ sung radar tìm kiếm mục tiêu Shikra gắn trên đỉnh giá phóng. Crotale có phạm vi tác chiến tối đa 15 km, tầm cao 9 km. Ảnh: Baha
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Roland là một sản phẩm liên doanh giữa Pháp và Đức. Hệ thống được đưa vào sử dụng trong quân đội Pháp từ năm 1977. Roland có thể tấn công các mục tiêu đường không tầm thấp bay với tốc độ tối đa 1.500 km/h ở độ cao từ 50-5.500 mét. Hệ thống được đặt trên khung gầm xe tải 8x8 bánh. Mỗi xe mang phóng có một radar tìm kiếm - chỉ thị mục tiêu gắn giữa hai giá phóng, radar có phạm vi theo dõi mục tiêu từ 15-18 km. Một hệ thống quang học đi kèm để dẫn đường cho tên lửa trong điều kiện bị gây nhiễu nặng. Biến thể nâng cấp gần đây thay thế hệ thống quang học cũ bằng hệ thống tìm kiếm - chỉ thị mục tiêu FLIR cho phép tác chiến bất kể ngày đêm. Roland có phạm vi tác chiến 8.000 mét, độ cao 5.500 mét. Ảnh: Slovenskavojska
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Hệ thống phòng không tầm thấp Adats được sản xuất bởi công ty nổi tiếng Oerlikon Contraves, Thụy Sĩ, nay là một phần của Rheinmetall Defence, Canada. Hệ thống đầu tiên được chuyển giao cho quân đội Canada từ năm 1988. Adats thiết lập một chiếc ô phòng thủ tầm thấp bảo vệ các khu vực quan trọng trước các mục tiêu đường không tầm thấp. Adats có thể gắn trên khung gầm xe thiết giáp M113 hay M2 Bradley. Hệ thống được trang bị kèm theo một radar tìm kiếm mục tiêu cùng một hệ thống điều khiển hỏa lực quang - điện tử. Hệ thống quang - điện tử này tương tự như hệ thống TADS/PNVS trang bị trên trực thăng tấn công Apache. 8 đạn tên lửa bố trí trong hai cụm phóng gắn hai bên tháp pháo. Mỗi khẩu đội Adats gồm 6 xe phóng có thể kiểm soát đồng thời 48 mục tiêu cùng lúc. Adats có phạm vi tác chiến 10 km tầm cao 7 km. Điểm độc đáo của hệ thống này là nó có thể tấn công cả mục tiêu đường không lẫn mục tiêu mặt đất. Ảnh: Army-technology
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

9K22 Tunguska là sự kết hợp độc đáo giữa hai pháo bắn siêu nhanh cùng 8 đạn tên lửa mang lại hiệu quả tiêu diệt mục tiêu rất cao. Tunguska thiết lập một chiếc ô phòng không bảo vệ các đơn vị bộ binh cơ giới trong mọi điều kiện thời tiết. Hệ thống 9K22 gồm một radar tìm kiếm mục tiêu gắn phía sau tháp pháo cùng một radar điều khiển hỏa lực gắn phía trước. Radar có phạm vi phát hiện mục tiêu 18 km, theo dõi ở khoảng cách 16 km, hai pháo bắn siêu nhanh 2A38 30 mm tốc độ bắn 5.000 viên/phút. Pháo có tầm bắn 4 km với các mục tiêu mặt đất, 3 km với các mục tiêu đường không. 8 đạn tên lửa 9M311 có tầm bắn 1,5-8 km, tầm cao 5-3.500 mét. Ảnh: Wikipedia
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Hệ thống tên lửa Tor (SA-15 Gauntlet) được thiết kế để đối phó với một loạt mục tiêu đường không từ trực thăng, máy bay cánh cố định bay thấp, tên lửa hành trình, UAV cũng như các loại vũ khí dẫn đường công nghệ cao khác. Mỗi xe mang phóng có một radar tìm kiếm mục tiêu 3D gắn phía sau tháp pháo, phía trước là radar điều khiển hỏa lực, 8 đạn tên lửa bố trí trong các ống phóng thẳng đứng giữa hai radar. Hệ thống điều khiển hỏa lực của SA-15 có thể dẫn hướng đồng thời 4 tên lửa với biến thể M1, 8 tên lửa với biến thể M2E. Đạn tên lửa 9M330 có tầm bắn tối đa 12 km, tầm cao 6 km. Hệ thống Tor có xác suất tiêu diệt mục tiêu từ 60-95%. Ảnh: Wikipedia
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Spyder-SR là một hệ thống phòng không tầm thấp tiên tiến do Rafael, Israel sản xuất. Hệ thống cung cấp một giải pháp phản ứng nhanh với các mục tiêu đường không tầm thấp như máy bay, trực thăng, UAV và vũ khí dẫn đường công nghệ cao. Spyder-SR có một hệ thống tìm kiếm - chỉ thị mục tiêu quang - điện gắn trên nóc cabin xe mang phóng cùng 4 đạn tên lửa Python-5. Đây là một loại tên lửa không đối không được sử dụng để phóng từ ống phóng trên mặt đất, tên lửa được dẫn hướng bằng hồng ngoại và cảm biến quang - điện tử. Python-5 được đánh giá là một trong những tên lửa không đối không tiên tiến nhất thế giới hiện nay. Tên lửa có tầm bắn 15 km, tầm cao 9 km. Spyder-SR được đưa vào sử dụng trong quân đội Israel từ năm 2010 và được giới quân sự thế giới đánh giá rất cao. Ảnh: Wikipedia​
nhung-he-thong-phong-khong-tam-thap-dang-gom-nhat.jpg

Sự kết hợp giữa hai pháo bắn siêu nhanh cùng 12 đạn tên lửa đánh chặn siêu thanh mang lại cho hệ thống Pantsir-S1 hiệu suất tiêu diệt mục tiêu cực kỳ ấn tượng. Pantsir-S1 là một phát triển sâu rộng hơn nữa từ hệ thống 9K22 Tunguska do Phòng thiết kế máy móc công cụ KBP Tula thực hiện. Hệ thống bao gồm một radar tìm kiếm mục tiêu cùng một radar điều khiển hỏa lực băng tần kép. Radar có phạm vi phát hiện mục tiêu 36 km, theo dõi ở cự ly 28 km với mục tiêu có diện tích phản hồi radar RCS 2m2, một hệ thống điều khiển hỏa lực quang - điện tử cho phép dẫn hướng độc lập bằng radar, hai pháo bắn siêu nhanh 2A38M 30 mm tốc độ bắn 5.000 viên/phút tầm bắn 4 km, tầm cao 3 km, 12 đạn tên lửa đánh chặn siêu thanh 57E6 hoặc 57E6-E, tên lửa có tầm bắn 20 km, tầm cao 15 km. Pantsir-S1 được các chuyên gia quân sự đánh giá là sát thủ phòng không tầm thấp đáng sợ nhất thế giới
 
23/8/12
1.162
3
38
Trực thăng nào diệt tăng hiệu quả nhất?
(Vũ khí) - Chúng ta hãy lần lượt điểm qua các “ chiến tích” lẫn những “ chiến phí” (tổn thất) của chúng...
Xin giới thiệu bài viết khác của A.Khramchikhin, Phó GĐ Viện phân tích chính trị và quân sự Viện Hàn lâm khoa học Nga về máy bay thẳng chống tăng với tiêu đề “Thiên anh hùng ca của máy bay lên thẳng” đăng trên “Russkaia Planeta”ngày 01/9/2014.
Mấy dòng lịch sử
Máy bay lên thẳng bắt đầu tham chiến lần đầu tiên vào những năm 1950-1953 trong cuộc chiến tranh Triều Tiên .Hiện nay, khó có thể hình dung một cuộc chiến tranh nào đó lại có thể thiếu máy bay lên thẳng.
Nếu xét từ góc độ tính đa năng thì có lẽ không một loại phương tiện chiến tranh nào khác có thể cạnh tranh được với chúng. Uu điểm vượt trội ( tính đa năng) này đã bù đắp được một phần điểm yếu rất cơ bản của máy bay lên thẳng – đó là chúng rất dễ bị tổn thương.
Hiệu quả của các phương tiện phòng không tầm thấp (đặc biệt là các tên lửa phòng không vác vai và pháo phòng không) chống lại các loại máy bay khác không cao, nhưng chúng lại cực kỳ nguy hiểm đối với máy bay lên thẳng.
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image001_21733183.jpg
{/td}
{/tr}
{tr}
{td}Máy bay lên thẳng “Apache” trong cuộc chiến tranh Iraq .Ảnh: Darko Vojinovic / AP{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
Đấy là chưa nói đến việc trong một số cuộc chiến tranh cục bộ đã có nhiều trường hợp ngay cả PRG (súng phóng lựu chống tăng xách tay- kiểu như B40, B41) cũng đã bắn hạ được nhiều máy bay lên thẳng. Nhưng dù sao thì tính cơ động rất cao của máy bay lên thẳng vẫn là ưu thế vượt trội không thể phủ nhận.
Đến cuối những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi rút kinh nghiệm qua thực tiễn một số cuộc chiến tranh, nhiều chuyên gia quân sự đã rút ra kết luận: máy bay lên thẳng được trang bị tên lửa chống tăng có điều khiển là phương tiện chống tăng hiệu quả nhất, một phần vì khả năng tác chiến phòng không (ở đây là chống lại máy bay lên thẳng) luôn là điểm yếu “chết người” nhất của tăng.
Và cũng bắt đầu từ khoảng thời gian này, ý tưởng chế tạo loại máy bay lên thẳng có chức năng diệt tăng bắt đầu được hiện thực hóa.
Cho đến thời điểm hiện nay trên thế giới đã có 10 kiểu máy bay lên thẳng chống tăng được xuất xưởng, nhưng mới chỉ có 03 kiểu là đã qua “ thử thách trên chiến trường” – 02 của Mỹ và 01 của Liên Xô.
Chúng ta hãy lần lượt điểm qua các “ chiến tích” lẫn những “ chiến phí” (tổn thất) của chúng:
1.AH-1 của Mỹ
Chiếc máy bay lên thẳng có chức năng chống tăng đầu tiên được đưa vào tác chiến là AH-1 “Cobra” của Mỹ - và tại chiến trường Miền Nam Việt Nam. Các “Cobra” của Mỹ với tên lửa chống tăng có điều khiển “Tow ” từ lúc tham chiến tháng 4/1972 cho đến thời điểm Mỹ rút quân khỏi Việt Nam tháng 01/1973 đã bắn cháy 10 xe tăng T-54, 6 xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 và 8 xe tăng hạng nhẹ M-41 do Mỹ sản xuất (chiến lợi phẩm của “ Việt Cộng” ).
Dĩ nhiên, “Cobra” cũng được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến chống du kích (tức là thực hiện các nhiệm vụ tác chiến khác) và cũng chính vì thế mà những tổn thất của kiểu máy bay này trên chiến trường Nam Việt Nam là rất lớn – theo các số liệu khác nhau thì tổng cộng đã có 295 đến 368 chiếc AH-1 bị rơi trên chiến trường Nam Việt Nam,- kể cả do “Việt Cộng” bắn hạ lẫn những tổn thất ngoài tác chiến.
Tiếp theo, vào năm 1973 Ixrael đã sử dụng “Cobra” trong cuộc chiến tranh tháng mười. Theo số liệu của Bộ Quốc phòng nước này, trong cuộc đấu tăng lớn nhất trên bán đảo Xi nai ngày 14/10 – 18 chiếc “Cobra” của Ixrael đã bắn hỏng 90 chiếc T-62 và T-54/55 của Ai cập.
Còn trong cuộc chiến tranh Li Băng năm 1982, các AH-1S của Ixrael đã diệt đến 30 chiếc xe tăng của Syria và hơn 50 phương tiện kỹ thuật khác trong khi chỉ 01 “Cobra” bị bắn rơi. Rất tiếc là không ai có thể đoan chắc là các con số trên hoàn toàn chính xác.
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image002_21733616.jpg
{/td}
{/tr}
{tr}
{td}Máy bay lên thẳng “Cobra” đang tấn công các trận địa của “Việt Cộng” tại đồng bằng sông Mê Kông,1969.Ảnh : McInerney / AP{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
Còn một thông tin nữa nhưng chưa được kiểm chứng là: các “ Cobra” AH-1W của Mỹ (giờ chỉ còn trong trang bị của Không quân Lính thủy đáng bộ Mỹ) vào các tháng 1-2 /1991 trong chiến dịch “ Bão táp sa mạc” đã giành thắng lợi với tỷ số tuyệt đối: diệt 97 xe tăng và nhiều xe thiết giáp khác của Iraq trong khi không bị bắn hạ một chiếc nào.
Thế nhưng đến cuộc chiến tranh Iraq lần thứ hai ( 2003-2011), theo thừa nhận của chính người Mỹ thì các máy bay lên thẳng Mỹ đã không diệt được một chiếc xe tăng Iraq nào. Trong các chiến dịch chống du kích (ở Iraq) Mỹ đã mất gần 10 chiếc AH-1W. Lính thủy đánh bộ Mỹ cũng mất 5 chiếc máy bay lên thẳng kiểu này tại chiến trường Afganistan.
2. AH-64 “ Apache”của Mỹ
Kiểu máy máy bay lên thẳng kế nhiệm của “Cobra” là AH-64 “ Apache” có lịch sử “hiển hách” hơn “ người tiền nhiệm” rất nhiều. “ Apache” tham chiến lần đầu cũng trong chiến dịch “Bão táp sa mạc” tại Iraq.
Thời gian đầu phía Mỹ cho biết là “Apache” của Mỹ đã phá hủy hơn 500 chiếc xe tăng Iraq nhưng sau đó đính chính lại là 278 chiếc, tuy nhiên cũng rất khó kiểm tra được tính xác thực của số liệu này. Mỹ cũng thừa nhận là mất 3 chiếc “ Apache”, nhưng đều là do trục trặc kỹ thuật.
“ Apache” đã diệt được bao nhiêu chiếc xe tăng Iraq trong cuộc chiến Iraq lần hai – không chắc chắn lắm vì các số liệu từ các nguồn (kể cả của Mỹ) rất khác nhau nên không dẫn ra ở đây. Chức năng chủ yếu của “Apache” trong cuộc chiến lần này là tham gia chủ yếu vào các chiến dịch chống du kích.
Theo các số liệu tương đối đáng tin cậy thì lần này Không quân Lục quân Mỹ đã mất ít nhất 24 AH-64và Không quân Hà Lan mất 01 “Apache”. Một chiếc “Apache” của Không quân Anh cũng bị hư hỏng nặng nhưng có lẽ đã sửa chữa được.
Theo kế hoạch , “Apache” lẽ ra cũng đã phải tham gia vào cuộc chiến tranh NATO chống Nam Tư năm 1999 với chức năng chính là máy bay lên thẳng chống tăng - nhưng đã không kịp vì cuộc chiến đã sớm kết thúc. Trong thời gian này có 02 chiếc “ Apache ” bị rơi ở Albania nhưng không rõ nguyên nhân.
Tại Afganistan , “ Apache” tham gia chủ yếu vào các hoạt động tác chiến chống du kích và tổn thất của loại máy bay này ở chiến trường Afganistan cho đến thời điểm hiệntại là 15 chiếc. Không quân Ixrael cũng sử dụng “Apache” để chống lại người Palestin và “Hecbola” và chưa bị mất chiếc nào.
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image003_21734232.jpg
{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
3. Mi-24 Liên Xô
Cũng giống như các “đồng nghiệp” “ Cobra” và “ Apache” của Mỹ, Mi-24 đã được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động tác chiến chống du kích trong rất nhiều cuộc chiến tranh. Chiến trường chủ yếu Mi-24 là Afganistan ( cùng với Mi-8) – tại chiến trường này, Mi-24 đã có “thành tích” rất ấn tượng nhưng thiệt hại cũng ấn tượng không kém – tổng cộng có tới 127 Mi-24 (của Liên Xô và Quân chính phủ Afganistan) bị bắn hạ trong chiến dịch can thiệp quân sự của Liên Xô tại Afganistan.
Nếu tính cả chiến dịch do Mỹ và NATO đang tiến hành (và sắp kết thúc) tại nước này thì phải cộng thêm vào con số tổn thất chung của Mi-24 là 2 hoặc 3 chiếc nữa – nhưng điểm khác là những chiếc Mi-24 này của Không quân Ba Lan.
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image004_21734969.jpg
{/td}
{/tr}
{tr}
{td}Một chiếc Mi-8 Xô Viết bị các chiến binh Afganistan bắn hạ .Ảnh AP{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
Có tới 30 chiếc Mi-24 của Nga bị phiến quân bắn rơi trong cả hai cuộc chiến tại Chesnia (các cuộc chiến tranh của các phiến quân đòi ly khai Nga tại nước Cộng hòa Chesnia thuộc Nga –ND). Về phía mình, Mi-24 ngoài chức năng tiến hành các hoạt động tác chiến chống phiến quân cũng đã bắn cháy một số xe bọc thép của phiến quân Chesnia, trong đó có 10 xe tăng.
Mi-24 có mặt tại nhiều cuộc chiến tranh ở Châu Phi (cả trong các cuộc nội chiến và cuộc chiến tranh khác tại Ăng- gô- la, Lybia, Ê-ti-ô-pia). Quân đội Ăng-gô-la đã mất không ít hơn 16 chiếc Mi-24 trong cuộc nội chiến với Lực lượng UNITA và trong cuộc chiến tranh với Nam Phi ( đến năm 1989).
Phía Nam Phi không công bố con số các phương tiện tăng- thiết giáp của mình bị Mi-24 tiêu diệt nên không có số liệu về thành tích của Mi-24 trong cuộc chiến tranh này. Lybia khi đối đầu với Sat cũng bị tổn thất không ít hơn 11 Mi-24 và một số chiếc nữa trong chiến dịch năm 2011. Mi-24 của Ê-ti-ô-pia trong cuộc chiến tranh với Ê-ri-tria (các năm 1977-1990 và 1998-2000) đã tiêu diệt được mấy chục xe tăng- xe thiết giáp của đối phương( không có con số cụ thể).
Rất khó xác định tổn thất của Mi-24 trong cuộc nội chiến tại Ê-ti-ô-pia 1977-1990, còn trong cuộc chiến tranh năm 1998-2000, Ê-ti-ô-pia mất 7 hoặc 8 chiếc Mi-24.
Mi-24 tham chiến chỉ với chức năng là máy bay lên thẳng chống tăng trong hai cuộc chiến tranh. Hơn nữa , trong cả hai cuộc chiến tranh này, Mi-24 không chỉ đối đầu với xe tăng mà còn cả với “Cobra”.
Lần thứ nhất là trong cuộc chiến tranh Li Băng 1982 như đã nhắc tới ở trên - Mi- 24 cùng với máy bay lên thẳng tấn công hạng nhẹ SA342 “Gazelle” do Pháp sản xuất (đến tận thời điểm này, “Gazelle” là phương tiện kỹ thuật quân sự Phương Tây duy nhất có trong trang bị của Quân đội Syria, - cuộc chiến tranh Li Băng cũng là cuộc chiến tranh duy nhất mà “Gazelle” được sử dụng như là một loại vũ khí chống tăng – dù trước đó nó đã được sử dụng nhiều trong các cuộc chiến chống du kích).
Ixrael thừa nhận đã mất 7 xe tăng vì “Gazelle” và cũng cho biết là đã bắn rơi 02 chiếc “Gazelle”(01 chiếc bị súng máy của “Merkava” bắn rơi, 01 chiếc khác do tên lửa chống tăng có điều khiển của “Cobra” Ixrael).
Ixrael không đưa ra thông tin nào về con số Mi-24 bị bắn hạ, cũng không có ý kiến gì về những tổn thất từ Mi-24. Có thể khẳng định tương đối chắc chắn là Mi-24 đã không diệt được một chiếc “Merkava” nào, nhưng đã bắn cháy khoảng từ 30 đến 40 chiếc M48 và M60.
Nhưng nói chung, chiến tranh Li Băng chỉ kéo dài một số ngày trong khi cuộc chiến Iraq-Iran kéo dài tới 8 năm nên chính trong cuộc chiến tranh này, Mi-24 mới có dịp “ thể hiện” mình.
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image005_21734242.jpg
{/td}
{/tr}
{tr}
{td}Máy bay lên thẳng của Mỹ “ Black Hawk” sơ tán thương binh ở chiến trường Afganistan.Ảnh : David Goldman/AP{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
Trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Iran-Iraq ( mùa thu năm 1980) , các Mi-24 của Iraq đã gây ra những tổn thất rất lớn cho Lục quân Iran. Số liệu cụ thể: một ngày tháng 9/1980, với chỉ một lần xuất kích các Mi-24 đã bắn 22 quả tên lửa chống tăng có điều khiển và phá hủy 17 xe tăng của Iran.
Cùng trong ngày hôm đó, một số chiếc Mi-24 khác đã bắn cháy 10 chiếc tăng nữa của Iran. Một tổ lái Mi-24 trong vòng 3 tháng đầu của cuộc chiến đã hạ 55 xe tăng Iran. Mặc dù rất khó xác định chính xác tổn thất của Iran vì Mi-24 của Iraq, nhưng có lẽ chỉ riêng trong năm 1980, Mi-24 đã hạ được nhiều tăng Iran hơn tổng số “nạn nhân” của “Apache’ trong năm 1991.
Xét tổng thể, chính “nhờ có” cuộc chiến tranh Iraq- Iran nên có thể xếp Mi-24 là loại máy bay lên thẳng chống tăng hiệu quả nhất trên thế giới (có lẽ nên xếp theo tiêu chí là số xe tăng bị bắn hạ, còn nếu xét về tính hiệu quả có lẽ còn cần phải nhiều tiêu chí khác –ND).
Chúng ta không thể tính đếm hiệu quả của các máy bay lên thẳng tấn công trong các cuộc chiến tranh chống du kích – đơn giản vì không có các tiêu chí rõ ràng để làm việc này.
Vào thời gain cuối cuộc chiến tranh Iran-Iraq, “thành tích ” diệt tăng của Mi-24 Iraq bị giảm rõ rệt - Iran chấm dứt việc sử dụng tăng trên chiến trường vì phải chịu tổn thất qúa lớn. Về phía Mi-24 của Iraq, trong 2 năm đầu của cuộc chiến, đã có hơn một nửa trong tổng số 40 Mi-24 bị bắn rơi, số còn lại đều bị hư hỏng ở mức độ này hay mức độ khác.
Điều đáng lưu ý là trong cuộc chiến tranh này các máy bay lên thẳng đã lần đầu tiên được sử dụng cho các cuộc không chiến. Các đối thủ chủ yếu của nhau dĩ nhiên là Mi-24 và AH-1. Lần không chiến đầu tiên giữa Mi-24 và AH-1 diễn ra vào tháng 11 /1980 và trận cuối cùng – tháng 5/1988.
Tỷ lệ tổn thất được biết là 10:6 nhưng không rõ là ai giành phần thắng – bên nào cũng cho là mình thắng. Iraq tuyên bố là các máy bay lên thẳng của mình đã hạ 55 máy bay lên thẳng các loại của Iran.
Cũng trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq có thông tin là máy bay lên thẳng và máy bay tiêm kích đã đối đầu nhau – như đã biết là các tính năng kỹ- chiến thuật của máy bay lên thẳng không cho phép nó không chiến với máy bay tiêm kích mà là ngược lại . Các số liệu đã được xác minh cho thấy, F-4 và F-5 của Iran đã hạ ít nhất 2 Mi-24, còn MiG-23 của Iraq- hạ ít nhất là 01 “Cobra” của Iran.
Tuy nhiên, các nguồn của Nga vẫn cho biết là ngày 27/10/1982 Mi-24 ( của Iraq) đã hạ một F-4 bằng tên lửa chống tăng có điều khiển. Điều khó tin là dù vào thời điểm đó F-4 “ Fantom” đã tương đối lạc hậu nhưng vẫn còn rất đáng sợ và đối với F-4 thì mọi máy bay lên thẳng đều là các mục tiêu “ngon ăn”.
Mặt khác, tên lửa chống tăng có điều khiển được thiết kế không phải để tiêu diệt các mục tiêu là máy bay tiêm kích. Nếu trận không chiến này thực sự xảy ra và kết quả như nguồn của Nga công bố thì đây là trường hợp có một không hai. Hoặc là các phi công Iraq quá siêu việt, hoặc là các phi công Iran quá kém, hoặc là cả hai. Cũng có thể đây là một trường hợp ngẫu nhiên, - cuộc chiến tranh nào mà không có đầy những sự kiện ngẫu nhiên.
(Mấy dòng nói thêm về Mi-24: cách đây tròn 45 năm, ngày 19/0/1969, Mi-24 lần đầu tiên cất cánh. Đây là chiếc máy bay lên thẳng Xô Viết đầu tiên được chế tạo chuyên để thực hiện nhiệm vụ tác chiến, và là thứ hai trên thế giới sau Bell AH-1 Cobra.
Trong 45 năm qua đã có gần 3.500 chiếc M-24 các biến thể khác nhau được xuất xưởng và có mặt trong trang bị của gần 50 nước trên thế giới, kể cả Nga. NATO gọi loại máy bay lên thẳng này là “Hind” ( Hươu cái), còn các phi công Xô Viết lúc thì gọi là “ Stakan”( Chiếc cốc) , lúc thì gọilà “Crocodil” ( Cá sấu) –ND).
Xét tổng thể, trong các cuộc đối đầu giữa máy bay lên thẳng chiến đấu và xe tăng - đến hôm nay đã có hàng trăm xe tăng và hàng nghìn xe thiết giáp bị tiêu diệt. Nhưng bên cạnh đó cũng đã có vài nghìn máy bay lên thẳng bị bắn rơi trong các cuộc chiến tranh khác nhau.
4. Ngoài lề - về xe tăng thế hệ ba
[xtable=bcenter|border:0|cellpadding:3|cellspacing:0|1x@]
{tbody}
{tr}
{td}
image006_21735906.jpg
{/td}
{/tr}
{tr}
{td}Xe tăng “ Merkava” và máy bay lên thẳng “Cobra” của Ixrael .Ảnh: Reuters”{/td}
{/tr}
{/tbody}
[/xtable]
Trong những trận đấu tăng quy mô lớn nhất thời gian gần đây diễn ra tại Trung Đông vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, các xe tăng tham gia chủ yếu thuộc thế hệ một và thế hệ hai (cả các cuộc chiến tranh Iran-Iraq và chiến tranh Li Băng). Các loại tăng thế hệ ba hầu như chưa tham chiến với nhau, vì vậy mà rất khó rút ra kết luận sơ bộ là loại nào có ưu thế hơn.
Một ví dụ, trong các trận chiến tại Li Băng mùa hè năm 1982, cả xe tăng T-72 của Syria và “ Merkava” của Ixrael đều đã tham chiến. Tuy nhiên, chúng chưa trực tiếp đối đầu với nhau. Tất cả các tổn thất của T-72 đều do các tổ hợp tên lửa chống tăng vác vai “Tow” ( do Lính đặc nhiệm Ixrael cơ động trên những chiếc xe Jeep tiêu diệt) , còn tất cả các tổn thất của “Merkava” đều do trúng mìn hoặc bộc phá.
Trong thời gian chiến dịch “ Bão táp sa mạc”, có thông tin cho rằng “ Abrams” của Mỹ đã bắn cháy hàng chục ( nếu không phải là hàng trăm) T-72 của Iraq , nhưng đây là những thông tin chưa được bên nào chính thức xác nhận.
Tất cả các số liệu về cuộc chiến tranh này đều bị người Mỹ nắm độc quyền. Nhưng chúng ta biết trên thực tế là trong cả hai cuộc chiến tranh Iraq ( 1991 và 2003) Quân đội Iraq hoàn toàn bị Không quân Mỹ trấn áp và tất cả những thiệt hại về phương tiện kỹ thuật tăng- thiết giáp của Quân đội Iraq đều do Không quân Mỹ gây ra ( hơn nữa, có lẽ các cường kích A-10 diệt nhiều tăng Iraq hơn là “Apache”.
“Abrams” đã diệt được loại tăng nào và bao nhiêu cũng như loại tăng nào đã diệt được “Abrams” và bao nhiêu, không có bất kỳ một dữ liệu thuyết phục nào. Cũng không ai xác định được là “ T-72” và “ Challenger” của Anh đã “ gặp nhau” trong các trận chiến hay chưa.
Chỉ có thể khẳng định: “Leclerc” của Pháp, “Leopard” của Đức và Type-90 của Nhật chưa được kiểm nghiệm qua thực tiễn tác chiến.
Trong khi đó, Type86 của Trung Quốc đã đối đầu với T-72. Hai loại tăng này đã “gặp nhau” tại Châu Phí năm 2012 – đó là Type96 của Xu Đăng và T-72 của Nam Xu Đăng. Trung Quốc đã thắng tuyệt đối trong các trận này- từ 2 đến 4 T-72 bị diệt trong khi không có tổn thất nào về phía Type96 (chúng ta không bàn đến trình độ huấn luyện, kỹ năng tác chiến cũng như tinh thần chiến đấu của các lính tăng của cả hai bên).
Kể từ khi xe tăng xuất hiện đến nay. đã có nhiều loại vũ khí chống tăng được sử dụng (xin sẽ bàn bàn tới trong một dịp khác) nhưng có lẽ trong tương lai gần, các phương tiện chống tăng có hiệu quả nhất sẽ là chính xe tăng, máy bay lên thẳng chống tăng và có thể là các máy bay chiến đấu không người lái.
 
23/8/12
1.162
3
38
Tên lửa Nga thách thức sức mạnh quân sự Mỹ như thế nào?

Trong lịch sử, Không quân Mỹ đã không ít lần bị “bẽ mặt” trước các vụ máy bay bị tấn công bằng tên lửa do Liên Xô/Nga sản xuất.

Loại tên lửa đất đối không SA-2 do Liên Xô sản xuất từ lâu đã thách thức sức mạnh quân sự của Mỹ. Hình ảnh của nó tương đương với loại súng trường tự động AK-47 huyền thoại.​
ten-lua-nga-thach-thuc-suc-manh-quan-su-my-nhu-the-nao.jpg

Tên lửa đất đối không SA-2​
Mục tiêu đầu tiên của tên lửa SA-2 này là triệt hạ ưu thế quân sự của Mỹ trong thời kỳ cao trào của Chiến tranh Lạnh.​
Ngày 1/5/1960, một chiếc máy bay trinh sát U-2 của CIA đã cất cánh từ căn cứ không quân ở Peshawar, Pakistan. Sự tồn tại của U-2 là một bí mật. Nó có một hình dáng khác thường với sải cánh dài và mảnh. Điều này cho phép U-2 bay ở độ cao trên 21 km, cao hơn bất kỳ loại máy bay nào khác.​
Một phi đội nhỏ U-2 đã được triển khai tại một số cơ sở bí mật gần biên giới của Liên Xô. Loại máy bay này được trang bị những máy ảnh có độ phân giải cao. Trong giai đoạn trước khi xuất hiện các vệ tinh gián điệp, U-2 được cho là “đôi mắt” rất quan trọng của Mỹ ở trên cao. Nhiệm vụ của những chiếc U-2 là chụp ảnh các cơ sở quân sự quan trọng của Liên Xô như căn cứ không quân, trận địa phóng tên lửa, căn cứ hải quân, sự di chuyển quân quy mô lớn.​
BÀI LIÊN QUAN
Chiếc U-2 cất cánh từ căn cứ ở Pakistan ngày hôm đó do cựu đại úy không quân Francis Gary Powers điều khiển. Mục tiêu của nó là trinh sát khu vực Sverdlovsk ở Ukraine. Powers đã bay ở độ cao mà viên phi công này cảm giác rằng chiếc U-2 của mình là “bất khả xâm phạm” (độ cao 21 km nằm ngoài tầm bắn của các hệ thống tên lửa phòng không của Liên Xô và các máy bay chiến đấu không thể tiếp cận do không khí quá loãng). Nhưng nhận định của đại úy Powers đã sai. Radar của Nga đã phát hiện U-2. Sau đó, Nga đã sử dụng một loại vũ khí mới, tên lửa đất đối không S-75 Dvina, hay còn gọi là SA-2 để tấn công. 8 tên lửa được phóng đi và quả đầu tiên đã bắn trúng mục tiêu. Powers đã không có cơ hội để lẩn tránh và chiếc U-2 đã bị bắn hạ.​
Nhiệm vụ gián điệp của chiếc U-2 này bị phơi bày đã tạo ra một cuộc khủng hoảng quốc tế. Mỹ bị thất thế về ngoại giao và sức mạnh quân sự bị “hạ nhục”. Cú sốc về việc U-2 không còn là máy bay bất khả xâm phạm lại đến chỉ 3 năm sau khi lần đầu tiên Liên Xô phóng thành công vệ tinh quay quanh trái đất Sputnik (năm 1957), và chỉ 1 năm trước khi họ đưa người đầu tiên vào không gian - nhà du hành vũ trụ Yuri Gagarin.​
Những tên lửa SAM của Liên Xô đã trở thành một trong những “đối thủ” ghê gớm và đáng sợ nhất đối với Mỹ trong cả các cuộc chiến tranh “lạnh” và “nóng”. Thật vậy, tên lửa S-75 Dvina sau đó đã tiếp tục bắn hạ một chiếc U-2 nữa tại thời điểm Mỹ và Liên Xô đang có xu hướng tiến gần hơn đến bờ vực của chiến tranh hạt nhân.​
ten-lua-nga-thach-thuc-suc-manh-quan-su-my-nhu-the-nao.jpg

Tên lửa S-75 (SA-2) xuất kích​
Ngày 15/10/1962, các chuyên gia phân tích của CIA đã nghiên cứu những bức ảnh chụp từ Cuba được chụp bởi một số chiếc U-2 sau khi có những báo cáo vệ sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Liên Xô ở quốc đảo này. CIA cho rằng Liên Xô đã bố trí ở Cuba các trận địa phóng tên lửa hạt nhân mà có thể bắn tới các thành phố lớn của Mỹ. Vụ việc này dẫn đến cái gọi là “cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba”.​
Ngày 27/10/1962, một chiếc U-2 cất cánh từ căn cứ không quân McCoy ở Orlando, bang Florida. Phi công của chiếc máy bay này là thiếu tá Không quân Mỹ Rudolf Anderson. Những chuyến bay qua vùng trời Cuba của U-2 đều đã bị hủy sau khi có báo cáo tình báo cho rằng chúng sẽ bị đánh chặn, nhưng Anderson đã cất cánh vì tin tức về các trận địa tên lửa của Liên Xô là cần thiết hơn.​
Ngay sau khi Anderson vượt qua bờ biển Cuba, chiếc U-2 của ông đã bị radar Liên Xô phát hiện. Các sĩ quan chỉ huy của Liên Xô ở Cuba đứng truớc quyết định khó khăn có nên bắn hạ chiếc máy bay này hay không. Họ lo ngại các trận địa tên lửa sẽ bị lộ, nhưng cũng hiểu được hậu quả của việc bắn hạ một máy bay Mỹ trong lúc “nước sôi lửa bỏng” này.​
Chỉ huy cao nhất của Liên Xô ở Cuba không thể liên lạc được với Moskva vào thời khắc quan trọng trên trong khi chiếc U-2 đang nằm trong tầm bắn. Quyết định bắn hạ chiếc U-2 đã được đưa ra bởi một vị chỉ huy phó. Tên lửa S-75 Dvina đã được khai hỏa nhằm vào chiếc U-2 của Anderson; mảnh đạn từ vụ nổ đã xuyên thủng chiếc áo chịu áp của Anderson. Viên phi công này đã thiệt mạng vì thiếu oxy.​
Việc Anderson thiệt mạng đã khiến các chỉ huy quân sự của Mỹ rất tức giận. Tổng thống Kennedy và em trai Robert Kennedy, đã phải kiềm chế sự nóng giận của các chính trị gia và tướng lĩnh diều hâu của mình trong khi tìm cách đàm phán với nhà lãnh đạo của Liên Xô, Nikita Khrushchev. Cuối cùng, Khrushchev nhượng bộ và trong đường tơ kẽ tóc, họ đã tránh được một cuộc chiến tranh hạt nhân.​
5 năm sau, một tên lửa S-75 Dvina lại tiếp tục bắn hạ máy bay của một viên phi công Mỹ, người mà sau này chính là Thượng nghị sĩ John Mc Cain.​
Vào năm 1967, McCain là một trong số những phi công thuộc một phi đội Hải quân Mỹ, đã lái chiếc máy bay cường kích A-4 Skyhawk từ một tàu sân bay nhỏ Oriskany ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Ngày 26/10/1967, McCain cùng phi đội của mình được chỉ định tấn công Nhà máy điện Yên Phụ ở thủ đô Hà Nội.​
Cuộc tấn công trên là vô cùng nguy hiểm bởi vì Việt Nam có hệ thống phòng không rất chắc chắn, vốn được kết hợp giữa pháo binh với các hệ thống tên lửa di động S-75 do Liên Xô viện trợ. Những phi công có kinh nghiệm của Mỹ đã được huấn luyện một chiến thuật nhằm tránh né những tên lửa S-75 khi hệ thống báo động trong buồng lái cảnh báo phát tín hiệu. Điều này cho phép máy bay của họ vòng tránh đường bay của tên lửa ở những giây cuối cùng. Tuy nhiên, phi cơ của ông McCain vẫn bị bắn rơi tại hồ Trúc Bạch bên cạnh Hồ Tây, và ông này bị thương nặng. Năm năm rưỡi sau đó ông bị bắt làm tù binh chiến tranh. Sau Hiệp định Paris 1973 ông được trả tự do.​
Sau đó, S-75 trở nên nổi tiếng và phổ biến tương tự như súng trường tự động AK-47 do Mikhail Kalashnikov thiết kế. Đây là loại vũ khí có hỏa lực mạnh, dễ dàng cơ động, sử dụng đơn giản và có độ chính xác cao. S-75 (SA-2) được lựa chọn và triển khai tại tất cả các nước thuộc khối Đông Âu cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989. Nga cũng cung cấp tên lửa này cho cả Ai Cập và Syria, và một phiên bản của nó được sản xuất bởi Trung Quốc.​
 
23/8/12
1.162
3
38
Mặc bom Mỹ, quân Iraq vẫn đại bại

IS tấn công căn cứ quân đội Iraq gần Baghdad, xử tử 300 binh sỹ
Quote:
VOV.VN - Theo CNN, thông tin này được đưa ra trong bối cảnh IS được cho là đã suy yếu sau khi bị Mỹ không kích ở miền Bắc Iraq.

Khoảng 300 binh sỹ đã bị phiến quân IS hành quyết và nhiều người khác bị mất tích, có thể là đã thiệt mạng hoặc đã rút khỏi chiến trường. Hàng chục phương tiện quân sự từ xe tăng đến xe cứu thương đã bị IS phá hủy hoặc cướp làm chiến lợi phẩm.

Quân đội Iraq đã trở nên rối loạn đến mức Thủ tướng nước này đã phải cử “lực lượng chống khủng bố đến để bắt giữ những lãnh đạo quân đội có trách nhiệm trong việc này”.

Trên thực tế, IS đã giành được ưu thế tại khu vực trung tâm của Iraq và đang nhắm vào việc đánh chiếm thủ đô Baghdad mà tổ chức IS đã vài lần tấn công trong những ngày qua.
IS_mi_NWRP.jpg

Một chiến binh IS vẫy cờ trên đường phố Iraq (Ảnh Reuters)
Trong vài tuần qua, các chiến binh IS tại miền Bắc Iraq và phía Tây Syria đã liên tục bị Mỹ và liên quân không kích dữ dội.

Các cuộc tấn công của Mỹ nhằm vào IS tại Syria sử dụng máy bay và tên lửa hành trình Tomahawk đã phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng của phiến quân và các giếng dầu vốn là nguồn thu nhập chính của chúng.

Tổng thống Mỹ Barack Obama bày tỏ hy vọng chiến dịch chống IS tại Syria và Iraq có thể kết thúc trong 3 năm tới và chi phí cho chiến dịch này có thể lên đến 10 tỷ USD./.

http://vov.vn/thegioi/is-tan-cong-can-cu-quan-doi-iraq-gan-baghdad-xu-tu-300-binh-sy-354139.vov
 
23/8/12
1.162
3
38
Mỹ nên đối phó với kho tên lửa Trung Quốc như thế nào?

Chuyên gia Evan Braden Montgomery cho rằng Washington nên cân nhắc chỉnh sửa hiệp ước INF để cho phép triển khai tên lửa tầm trung ở châu Á.

Tạp chí National Interest (Mỹ) đăng bài viết của chuyên gia nghiên cứu cấp cao tại Viện Đánh giá Ngân sách và Chiến lược Mỹ Evan Braden Montgomery cho hay:
Hiệp ước loại trừ tên lửa tầm trung (INF) mà Mỹ ký với Liên Xô vào 1987 ngăn cấm 2 nước triển khai tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình tầm trung phóng từ trên bộ, có tầm bắn từ 500 đến 5.500 km, mang đầu đạn hạt nhân hay thông thường. Cuối tháng 7 vừa qua, Bộ ngoại giao Mỹ chính thức xác nhận việc Nga đã vi phạm hiệp ước này bằng việc thử nghiệm một loại tên lửa hành trình mới, mặc dù điều này đã được báo giới đề cập nhiều lần trước đó.
Sự xác nhận này tất yếu dẫn đến nhiều ý kiến về việc Mỹ nên phản ứng như thế nào. Một trong số đó kêu gọi Mỹ xem xét sửa đổi INF để đối phó với nguy cơ ngày càng tăng từ công nghệ tên lửa Trung Quốc. Qua đó mở đường cho việc triển khai tên lửa tầm trung tại Châu Á, đồng thời vẫn tiếp tục không triển khai chúng tại Châu Âu.
my-nen-doi-pho-voi-kho-ten-lua-trung-quoc-nhu-the-nao.jpg

Hình ảnh được cho là của tên lửa đạn đạo tầm trung DF-21C Trung Quốc​
Trung Quốc không chịu sự giới hạn của INF, do đó có thể xây dựng một kho tên lửa tầm trung với số lượng lớn, có thể đe dọa các căn cứ chính và căn cứ tiền phương của Mỹ trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Nếu Mỹ cũng phát triển loại vũ khí tương tự thì họ sẽ tăng khả năng răn đe và xử lý khủng hoảng trong khu vực. Và cũng giống như Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, nếu Trung Quốc bị buộc phải chạy đua vũ trang, họ nhiều khả năng sẽ phải ngồi vào bàn thương lượng và tham gia các hiệp ước cắt giảm quân bị tương tự như INF.
BÀI LIÊN QUAN
Cũng có ý kiến khác phản đối việc Mỹ chỉnh sửa INF và triển khai tên lửa tầm trung tại Châu Á. Nếu được triển khai tại chuỗi đảo thứ nhất, những giàn phóng tên lửa này có thể dễ dàng bị phá hủy trong trường hợp Trung Quốc tấn công trước. Do đó thay vì là vũ khí răn đe, chúng lại khuyến khích việc tấn công phủ đầu.​
Tuy nhiên trừ khi đang trong quá trình chuẩn bị phóng, tên lửa có thể được cất giữ trong những hầm chứa kiên cố. Ngoài ra, các giàn phóng cơ động cũng giúp tăng khả năng tồn tại sau đòn tấn công của đối phương, đặc biệt nếu chúng được triển khai ở những hòn đảo có diện tích lớn như Kyushu (Nhật) và Luzon (Philippines). Những giàn phóng này chỉ cần vài phút để di chuyển sau khi đã phóng tên lửa. Nhật Bản trong một số cuộc tập trận gần đây đã bắt đầu triển khai các giàn phóng tên lửa diệt hạm di động trên các đảo nhỏ ở khu vực tây nam của nước này. Những giàn phóng di động này được xem là phương tiện tối ưu cho tác chiến chống tiếp cận của Nhật đối với Trung Quốc vì khả năng di chuyển ngay sau khi khai hỏa.​
Tên lửa tầm trung tất nhiên không phải là giải pháp duy nhất để kiềm chế Trung Quốc, nhưng chúng có thể gây xáo trộn cho các kế hoạch chiến tranh hiện có của nước này. Để phá hủy những hầm chứa tên lửa kiên cố, Trung Quốc sẽ cần sử dụng tên lửa trang bị đầu đạn xuyên, thay vì đầu đạn chứa bom chùm có thể gây thiệt hại trên diện rộng. Mỗi tên lửa chỉ có thể được trang bị 1 đầu đạn xuyên, do đó Trung Quốc sẽ sử dụng hết cơ số tên lửa của mình nhanh hơn.
Bên cạnh đó, truy tìm và tiêu diệt các giàn phóng di động là 1 nhiệm vụ rất khó khăn, chính quân đội Mỹ từng trải qua điều này khi săn tìm các giàn phóng Scud của Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh. Nó yêu cầu một số lượng lớn các phương tiện trinh sát, thám sát, phương tiện tấn công và các loại vũ khí chính xác được triển khai thường trực, cùng với đó là hệ thống thông tin, chỉ huy luôn trong tình trạng sẵn sàng để nhanh chóng xử lý thông tin trinh sát và ra mệnh lệnh tấn công. Những yêu cầu này đòi hỏi một nguồn lực lớn mà Trung Quốc không thể dùng cho những nhiệm vụ khác.
my-nen-doi-pho-voi-kho-ten-lua-trung-quoc-nhu-the-nao.jpg

Tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio​
Tất nhiên hiện nay Mỹ vẫn có những phương án thay thế cho tên lửa tầm trung, nhưng chúng có những hạn chế riêng. Tàu ngầm rất hiệu quả trong môi trường có sự hiện diện dày đặc của đối phương do chúng rất khó bị phát hiện. Nhưng số lượng vũ khí mà tàu ngầm có thể mang theo khá hạn chế. Khuyết điểm này càng dễ bộc lộ khi tàu ngầm ngày càng phải thực hiện nhiều loại nhiệm vụ hơn.
my-nen-doi-pho-voi-kho-ten-lua-trung-quoc-nhu-the-nao.jpg

Máy bay ném bom B-2 và B-52​
Máy bay ném bom tầm xa có lợi thế là có thể xuất phát từ những căn cứ nằm ngoài tầm tác chiến của máy bay và tên lửa Trung Quốc. Nhưng số lượng máy bay ném bom là có hạn, đặc biệt là những loại có khả năng xuyên thủng hệ thống phòng không như B-2 hay B-1. Ngoài ra, chúng cũng phụ thuộc vào những phương tiện hỗ trợ như máy bay tiếp nhiên liệu trên không và máy bay chế áp điện tử. Ngoài ra, Trung Quốc biết rõ việc Mỹ sở hữu tàu ngầm và máy bay ném bom từ lâu, và chắc chắn đã xây dựng các phương án đối phó.
Tên lửa tầm trung, nếu được triển khai, sẽ không phải là loại vũ khí tác chiến độc lập mà bổ sung cho các phương án tấn công bằng tàu ngầm và máy bay ném bom. Ngoài ra, nó cũng phù hợp với tác chiến đa quân chủng, vì tàu ngầm thuộc về hải quân, máy bay ném bom thuộc về không quân, và tên lửa tầm trung phóng từ trên bộ do lục quân đảm nhiệm.
Việc Nga vi phạm INF một mặt đặt ra câu hỏi về tính bền vững của các hiệp ước kiểm soát và giải trừ quân bị, nhưng mặt khác tạo ra cơ hội để Mỹ tái trang bị những loại vũ khí mà họ có thể cần trong những cuộc xung đột trong tương lai tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
 
Status
Không mở trả lời sau này.